Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Báo cáo "Guanxi vs mạng lưới: những khía cạnh khác nhau của niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính và lý tính của những nhà quản lý Trung Quốc và Mỹ " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.92 KB, 46 trang )


Guanxi vs networking: Distinctive
configurations of affect- and cognition-
based trust in the networks of Chinese vs
American managers

Guanxi vs mạng lưới: những khía cạnh khác nhau của
niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính và lý tính của những nhà quản
lý Trung Quốc và Mỹ
Roy Y J Chua
1
, Mchiael W Morris
2
và paul Ingram
2
1
Havard Business School, Boston, USA
2
Columbia University, Columbia Business School, New York, USA
Địa chỉ thư:

Người dịch: Nguyễn Xuân Quang
Đại học Ngoại thương Hà Nội
Tóm tắt
Nghiên cứu này tìm hiểu giả thuyết về sự khác biệt giữa các nhà quản lý
người Mỹ và người Trung Quốc trong các mối quan hệ tín nhiệm tồn tại trong
mạng lưới nghề nghiệp của họ. Một cuộc điều tra hệ thống về tự kỉ trung tâm
(lấy mình làm trung tâm) cho thấy niềm tin dựa trên tình cảm (niềm tinh cảm
tính) và dựa trên nhận thức (niềm tin lý tính) gắn liền với các nhà quản lý
người Trung Quốc hơn so với những nhà quản lý người Mỹ. Điều này phù
hợp với giả thuyết về chủ nghĩa tập thể gia đình của người Trung Quốc. Ngoài


ra, sự trao đổi kinh tế dựa trên cơ sở niềm tin cảm tính có tác động tích cực
tới người Trung Quốc hơn so với người Mỹ, trong khi đó, tác động của mối
quan hệ tình bạn đối với người Mỹ tích cực hơn so với người Trung Quốc.
Cuối cùng, mức độ gắn bó của một người trong một mối quan hệ nhất định
với các bên thứ ba sẽ tăng cường sự tin tưởng trên cơ sở nhận thức của
người Trung Quốc đối với người đó, chứ không làm tăng cường niềm tin đó
đối với người Mỹ. Điều này đều được ám chỉ trong nghiên cứu văn hóa và
trong các tập quán kinh doanh quốc tế.

Journal of International Business Studies (2009) 40, 490-508
Tạp chí Nghiên cứu Kinh doanh quốc tế (2009) 40, 490-508
GIỚI THIỆU
Ở mọi nơi trên thế giới, trong kinh doanh luôn tồn tại những mối quan
hệ tin tưởng giữa các bên. Tuy nhiên, liệu những mối quan hệ này có phát
triển theo cùng một khuôn mẫu đối với những nền văn hóa khác nhau hay
không? Một chủ đề chính trong nghiên cứu phương Tây về các mối quan hệ
công việc là đạo Tin lành về các mối quan tâm vụ lợi (instrumental concern)
và các mối quan tâm thuộc cảm xúc xã hội tách biệt với nhau (Sanchez-Burks,
2002; Weber, 1904/1930). Trái lại, các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc
nhấn mạnh rằng các mối quan hệ trong công việc kết hợp với các mối quan hệ
vụ lợi và tình cảm. (Bond & Hwang, 1986; Yang, 1994). Không thể phủ nhận
rằng mối quan hệ trong kinh doanh của người Trung Quốc có chứa phần lớn
nhân tố cảm xúc xã hội, tiêu biểu là những món quà tặng cá nhân, các bữa ăn
chung, và việc giới thiệu thành viên gia đình (Pearce & Robinson, 2000;
Trompenaars, 1994; Yang, 1988; Yang, 1994). Mô hình đặc thù của quan hệ
tin tưởng này của người Trung Quốc trong kinh doanh được mô tả bởi nhiều
học giả theo một khái niệm dân gian quen thuộc là guanxi (King; 1991; Lin,
2001). Một số học giả cho rằng những tập quán được gọi là guanxi tồn tại duy
nhất đối ở văn hóa Trung Quốc (Hung, 2004; Lin, 2001; Vanhonacker, 2004),
trong khi những học giả khác đánh đồng những tập quán này với những tập

quán được biết tới như mạng lưới phương tây (Wellman, Chen và Dong,
2001). Nghiên cứu hiện nay mới đi được nửa chặng đường trong quá trình
hình thành các khái niệm khoa học xã hội phương Tây và các phương pháp
nhằm làm sáng tỏ sự khác biệt giữa văn hóa Trung Quốc và văn hóa Mỹ về
hình thái của niềm tin trong mạng lưới nghề nghiệp của các nhà quản lý.
Chúng ta cho rằng việc kinh doanh của người Trung Quốc so với của
phương Tây được phân biệt rõ rệt bởi niềm tin trong các mối quan hệ kiểu gia
đình (family-like), nơi các mối liên hệ tình cảm gắn liền với những trao đổi
mang tính công cụ; và nơi, sự tin tưởng vào một ai đó phụ thuộc phần lớn vào
sự gắn bó của người đó trong hệ thống chung. Chúng tôi phát triển giả thuyết
từ ý tưởng chủ nghĩa tập thể gia đình của người Trung Quốc, hình thành nên
sự khác biệt giữa niềm tin xuất phát từ trái tim (dựa trên cơ sở tình cảm: niềm
tin cảm tính) và niềm tin xuất phát từ cái đầu (dựa trên cơ sở nhận thức: niềm
tin lý tính). (Lewis & Weigert, 1985; McAllister, 1995). Một cách cụ thể,
chúng tôi điều tra mức độ mà hai kiểu niềm tin này gắn bó với nhau trong các
mối quan hệ kinh doanh đối với các nhà điều hành người Trung Quốc so với
các nhà quản lý người Mỹ. Chúng tôi cũng kiểm chứng sự khác biệt văn hóa
trong (a) đặt niềm tin cảm tính vào một người khác liên hệ như thế nào với
việc nhận được các nguồn lực kinh tế và tình bạn trong mối quan hệ và (b)
niềm tin lý tính dành cho một ai đó dựa trên mức độ gắn kết của người đó
vào mạng lưới chung. Chúng tôi tập trung phân tích vào sự tin tưởng, vì nó là
nhân tố vô cùng quan trọng đối với trao đổi xã hội hiệu quả và thường được
viện dẫn trong cả mạng lưới xã hội lẫn trong nghiên cứu guanxi. Các tiếp cận
của nghiên cứu này cho phép chúng ta làm sáng tỏ một cách thường xuyên
những khác biệt đã được bàn tới trong hệ thống mạng lưới nghề nghiệp của
người Mỹ và người Trung Quốc bằng cách làm rõ cấu trúc xã hội của niềm tin
khác biệt giữa hai nền văn hóa trên như thế nào.
CÁC MÔ HÌNH VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ TIN TƯỞNG
Sự tin tưởng dựa trên cảm xúc và dựa vào nhận thức
Nghiên cứu về niềm tin đã phân biệt những đặc tính xác định và đặc

