Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam. doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.34 KB, 13 trang )








Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam



















Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH 12 ngày 17/6/2009 về Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) thì Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) sẽ được sửa đổi. Như vậy, hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS


đã được đặt ra. Vì vậy, việc nghiên cứu các loại hình tố tụng hình sự (TTHS)
để hoàn thiện pháp luật về TTHS là một công việc cần thiết.
1. Các loại hình tố tụng hình sự
Loại hình TTHS là cách thức thể hiệnL, biểu hiện cũng như cách thức tiến
hành các hoạt động tố tụng. Trong lịch sử và hiện tại đã và đang tồn tại bốn loại
hình TTHS cơ bản sau:
1.1. Tố tụng tố cáo
Đây là loại hình tố tụng được hình thành từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhưng
tồn tại và phát triển cực thịnh trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến. Nét đặc
trưng của tố tụng tố cáo là sự công nhận vị trí đặc biệt của người buộc tội - thường
là người bị tội phạm xâm hại hay còn gọi là người bị hại. Việc khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình sự cũng như tiến hành hay chấm dứt các hoạt động tố tụng phụ
thuộc vào ý chí của người buộc tội nên gọi là tư tố. Sau này, thực tiễn cho thấy
hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân người bị hại, mà còn gây
thiệt hại cho cả xã hội và nhà vua. Mặt khác, để hạn chế tình trạng lợi dụng quyền
tố cáo gây thiệt hại đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác,
loại hình tố tụng tố cáo đòi hỏi khi tố cáo tội phạm với nhà chức trách, người tố
cáo phải tuyên thệ; nếu người bị tố cáo không phạm tội, người tố cáo có thể bị xử
phạt. Điều này đã làm cho việc tố cáo của người bị hại giảm dần. Dần dần, trong
loại hình tố tụng tố cáo, chủ thể buộc tội là cá nhân (người bị hại) được chuyển
giao cho người đại diện lợi ích của nhà vua nên tư tố chuyển sang công tố.
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa chính là người bị buộc tội. Hơn nữa,
mọi người đều có thể tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội
nên thời kỳ này đã xuất hiện một số người được gọi là hiệp sỹ có điều kiện và khả
năng tự nguyện đứng ra bảo vệ cho người bị buộc tội. Đó chính là những người
thân, bạn bè của người bị buộc tội. Bào chữa ở đây thực chất chỉ là việc thể hiện tài
năng, không vụ lợi và mang ý nghĩa cao cả nhằm bảo vệ người bị buộc tội.
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử không có sự thống nhất, ở các thời điểm
khác nhau thì cơ quan xét xử cũng được quy định khác nhau. Các Tổng đốc, Đại
công, Tri châu, Quan tài phán, Quan toà, Quan thu thuế kiêm cảnh sát cũng đóng

vai trò là người xét xử. Hệ thống chứng cứ được quy định đơn giản, mang nặng
tính chất mê tín, tôn giáo, định kiến và áp đặt. Sự nhận tội của người bị buộc tội
được coi là chứng cứ quan trọng nhất, là chứng cứ vua. Trường hợp không có sự
nhận tội của người bị buộc tội thì có thể sử dụng các nguồn khác để chứng minh
như lời thề hoặc phán xét theo ý trời hoặc các thử thách khác. Như vậy, với một hệ
thống chứng cứ được quy định, tòa án không cần biết sự việc đã xảy ra như thế nào
mà chỉ quan tâm đến khả năng chịu đựng thử thách của người bị buộc tội hay họ
cần phải thề như thế nào. Đây là loại hình tố tụng cổ xưa nhất và được hầu hết các
nước sử dụng trong những thời điểm khác nhau.
1.2. Tố tụng xét hỏi
Đây là loại hình tố tụng cũng xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ§, trong
các tòa án tôn giáo và dần dần thâm nhập vào tòa án thường. Loại hình tố tụng này
phát triển phổ biến vào thời kỳ chế độ quân chủ, phát triển mạnh nhất ở thời kỳ
trung cổ. Tố tụng xét hỏi ra đời từ những nguyên nhân sau: thứ nhất, từ yêu cầu
tăng cường quyền lực công; thứ hai, do tình hình tội phạm tăng; thứ ba, do thái độ
thờ ơ, vô trách nhiệm của quyền lực công đối với các quyền của con người.
Đặc điểm của tố tụng xét hỏi là hoạt động tố tụng được tiến hành bí mật và
bằng văn bản. Trong tố tụng xét hỏi, các cơ quan có thẩm quyền dùng nghiệp vụ
điều tra để xác định hành vi phạm tội của người bị buộc tội, nên không thể công
khai rộng rãi, nhất là đối với người bị buộc tội. Tuy nhiên, để có cơ sở làm chứng
cứ chứng minh thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập thành văn bản. Các hoạt động
tố tụng không được phân biệt rõ ràng và được thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Đặc biệt, các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng không được xác định cụ
thể mà hầu như tập trung vào toà án. Người bị hại không có chức năng buộc tội mà
thay vào đó là người thuộc các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng.
Người bị buộc tội bị hạn chế quyền bào chữa, họ không phải là một chủ thể trong
quan hệ tố tụng mà chỉ là khách thể của quan hệ tố tụng. Thẩm phán không chỉ
thực hiện chức năng xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, chức năng
buộc tội và có cả một phần của chức năng bào chữa.
Nguyên tắc cơ bản của loại hình tố tụng này là suy đoán có tội đối với người