tính biến đổi. Một đặc điểm xác định của sự tin tưởng là sẵn sàng làm tổn
thương mình trước một người khác dù không chắc chắn về động cơ, ý định và
hành động tiếp theo (Kramer, 1999; Mayer, Davis & Schoorman, 1995). Sự
khác biệt chính giữa hai kiểu tin tưởng này là cơ sở của diễn biến tâm lý của
niềm tin (Lewicki & Bunder, 1996; Lewis & Weigert, 1985; McAllister,
1995). Sự tin tưởng dành cho ai đó có thể xuất phát hoặc từ kinh nghiệm cảm
tính (Drolet & Morris, 2000; Lewis & Weigert, 1985; Rempel, Holmes, &
Zanna, 1985) hoặc từ bằng chứng về khả năng, năng lực và độ tin tưởng về
người đó bởi một bên thứ ba (Butler, 1991; Cook & Wall, 1980; Zucker,
1986).
Thật thú vị là sự khác biệt này giữa niềm tin cảm tính và lý tính cũng
được thừa nhận trong diễn ngôn truyền thống của Trung Quốc về sự tin tưởng
(Chen &Chen, 2004). Thực ra, trong tiếng Trung Quốc, từ có nghĩa tương ứng
với sự tin tưởng là từ ghép “xin-ren”- chữ đầu “xin” nói tới sự đáng tin của
một người, nhấn mạnh vào sự chân thành, trong khi đó từ thứ hai “ren” nói tới
sự có thể tin cậy hay sự đáng tin tưởng của một người.
Chủ nghĩa tập thể gia đình của người Trung Quốc
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng văn hóa Trung Quốc khác biệt
ở chủ nghĩa tập thể với việc hướng tới ưu tiên tập thể hơn cá nhân (Brewer &
Chen, 2007; Hofstede, 1980; Markus & Kitayama, 1991; Triandis, 2001).
Trong các tập thể khác nhau của một xã hội, gia đình đặc biệt được coi trọng
và được ưu tiên hàng đầu trong văn hóa Trung Quốc (Hsu, 1971; Lai, 1995;
Lang, 1946; Yang, 1988). Quy tắc coi trọng gia đình bắt nguồn từ đạo Khổng
và tiêu biểu cho chủ nghĩa tập thể gia đình
1
(Bond & Hwang; 1986; Yang,
1988, 1992). Không chỉ những quy tắc về mối quan hệ gia đình được đánh
giá cao, gia đình cũng được coi là một khuôn mẫu về mối quan hệ trong các
lĩnh vực khác của cuộc sống như mối quan hệ nghề nghiệp hoặc các môi quan
hệ kinh doanh (Redding & Wong, 1986; Yang, 1992, 1998).

Vậy chính xác là những tiêu chuẩn nào
2
đã làm nên sự khác biệt trong
mối quan hệ gia đình Trung Quốc? Yang (1998) đưa ra 4 đặc điểm xác định
quan trọng về chủ nghĩa tập thể gia đình:
(1) sự phụ thuộc lẫn nhau
(2) cấu trúc quyền lực theo cấp bậc
(3) sự thống trị của mối quan hệ gia đình đối với các mối quan hệ
khác và
(4) sự ưa thích mô hình gia đình mở rộng
Chúng ta hãy cùng xem xét lần lượt từng đặc điểm trên
Đặc điểm đầu tiên của mối quan hệ gia đình là các thành viên trong gia
đình phụ thuộc lẫn nhau về nguồn lực và sự hỗ trợ, từ lao động tới tài chính.
Đồng thời, mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ,
giữa anh chị em ruột thường rất gắn bó mật thiết về mặt tình cảm, chỉ có tình
yêu trai gái và tình bạn thân thiết mới có thể sánh được. Do vậy mối quan hệ
gia đình có xu hướng kết hợp sự gần gũi tình cảm với những mối quan tâm vật
chất. Những mối quan hệ trong một gia đình được khác biệt hóa cao dựa trên
thứ bậc, mỗi thành viên trong gia đình có đảm nhiệm vai trò và trách nhiệm
cụ thể. Ví dụ, dù cho tình cảm hiện hữu rõ nét trong các mối quan hệ gia đình,
sợi dây tình cảm giữa cha mẹ - con cái được khác biệt hóa rõ nét so với tình
cảm anh chị em trong gia đình. Thứ ba, mối quan hệ tương tác trong gia đình
thường chiếm ưu thế so với những hình thức tương tác xã hội khác. Phần lớn
người Trung Quốc đều dành rất nhiều thời gian quan hệ với các thành viên
trong gia đình trong các bữa ăn cùng nhau và các buổi gặp mặt gia đình đều
đặn. Mối quan hệ gia đình được ưu tiên hơn nhiều so với các mối quan hệ
ngoài gia đình. Thứ tư là người trung Quốc có xu hướng hình thành mạng lưới
gia đình mở rộng. thậm chí nếu như họ không sống cùng một mái nhà, người
Trung Quốc vẫn thích sống gần các thành viên trong gia đình và thăm nom
nhau thường xuyên, giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Mô hình mạng lưới gia

đình mở rộng cho phép các cá nhân tác động tới các nguồn lực của các thành
viên khác trong gia đình về cả khía cạnh công việc lẫn đời sống xã hội.
Giả sử gia đình thường xuyên được coi là khuôn mẫu cho các mối quan
hệ xã hội khác theo văn hóa Trung Quốc, các quy tắc về chủ nghĩa tập thể gia
đình có thể sẽ đặc biệt hữu ích, giúp chúng ta hiểu về các mối quan hệ và
mạng lưới kinh doanh của người Trung Quốc, thường được biết tới với cái tên
guanxi. Các nhân tố làm nên cái gọi là guanxi trong bối cảnh kinh doanh tại
Trung Quốc có thể phản ánh chủ nghĩa tập thể gia đình.
Tiếp theo chúng ta sẽ mô tả những đặc điểm chính của chủ nghĩa tập
thể gia đình của người Trung Quốc nhằm phát triển giả thuyết về mô hình mối
quan hệ tin tưởng trong môi trường kinh doanh Trung Quốc. Một cách cụ thể,
giả thuyết của chúng ta liên quan tới việc thiết lập sự tin tưởng cảm tính và lý
tính trong mạng lưới nghề nghiệp của các nhà quản lý. Trong một mạng lưới
tự kỷ trung tâm (lấy bản thân làm trung tâm), một người đóng vai trò trọng
tâm được nói tới với cái tên “ego”(trung tâm) trong khi những người mà họ
liên lạc trong cùng mạng lưới được gọi là “alters” (thay thế). Chúng ta tập
trung vào mô hình trong đó ego đặt niềm tin (cả hai loại) vào alters với chức
năng nhận các nguồn lực kinh tế và tình bạn từ alters và mức độ mà các mối
quan hệ giữa ego-alter liên kết hòa quện trong mối liện hệ với các bên thứ ba
trong hệ thống. Chúng ta xem xét các tác động của những nhân tố bố sung
trong mạng lưới (network attributes) (mối quan hệ thuộc tính trong hệ
thống) được điều tiết ra sao theo từng quốc gia. Trong giả thuyết này, chúng ta
coi sự tin tưởng là hệ quả của các mối liên hệ, mặc dù chúng ta thừa nhận rằng
các mối liên hệ cũng có thể bị tác động bởi niềm tin. Chúng ta sẽ xem xét vấn
đề về thuyết nhân quả một cách chi tiết hơn ở phần thảo luận
Sự hòa quyện lẫn nhau giữa niềm tin cảm tính và lý tính
Một đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa tập thể gia đình Trung Quốc là
các cá nhân phụ thuộc lẫn nhau không chỉ vì các nguồn lực phương tiện
(instrumenetal resources) mà còn bởi sự hỗ trợ về mặt cảm xúc xã hội. Điều
này có nghĩa là trong hoàn cảnh kinh doanh, ngoài năng lực (competence) và

thành tích đạt được (track record), quan trọng là các đối tác kinh doanh phải
có một mối quan hệ tình cảm. Ít mối quan hệ kinh doanh của người Trung
Quốc phát triển mà không đi đôi với trao đổi cảm xúc xã hội ví dụ như cùng
ăn, tặng quà hoặc quan hệ xã hội với gia đình của nhau. Do đó các mối quan
hệ kinh doanh tin cậy lẫn nhau có xu hướng kết hợp các nhân tố công cụ
(instrumental) và tình cảm: sự tin tưởng dựa trên cảm tính và lý tính do đó có
thể có hòa quyện vào nhau trong hệ thống quan hệ giữa các nhà quản lý Trung
Quốc.
Mặc dù sự hòa trộn giữa mối quan hệ tình cảm gần gũi với công việc
cũng xảy ra trong văn hóa Mỹ nhưng tồn tại những căng thẳng đáng kể làm
biến dạng hai hình thức quan hệ này (Zelier, 2005). Một ảnh hưởng kế thừa
của đạo tin lành (Weber, 1904/1930) cho rằng mối quan hệ về mặt cảm xúc
trong kinh doanh là không chuyên nghiệp. Các quyết định đưa ra tại công sở
phải được chi phối bởi các tiêu chuẩn phi cá nhân về hiệu suất và hiệu quả.
Đồng thời, các quy tắc về tình bạn của phương tây có nói tới quy tắc tình bạn
đích thực là không vụ lợi (không tính toán tới những lợi ích công cụ/phương
tiện (instrumental) (Silver, 1990). Do vậy một mối quan hệ trong đó hòa trộn
công việc và tình cảm thân thiết có nguy cơ vi phạm các quy tắc của phương
Tây về công việc và tình bạn. Ví dụ, trong nghiên cứu của mình về các nhà
quản lý khách sạn người Úc, Ingram và Roberts (2000: 418) đã chỉ ra rằng
“khi họ có bạn trong số những người quản lý khách sạn khác thì những quản
lý khách sạn đó không còn là bạn thân nhất của họ nữa. Nhân tố công
cụ/phương tiện có lẽ đã hạn chế họ về phương diện tình cảm. Nếu tính công
cụ và tình cảm trong cùng một mối quan hệ tạo căng thẳng cho người Mỹ, họ
có thể giảm bớt khả năng tạo dựng niềm tin cảm tính và lý tính với cùng một
người. Do vậy chúng ta cho rằng mặc dù niềm tin cảm tính và lý tính có thể
cùng xảy ra trong những mối quan hệ kinh doanh của người Mỹ (McAllister,
1995) thì những điều này phổ biến hơn đối với các doanh nhân Trung Quốc
trong hoàn cảnh quy chuẩn của chủ nghĩa tập thể gia đình.
Giả thuyết 1: Sự tin cậy trên cơ sở cảm tính và lý tính có thể gắn bó

chặt chẽ hơn trong hệ thống nghề nghiệp của các nhà quản lý Trung Quốc so
với các nhà quản lý Mỹ.
Mối quan hệ phụ thuộc về kinh tế và niềm tin cảm tính
Suy luận sâu xa hơn từ ý tưởng cho rằng người Mỹ cảm thấy căng
thẳng khi kết hợp sự gần gũi về tình cảm trong các mối quan hệ công việc,
chúng ta cho rằng các nhà quản lý người Mỹ sẽ hạn chế sự gần gũi mật thiết
về mặt tình cảm với những người mà họ phụ thuộc về mặt nguồn lực kinh tế
(ví dụ: phân bổ ngân sách, vấn đề tài chính và các khoản nợ cá nhân). Như đã
thảo luận ở phần trước, theo khái niệm của người phương Tây, tình bạn là một
mối quan hệ không bị ràng buộc bởi mục đích vụ lợi (instrumental purposes)
(Silver, 1990). Sự tách biệt giữa tình cảm và công việc sẽ tăng lên khi các
nguồn lực kinh tế bị đe dọa. Điều này là do tiền, không giống như thông tin và
lời khuyên trong công việc (task advice), có thể thay thế được cho các nhân
tố khác và có thể định lượng. Do đó, về bản chất tiền là đối tượng trao đội cụ
thể, gắn liền với các tương tác vụ lợi hơn là những trao đổi chung, gắn liền với
tương tác cảm tính (Bearman, 1997; Flynn, 2005; Sahlins, 1972). Do có sức
ép giưa việc trao đổi kinh tế với yếu tố tình cảm, chúng ta cho rằng trong hệ
thống nghề nghiệp của người Mỹ, sự phụ thuộc về mặt kinh tế trong một mối
quan hệ nhất định không có quan hệ tích cực đối với niềm tin cảm tính.
Trái lại, xu hướng của chủ nghĩa tập thể gia đình trong văn hóa
Trung Quốc bỏ qua sự tách biệt (the bending) của các mối quan hệ mang tính
chất tình cảm và phương tiện. Một cách cụ thể, các nhà dân tộc học đã lưu ý
về sự hòa trộn giữa tình cảm gần gũi với những mối quan hệ phụ thuộc về mặt
kinh tế (Hsu, 1953). Khuynh hướng hòa quyện tình cảm với trao đổi kinh tế
cũng được mở rộng ngoài phạm vi gia đình tới các mối quan hệ công việc và
kinh doanh. Ví dụ, những người cung cấp hỗ trợ về mặt kinh tế (ví dụ: các
khoản vay, việc làm và các cơ hội đầu tư) có gắn bó tình cảm ở mức độ gia
đình. Mối quan hệ trở nên riêng tư thông qua những lời mời tham dự các sự
kiện tổ chức trong nội bộ gia đình ví dụ như cùng ăn tối hoặc tham gia tiệc
sinh nhật. Nói một cách khác, mối quan hệ phụ thuộc về mặt kinh tế gắn liền

với (overlaid with) tình cảm thân thiết gắn bó. Do vậy, đối với các nhà quản
lý Trung Quốc, sự tồn tại của sự phụ thuộc kinh tế trong một mối quan hệ có
thể làm tăng sự tin tưởng trên cơ sở tình cảm.
Giả thuyết 2a: Sự hiện diện của mối quan hệ phụ thuộc về mặt kinh tế
liên quan tích cực hơn tới sự tin tưởng trên cơ sở tình cảm đối với các nhà
quản lý Trung Quốc so với các nhà quản lý người Mỹ.
Môi quan hệ bạn bè và sự tin tưởng trên cơ sở tình cảm
Sự tin cậy trên cơ sở tình cảm có xu hướng liên quan tới mối quan hệ
bạn bè hơn là các mối quan hệ phi bạn bè trong mạng lưới hoạt động của các
nhà điều hành quản lý (Chua, Ingram & Morris, 2008). Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng sự tin tưởng trên cơ sở tình cảm xoay quanh quan hệ bạn bè của
người Trung Quốc ở mức thấp hơn so với người Mỹ. Một đặc điểm của chủ
nghĩa tập thể gia đình được phản ánh trong 3 mối quan hệ gia đình trong các
mối quan hệ chính yếu của đạo Khổng (quan hệ cha-con, vợ - chồng, anh trai-
em trai) đều là quan hệ thứ bậc. Những quan hệ thứ bậc kiểu này gần gũi về
mặt tình cảm theo một cách khác biệt so với mối quan hệ bạn bè. Trong khi
người Mỹ có thể kết bạn với một giáo viên được mọi người yêu quý hoặc một
người địa vị cao hơn thì người Trung Quốc lại có nhiều khả năng phát triển
mối quan hệ tình cảm với những người này mà không kết bạn với họ. Tình
cảm này có thể bao gồm sự ngưỡng mộ và sự tôn trọng, tôn kính chứ không
phải là sự cảm thông và đồng cảm như trong tình bạn (Morris, Podolny, &
Sullivan, 2008). Tương tự như vậy, một người Trung Quốc sẽ ít có khả năng
coi một người địa vị thấp hơn là bạn. Tóm lại, tình bạn chỉ là (is but one of)
một trong nhiều nguồn phân biệt (differentiated sources) để từ đó phát triển
sự tin tưởng trên cơ sở tình cảm trong văn hóa Trung Quốc. Hơn nữa, nếu
quan hệ gia đình thống trị các mối quan hệ khác thì quan hệ bạn bè thường ít
được coi trọng hơn so với tình cảm gia đình, do vậy, sẽ tương đối khó để dự
báo khả năng hình thành niềm tin trên cơ sở tình cảm từ mối quan hệ bạn bè.
(hence should be comparatively less predictive of affect-based trust).
Trái lại, các quy tắc trong văn hóa Mỹ không nhấn mạnh vai trò

cấp bậc đến như vậy (Hofstede, 1980). Ví dụ, coi giáo viên hoặc một người
địa vị cao hơn mình là bạn là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Cũng như vậy,
trong văn hóa chủ nghĩa quân bình của Mỹ, quan hệ bạn bè thường được nhấn
mạnh ở cùng mức độ như các mối quan hệ khác, ví dụ quan hệ trong gia đình.
Do vậy nhìn chung bạn bè thường cùng tồn tại với sự thân mật về tình cảm.
Do đó, chúng tôi đặt giả thuyết cho rằng tình bạn cùng biến đổi với sự tin
tưởng trên cơ sở tình cảm ở mức độ lớn hơn trong mạng lưới kinh doanh của
người Mỹ so với người Trung Quốc.
Giả thuyết 2b: Mối quan hệ giữa tình cảm bạn bè với niềm tin cảm tính
tích cực hơn đối với các nhà quản lý người Mỹ so với người Trung Quốc.
Sự gắn bó và niềm tin trên cơ sở nhận thức
Cuối cùng chúng ta xem xét sự gắn bó của một alter sẽ có ảnh hưởng
thế nào tới niềm tin trên cơ sở nhận thức của ego dành cho người đó. Một đặc
điểm quan trọng của chủ nghĩa tập thể gia đình Trung Quốc là sự hiện diện
của cơ cấu gia đình mở rộng, bởi vì mô hình này tạo phương tiện tận dụng
khai thác các nguồn lực trong hệ thống các thành viên trong gia đình và họ
hàng. Khi quy tắc tương tác xã hội này được áp dụng trong mối quan hệ công
việc và kinh doanh thì người Trung Quốc có xu hướng tận dụng mạng lưới
quan hệ xã hội của họ để hoàn thành công việc và giải quyết các rắc rối. Điều
này ám chỉ sự chú ý tới các mối quan hệ gián tiếp, sự kết nối các cộng sự của
họ tới các bên thứ 3 (Ho, 1976, 1998). Các nhà quản lý người Trung Quốc vun
đắp các mối quan hệ không chỉ với những người trực tiếp nắm giữ chuyên
môn hoặc các nguồn lực, mà còn với những người có mối quan hệ với những
người trên. Những người có mối quan hệ với những người trực tiếp nắm giữ
chuyên môn hoặc nguồn lực được coi là có giá trị lợi dụng (instrumentally
valuable) không chỉ bởi vì những gì họ trực tiếp cung cấp mà còn bởi những
gì họ gián tiếp có thông qua những mối quan hệ. Chúng ta cho rằng mọi người
đánh giá khả năng quan hệ của người khác một phần dựa trên các mối liên hệ
mà họ nhận thấy ở người đó. Do đó, các nhà quản lý người Trung Quốc đánh
giá cao những alters có các mối quan hệ gắn kết vì khả năng sẽ nhận được trợ

giúp từ phía những người này.
Hơn thế, những alter có tính gắn kết được coi là đáng tin cậy.
Một alter càng có nhiều quan hệ gắn kết trong mạng lưới của ego thì chi phí
xã hội của alter tác động lên ego càng cao. Với việc các quy phạm trong chủ
nghĩa tập thể gia đình của Trung Quốc khiến các nhà quản lý trở nên nhạy
cảm hơn với sự ủng hộ xã hội tiềm năng từ những người khác trong mạng lưới
của họ (Tong & Yong, 1998; Xiao & Tsui, 2007; Yang, Van de Vliert, & Shi,
2005) thì sự gắn kết sẽ có hiệu quả cao hơn đối với người Trung Quốc giống
như một hình thức bảo hiểm xã hội. Do đó, mối quan hệ gắn bó của alter có
thể làm tăng nhận thức của ego về độ tin cậy của các alter. Nhận thức về độ
tin cậy và năng lực tăng cường của alter sẽ làm tăng niềm tin trên cơ sở nhận
thức/lý tính của ego đối với alter đó.
Trái lại, trong văn hóa Mỹ người ta nhấn mạnh vào các thành tích
và thành công cá nhân (Oyserman & Markus, 1993; Triandis, 1995). Mặc dù
những doanh nhân người Mỹ cũng viện đến sự giúp đỡ từ phía những người
khác, ít có khả năng họ nhờ tới các mối quan hệ của các cộng sự. Ngoài ra,
bởi vì chủ nghĩa cá nhân làm cho người mỹ bớt lo lắng về sự tán thành của xã
hội hơn so với người Trung Quốc (Markus & Kitayama, 1991; Oyserman,
1993), sự gắn kết của các alter có lẽ không hiệu quả bằng hình thức bảo hiểm
xã hội chống lại tình trạng ly khai (against defection). Do vậy, tác động của
mối quan hệ gắn kết lên nhận thức về độ tin cậy sẽ không mạnh như vậy. Tóm
lại, chúng ta dự đoán rằng sự gắn kết của alter sẽ có tác động tích cực hơn
nhiều tới niềm tin trên cơ sở nhận thức của người Trung Quốc so với người
Mỹ.
Giả thuyết 3: Mức độ gắn kết của một alter trong hệ thống của ego sẽ
làm tăng sự tin tưởng trên cơ sở nhận thức của ego ở mức độ lớn hơn đối với
người Trung Quốc so với người Mỹ.
Khi bàn về chủ đề sự gắn kết thì cũng cần xem xét mối liên hệ giữa sự
gắn kết và niềm tin trên cơ sở tình cảm. Dựa trên quan điểm của Coleman
(1990) cho rằng mật độ cao thúc đẩy tính thống nhất, do vậy có thể tồn tại

hiệu ứng tích cực. Chua et al. (2008) nhận thấy hiệu ứng này trên một mẫu các
nhà điều hành ở Mỹ. Chúng ta tin rằng tác động tích cực lên niềm tin cảm tính
do sự gắn kết của alter cũng tồn tại ở các nhà điều hành người Trung Quốc.
PHƯƠNG PHÁP
Các đối tượng tham gia và hoàn cảnh nghiên cứu
Chúng ta kiểm nghiệm giả thuyết trên sử dụng các dữ liệu hệ thống tự
kỷ trung tâm (egocentric) thu thập từ các nhà quản lý tham dự khóa học MBA
dành cho các nhà điều hành ở cả Trung Quốc (Bắc Kinh, Thượng Hải, và Quế
Châu) và Mỹ. Hai nguồn dữ liệu được thu thập. Nguồn dữ liệu thứ nhất
(N=231) bao gồm 143 người Trung Quốc (trong đó 75% là nam) và 88 nhà
quản lý người Mỹ (75% là nam giới). Nguồn dữ liệu thứ hai (N=102), được
thu thập gần 1 năm sau khi thu thập nguồn dữ liệu thứ nhất, bao gồm 60 người
Trung Quốc (trong đó 82% là nam giới) và 42 nhà điều hành người Mỹ (81%
là nam giới). Bởi vì kết quả liên quan tới giả thuyết đặt ra là giống nhau trong
cả hai nghiên cứu với 2 nhóm dữ liệu trên, chúng tôi đã kết hợp hai nguồn dữ
liệu này, đưa đến tổng số 203 đối tượng tham gia nghiên cứu là người Trung
Quốc và 130 đối tượng tham gia nghiên cứu là người Mỹ.
Tuổi trung bình của những đối tượng tham gia này là 36. Đối với mẫu
nghiên cứu người Mỹ, ngành nghề phổ biến nhất là công nghệ thông tin
(22%), tài chính ngân hàng (19%), và tư vấn (16%). Các đối tượng tham gia
nghiên cứu có đặc trưng là nắm giữ những vị trí quản lý trong các công ty lớn.
Ví dụ, nhiều người trong số họ là phó giám đốc, giám đốc điều hành ở những
ngân hàng và các định chế tài chính nổi tiếng thế giới, hoặc là giám đốc điều
hành tại các công ty tư vấn hàng đầu. Những đối tượng tham gia khác nắm giữ
các vị trí điều hành trong các công ty nhỏ hơn (ví dụ: giám đốc điều hành của
một công ty gia đình chuyên về in ấn). Đối với mẫu là người Trung Quốc,
ngành nghề phổ biến của họ là dược/y tế (chiếm 45%), sản xuất (10%), tư vấn
(8%) và công nghệ thông tin (7%). Nhiều người trong số họ nắm giữa vị trí
điều hành chung (khoảng 35%), trong khi những người khác quản lý trong
lĩnh vực kinh doanh/marketing (17%), nghiên cứu và phát triển sản phẩm

(14%) và phát triển kinh doanh (14%).
Quy trình
Những đối tượng tham gia nghiên cứu (các ego) hoàn thành một cuộc
điều tra hệ thống trong đó yêu cầu họ liệt kê tới 24 mối quan hệ (các alter) mà
họ cho là quan trọng nhất trong mạng lưới nghề nghiệp của mình. Những
alters này không hạn chế ở những người tại nơi làm việc của họ. Với mỗi mối
quan hệ được liệt kê, các đối tượng tham gia nghiên cứu được yêu cầu cung
cấp chi tiết bản chất của mối quan hệ đó (ví dụ: mức độ thường xuyên gặp gỡ
quan hệ và thời gian quen biết). Những người tham gia này cũng phải chỉ rõ
liệu có bất kì mối liên hệ nào tồn tại giữa những người họ đã liệt kệ là có quan
hệ hay không.
Các thước đo
Niềm tin cảm tính và lý tính. Các thước đo của niềm tin trên cơ sở tình
cảm (cảm tính) và trên cơ sở nhận thức (lý tính) được phỏng theo những thang
điểm sử dụng trong nghiên cứu của McAllister (năm 1995). Đối với niềm tin
cảm tính, các đối tượng tham gia phải chỉ rõ 5 thang điểm (1=không một chút
nào, 5=ở mức độ cao) về mức độ họ cảm thấy thoải mái khi tìm tới mỗi đối
tượng mà họ đã liệt kê là có quan hệ với mình nhằm (1) chia sẻ những rắc rối
và khó khăn cá nhân và (2) chia sẻ những mơ ước và hy vọng của bản thân.
Những thang điểm sẽ cho thấy mức độ cảm xúc bị phụ thuộc và bị tổn thương
trước một người khác ra sao. Đối với niềm tin lý tính, các đối tượng tham gia
chỉ rõ 5 thang điểm như trên về mức độ tin cậy của một đối tượng thuộc danh
sách các mối quan hệ trong việc (1) hoàn thành nhiệm vụ mà anh ta/hoặc cô ta
hứa sẽ thực hiện và (2) có kiến thức và năng lực để thực hiện nhiệm vụ.
Những thang điểm này sẽ nắm bắt mức độ sẵn sàng phụ thuộc vào người khác
trên cơ sở bằng chứng. Chúng ta chỉ sử dụng hai thang điểm đánh giá đối với
mỗi loại niềm tin phần lớn là nhằm giảm thiểu sự mệt mỏi của những người
tham gia: trong những cuộc điều tra hệ thống, những người tham gia phải trả
lời một loạt các câu hỏi như nhau với số lần bằng với số mối quan hệ họ đã
liệt kê ra trước đó. Tuy nhiên, với việc các thang điểm được lựa chọn đã được

đưa ra trên cơ sở những đối tượng có khả năng mang thông tin cao (adapted
from high-loading items) (0.80 ở trên) tại những nghiên cứu đã được xuất
bản trước đó (Levin&Cross, 2004; McAllister, 1995), họ nên nắm bắt chủ yếu
2 nhân tố gây dựng niềm tin
3
.
Để đảm bảo rằng niềm tin cảm tính và lý tính là 2 khía cạnh của niềm
tin, chúng tôi thực hiện những phân tích nhân tố khẳng định đa cấp
4

(multilevel cònirmatory factor analyses) sử dụng mô hình đẳng thức (LISREL
8.80) đối với 4 đối tượng niềm tin. Cụ thể, chúng tôi kết hợp hai mô hình
(một mô hình một nhân tố với 4 đối twọng trên một nhân tố duy nhất và
các đối tượng niềm tin lý tính áp dụng then 2 nhân tố tách biệt) đối với các dữ
liệu của người Trung Quốc và người Mỹ tách biệt nhau. Những kết quả chỉ ra
rằng, với mẫu người Mỹ, mô hình 2 nhân tố
phù hợp với số liệu của chúng tôi nhiều
hơn mô hình một nhân tố
. Tương tự, với
mẫu là người Trung Quốc, chúng tôi tìm ra rằng mô hình 2 nhân tố
phù hợp với số liệu hơn nhiều so với mô
hình một nhân tố
. Những kết quả này
chỉ ra rằng niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính và lý tính là 2 nhân tố tách biệt
đối với cả người Mỹ và người Trung Quốc.

Các nội dung liên quan. Những người tham gia được yêu cầu xác định
trong nghiên cứu mạng lưới, nhân tố nào trong những nguồn lực sau được lấy
từ mỗi thành viên của mạng lưới:
(1) các nguồn lực kinh tế;

(2) tình bạn và các hoạt động giải trí xã hội;
(3) thông tin hoặc lời khuyên nhằm hoàn thành nhiệm vụ; và
(4) thông tin về chỉ dẫn nghề nghiệp và các cơ hội.
Mặc dù các giả thuyết của chúng tôi chỉ tập trung vào sự độc lập kinh tế
và gắn kết của tình bạn, chúng tôi nhận được 2 loại hình trao đổi nổi bật khác
do những nhân tố này là phổ biến trong tương tác quản lý. Nội dung của
những ràng buộc của mạng lưới được nắm bắt thông qua việc sử dụng những
mã giả, có nghĩa là, được đánh dấu “1” nếu dạng cụ thể của nguồn lực đang
được hấp thụ và 0 nếu ngược lại. Bốn hạng mục trên không có tính loại trừ
nhau, do đó một alter sẵn có có thể đưa ra nhiều nguồn lực.
Sự gắn liền của Alter: Những thành viên chỉ ra liệu những mối quan hệ
tích cực có tồn tại trong những alter được liệt kê không thông qua việc điền
vào một bán ma trận (half-matrix) trong đó mỗi ô đại diện cho mối quan hệ
giữa 2 alters. Cụ thể, người ta nói với những người tham gia rằng những mối
quan hệ tích cực có thể gần gũi (có nghĩa là, khi những người làm việc rất gần
nhau hoặc có mối quan hệ tình bạn thân thiết) hoặc không đặc biệt gần gũi (có
nghĩa là những người biết nhau nhưng không giao tiếp thường xuyên, hoặc
không phải là bạn thân, hoặc đối thủ). Sự gắn liền của alter là số lượng các
mối liên hệ tích cực được quan sát tồn tại giữa một alter và những thành viên
khác của mạng lưới trên (chia cho) tổng mối liên hệ có thể diễn ra mà alter
này có thể có với những thành viên khác này (ngoại trừ những mối liên hệ
giữa alter và ego). Chúng tôi cũng thu thập dữ liệu về những mối quan hệ tiêu
cực giữa những alter, nhưng những mối quan hệ này là tương đối hiếm và
không có bất kỳ hiệu ứng nào đối với giả thuyết của chung tôi.
Các biến điều chỉnh
Quy mô mạng lưới: Các lý thuyết mạng lưới thường giả định rằng cá
cá nhân có khả năng quan hệ tiềm tàng, và rằng các chi phí cảm tính và lý tính
của việc quy trì các mối quan hệ đã đặt ra một giới hạn trên (giới hạn trần) đối
với số lượng của các mối quan hệ mà bất kỳ cá nhân nào có thể duy trì một
cách hiệu quả (Granovetter, 1973). Trong ngữ cảnh của chúng ta, có khả năng

những cá nhân có khả năng hạn chế trong việc bổ sung những người tin cậy
mới vào mạng lưới của họ. Ngược lại, những mạng lưới lớn hơn cũng có thể
tạo ra niềm tin, có lẽ thông qua việc cung cấp ego nhiều kinh nghiệm quan hệ
hơn. Với những lý do này, chúng tôi đã điều chỉnh quy mô mạng của ego,
được toán tử hóa như tổng các mối quan hệ được đưa ra (operationalize as
the total of listed contacts) trong mạng lưới của mỗi người tham gia.
Độ dài mối quan hệ. Niềm tin có xu hướng cao hơn khi độ dài của mối
quan hệ dài hơn. Biến này là số lượng năm ego biết alter.
Độ thường xuyên của giao tiếp: Ego càng thường xuyên giao tiếp với
alter, ego càng biết về năng lực và độ tin cậy của alter (Burt, 2005). Thêm
vào đó, những ràng buộc quan hệ mạnh hơn có thể được củng cố (forged).
Hơn thế, độ thường xuyên của giao tiếp có tác động tích cực trực tiếp lên cả
niềm tin cảm tính và lý tính. Chúng tôi đo độ thưỡng xuyên của giao tiếp trên
cơ sở mức độ thường xuyên ego nói chuyện vơi alter. Các thành viên được
yêu cầu lựa chọn một trong số sau đối với mỗi quan hệ (contact) được liệt
kê:
(1) hàng ngày;
(2) hàng tuần;
(3) hàng tháng; và
(4) không thường xuyên
Chúng tôi mã hóa lại (recode) những lựa chọn thành một biến duy nhất
ví dụ “1” đại điện cho việc không thường xuyên tiếp xúc và “4” đại diện cho
tiếp xúc hàng ngày.
Các đặc tính của alter: Chúng tôi tìm hiểu liệu alter:
(1) cùng đơn vị làm việc với ego;
(2) không cùng đơn vị làm việc, nhưng cùng tổ chức với ego;
(3) nằm ngoài tổ chức của ego.
Những chỉ số này được mã hóa thành 2 biến giả (dummy): “alter cùng
đơn vị làm việc với ego” và “alter không cùng tổ chức với ego”. Nhóm thứ
ba “khác đơn vị làm việc, nhưng trong cùng tổ chức với ego” bị loại trừ ra

khỏi đối tượng phân tích. Chúng tôi cũng xem xét những biến dân số khác như
độ tuổi, cấp bậc (ca của hơn, thấp hơn hay ngang hàng) của alter, và liệu họ
có khác biệt về mặt giới tính hoặc chủng tộc với ego không. Những chỉ số này
sau đó được tái mã hóa thành 2 biến giả “cấp bậc cao hơn” và “cấp bậc thấp
hơn”; “cấp bậc ngang bằng” bị loại trừ khỏi đối tượng được phân tích. ĐỐi
với khác biệt về giới tính và chủng tộc, thành viên chỉ chỉ định liệu alter có
giới tính hoặc chủng tộc khác không (được đánh dấu “1” nếu ego và alter
khác biệt xét trên cơ sở dân số và “0” nếu ngược lại).
Hàm số về công việc và ngành nghề của ego. Nhằm điều chỉnh những
ảnh hưởng có thể xảy ra mà hàm nghề nghiệp và công nghiệp tác động lên
niềm tin, chúng tôi đã bổ sung miêu tả công việc của những người tham gia từ
nhóm “face book” và mã hóa chúng thành 8 ngành công nghiệp chính (tài
chính/ngân hàng, tư vấn, sản phẩm tiêu dùng, thuốc/dược liệu, truyền thông,
sản xuất, công nghệ thông tin và các đối tượng khác). Biến giả đối với những
nhóm này được sử dụng như biến điều chỉnh trong phân tích hồi quy.
Phân tích
Các biến trong số liệu của chúng tôi được phân bố theo thứ bậc. Cụ thể,
gần 24 mối quan hệ 2 người được gắn liền với một ego có trước. Niềm tin,
biến độc lập của chúng tôi, được khái niệm hóa và tín toán theo mức độ 2
người, cũng như những biến khác như mức độ thường xuyên của tương tác và
thời gian quen biết. Trong số liệu của chúng tôi, tín nghiệm được tín toán theo
một hướng duy nhất, có nghĩa là, chúng tôi chỉ đánh giá mức độ trong đó ego
tin cậy alter mà không phải chiều ngược lại. Các biến khác như quy mô mạng
lưới là các nhân tố cấu thành ở cấp độ cao hơn và được tính toán tại cấp độ
mạng lới đối với mỗi ego.
Một mối quan tâm về mặt phương pháp trong phân tích của chúng tôi là
những quan sát không độc lập xét trên khía cạnh mỗi ego gắn liền với rất
nhiều alter. Phân tích không tính toán đến những cấu trúc thông tin được đưa
vào (nested data) có thể dẫn tới việc diễn giải sai những tác động của một
mạng lưới nhất định (Klein, Dansereau, & Hall, 1994). Nhằm giải quyết vấn

đề này, chúng tôi xem xét những mô hình tác động cố định và ngẫu nhiên , hai
phương pháp tiếp cận quen thuộc nhằm điều chỉnh tác động của một ego nhất
định lên những quan sát đa dạng (Hausman, Hall, & Griliches, 1984; Hofman,
Griffin, & Gavin, 2000), Trong những phân tích của chúng tôi, cả hai phương
pháp tiếp cận đều cho kết quả như nhau. Chúng tôi báo cáo những kết quả từ
những mô hình các tác động ngẫu nhiên (còn được biết đến như mô hình
tuyến tính theo cấp bậc_ do những mô hình này cho phép phán đoán các tác
động nội tại và giữa mạng lưới đối với niềm tin. Phương pháp này sẽ không
chỉ cho chúng ta những tính toán hệ số đối với những biến ở cấp độ alter (ví
dụ, thời gian quen biết) mà còn cho chúng ta biết những biến ở cấp độ ego,
quốc gia cụ thể và quy mô mạng lưới ego đặc biệt quan trọng. Mô hình tác
động ngẫu nhiên yêu cầu phải giả thuyết rằng những lỗi ngẫu nhiên gắn liền
với mỗi đơn vị liên ngành (cross-sectional) (ego) không tương quan
(correlate) với những biến hồi quy (regressors) khác. Sử dụng phép thử của
Hausman (1978), chúng ta thấy giả thuyết này đúng đối với phân tích của cả
hai loại niềm tin. Nghiên cứu mạng lưới trước đây cũng đã sử dụng các hiệu
quả ngẫu nhiêu nhằm giải quyết vấn đề không độc lập của số liệu (Cross &
Sproull. 2004)
Các kết quả
Bảng 1 chỉ ra những số liệu miêu tả (descriptive) và mối quan hệ lẫn
nhau giữa các biến. Bảng 2 chỉ ra những kết quả hồi quy. Trong các Mô hình
1 – 4 niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính là một biến độc lập, trong khi ở Mô
hình 5- 8 niềm tin dựa trên cơ sở lý tính là biến độc lập. Chúng ta sẽ tìm hiểu
lần lượt từng mô hình khi chúng ta xem xét các giả thuyết.
Mô hình 1 và 5 là mô hình cơ sở, bao gồm tất cả các biến quan trọng và
các biến điều chỉnh. Mô hình 2 bổ sung thuật ngữ tương tác niềm tin dựa trên
cơ sở lý tĩnh * quốc gia, trong khi Mô hình 6 bổ sung thuật ngữ tương tác nính
nhiệm dựa trên cơ sở cảm tính * quốc gia. Các kế hoạch chỉ ra rằng các hệ số
tương tác niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính * quốc gia (Mô hình 2: b = -0,11;
p<0.01) và tương tác niềm tin dựa trên cơ sở lý tính * quốc gia (Mô hình 6:

b= -0,15; p<0,01) là âm và lớn. Do chúng ta đã mã hóa các biến quốc gia là 1
đối vơi Mỹ và 0 đối với Trung Quốc, điều này có nghĩa
Bảng 1: Số liệu miêu tả và tương tác
Nước: Mỹ (N=131)
1. Niềm tin cảm tính

2. Niềm tin lý tính
3. Tình bạn
4. Lời khuyên trong cv
5. Phụ thuộc kinh tế

6. Thông tin và hướng
dẫn nghề nghiệp

7. Vị trí Alter cao hơn
ego
8. Vị trí Alterthấp hơn
ego
9. Alter khác giới tính
ego
10. Alter khác dân tộc
với ego

11. Mức độ gắn kết
của later
12. Cường độ tương
tác
13. Thời gian mối
quan hệ
14. Quy mô mạng lưới

15. Ego là đàn ông
16. Alter trong đơn vị
làm việc của ego
17. Alter không trong
tổ chức của ego

18. Tuổi của alter



T B
T B
Nước: Trung Quốc
(N=203)
1. Niềm tin cảm tính

2. Niềm tin lý tính
3. Tình bạn
4. Lời khuyên trong cv
5. Phụ thuộc kinh tế

6. Thông tin và
hướng dẫn
nghề nghiệp
Bảng 1: Tiếp tục
7. Vị trí Alter cao
hơn ego
8. Vị trí Alterrthấp
hơn ego
9. Alter khác giới

tính ego
10. Alter khác dân
tộc với ego

11. Mức độ gắn
kết của later
12. Cường độ
tương tác
13. Thời gian mối
quan hệ
14. Quy mô mạng
15. Ego là nam
16. Alter trong đơn vị
là iệc của ego
17. Al r không
tr ổ chức
của ego
18. Tuổi của alter
m v
te
ong t



























Chặn

Các biến chủ yếu
Quốc gia

Niềm tin lý tính
Niềm tin cảm tính

Ràng buộc phụ thuộc kinh tế
Ràng buộc tình bạn
Ràng buộc lời khuyên trong
công việc
Ràng buộc chỉ dẫn nghề nghiệp

Mức độ gắn kết của Alter
Các tương tác quốc gia cơ
bản
Quốc gia* niềm tin lý tính (H1)
Quốc gia* niềm tin cảm tính (H1)
Quốc gia* ràng buộc phụ
thuộc kinh tế (H2a)
Quốc gia* ràng buộc tình bạn

Quóc gia * ràng buộc lời
khuyên trong công việc
Quốc gia* ràng buộc hướng
dẫn nghề nghiệp
Quốc gia* mức gắn kết của alter (H3)
Các biến điều chỉnh
Quy mô mạng lưới
Biến
p
h

thu

c Mô hình
Ni
ềm tin cảm tính
Ni
ềm tin lý tính
Bảng 2: Hồi quy các tác động ngẫu nhiên đối với niềm tin cảm tính và lý tính

















Bảng 2: tiếp theo
Biến ph






Ego là

Độ dài m
hệ
Độ th
xuyên t
Alter khác t
chức

Alter cùng
vị với e
Vị
hơn e
Vị
trí thấ
Tuổi c

Khác bi
giữa e

Khác bi
giữa alter
Số lượ
sát theo c
Mô hình R
Thay đổ
ụ thuộc
nam
ối quan
ường
ương tác

ego
đơn
go
trí Alter cao
go
trí Alter có vị
p hơn ego

ủa alter
ệt giới
go và alter
ệt dân tộc
và ego
ng quan
ặp
2

i Chi-square

Niềm tin cảm tính Niềm tin lý tính
Mô hình
Các b
gian.
Các b
của a
Các h
Nhữn
đơn thu
Mỹ
iến điều chỉnh đối với hàm công nghiệp và nghề nghiệp không được đưa ra do hạn chế về không
iến liên tục được sử dụng dưới dạng tương tác (ví dụ, niềm tin cảm tính và lý tính, mức độ gắn kết
lter) đã được tính trung bình.
ệ số được nên ở trên chưa được chuẩn hóa. Các lỗi tiêu chuẩn được đưa trong ngoặc đơn.
g thay đổi chi-square với mô hình 1 và 5 bắt nguồn từ việc so sánh mô hình đã đó với một mô hình
ần liên tục.
được đánh mã 1, Trung Quốc được đánh mã 0

ý

Niềm tin l tính
Không tồn tại Tồn tại
Ràn
g
bu

c
p
h

thu

c kinh tế
Biểu đồ 1: Những tác động của quốc gia* ràng buộc phụ thuộc
kinh tế tới niểm tin cảm tính
Niềm tin cảm tính

Không tồn tại Tồn tại

R
àn
g
bu

c t
ì
nh b

n
Biểu đồ 2: Những tác động của quốc gia*ràng buộc tình bạn tới

niểm tin cảm tính
là sự lệ thuộc lẫn nhau giữ niềm tin dựa trên cơ sở lý tính và cảm tính ở
Trung Quốc mạnh hơn so với ở Mỹ. Trên thực tế, tương quan giữa 2 loại niềm
tin là 0,55 đối với mẫu Trung Quốc và 0,35 đối với mẫu Mỹ. Hai tương quan
này là khác biệt đáng kể (z= 10,30; p<0,01). Do đó, giả thuyết 1 được hỗ trợ.
Nhằm kiểm chứng Giả thuyết 2a và 2b, Mô hình 3 trong Bảng 2 bổ
sung quốc gia * các thuật ngữ tác động quan hệ- nội dung (relational-
content) đối với 4 loại ràng buộc mạng lưới (ràng buộc phụ thuộc kinh tế,
ràng buộc tình bạn, ràng buộc nhiệm vụ- tư vấn và ràng buộc sự nghiệp -
hướng dẫn). Chúng tôi bổ sung cả 4 tương tác, mặc dù chúng tôi chỉ đặt giả
thuyết cho 2 ràng buộ vì 2 ràng buộc còn lại (nhiệm vụ- tư vấn và sự nghiệp-
hướng dẫn) cũng là những mối quan hệ vụ lợi. Với lập luận của chúng tôi là
người Mỹ trải nghiệm nhiều căng thẳng hơn trong việc hòa trộn những mối
quan tâm có tính vụ lợi và tình cảm xã hội hơn, việc điều chỉnh những tác
động tương tác quốc gia có thể xảy ra bắt nguồn từ những ràng buộc này
là cần thiết.
Những kết quả chỉ ra rằng một tương tác quan trọng quốc gia * lệ thuộc
kinh tế (b = - 18; p<0,01). Hệ số âm chỉ ra rằng những nhà quản lý Trung
Quốc có xu hướng, đối với những người mà họ phụ thuộc vào nguồn lực kinh
tế, họ niềm tin dựa trên cơ sở cảm tính hơn so với các nhà quản lý người Mỹ.
Những phân tích độc lập đối với mỗi mẫu quốc gia chỉ ra rằng ràng buộc phụ
thuộc kinh tế có mối quan hệ dương với niềm tin dựa trên cơ sở tình cảm đối
với các nhà quản lý Trung Quốc (b= 0,09; p<0,01) nhưng có mối quan hệ âm
đối với niềm tin dựa trên cơ sở tình cảm của các nhà quản lý Mỹ
5
(b=-0,13;
p<0,01). Mô hình tương tác này được biểu thị trong Bảng 1. Nhìn chung, Giả
thuyết 2a được củng cố. CŨng có một tương tác lớn của quốc gia * ràng buộc
tình bạn (b= 0,49; p<0,01). Hệ số dương chỉ ra rằng ràng buộc tình bạn gắn
liền với niềm tin cảm tính ở người Mỹ (b=0,88;p<0,01) hơn so với ở người

Trung Quốc (b=0,45; p<0,01), củng cố Giả thuyết 2b. Dạng tương tác này
được biểu thị trong bảng 2.
Nhằm đánh giá tác động tương tác của quốc gia * độ gắn kết của alter
lên niềm tin dựa trên cơ sở lý tính (giả thuyết 3), chúng tôi gắn liền 2 mô hình
(mô hình 7 và 8 trong bảng 2) trong đó niềm tin dựa trên cơ sở lý tính là biến

×