bị buộc tội. Nguyên tắc bí mật và bằng văn bản được áp dụng trong suốt quá trình
giải quyết vụ án, hạn chế đến mức tối đa việc khiếu nại các bản án. Nguyên tắc sử
dụng việc thừa nhận lỗi của người bị buộc tội là chứng cứ quyết định của vụ án.
Hệ thống chứng cứ đặc trưng của loại hình tố tụng này là tính hợp lệ của
chứng cứ nhưng những quy định về chứng cứ lại hết sức trừu tượng. Ví dụ, lời khai
của người đàn ông đáng tin cậy hơn lời khai của người đàn bà; lời khai của người
giàu đáng tin cậy hơn lời khai của người nghèo; lời khai của giới học giả bao giờ
cũng có giá trị cao hơn lời khai của người dân. Những tình tiết của vụ án chỉ được
coi là chứng cứ khi những tình tiết đó được hai người trở lên biết. Pháp luật cho
phép dùng nhục hình để thu thập chứng cứ. Trên thực tế, nhục hình được coi là
cách thu thập chứng cứ có hiệu quả, quan trọng nhất.
Ngày nay, loại hình tố xét hỏi không còn duy trì tra tấn để thu thập chứng
cứ. Một người làm chứng chỉ có nghĩa là nửa chứng cứ; vì nó chưa thực sự khách
quan, chính xác nên nó không bảo đảm được thực chất nội dung của vụ án và
người ta gọi đó là hệ thống chứng cứ hình thức. Cùng với sự phát triển của lịch sử,
loại hình tố tụng xét hỏi cũng có những thay đổi. Ví dụ: hủy bỏ việc tra tấn, nhục
hình, nhưng vẫn duy trì hệ thống các chứng cứ hình thức; áp dụng điều tra sơ bộ,
quy định cụ thể, chặt chẽ thủ tục điều tra và xét xử; thừa nhận một số quyền cá
nhân, suy đoán có tội bị bác bỏ nhưng chưa áp dụng suy đoán vô tội; trách nhiệm
chứng minh có tội thuộc về bên buộc tội. Mặc dù có những thay đổi nhất định,
nhưng tố tụng xét hỏi vẫn không phân chia các chức năng tố tụng theo thực chất,
cho dù đã thành lập cơ quan điều tra sơ bộ, thừa nhận tính độc lập của tòa án. áp
dụng nguyên tắc bí mật điều tra - xét xử và tố tụng bằng văn bản, thẩm phán vẫn
giữ vai trò quan trọng, là trung tâm của hoạt động tố tụng.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động tố tụng này là: đưa công tố của nhà vua
thành một chủ thể bắt buộc của bất cứ vụ án hình sự nào, điều này thừa nhận sự
quan tâm của Nhà nước đối với vụ án và tình hình tội phạm; quy định hai thẩm
phán trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Phiên tòa xét xử trong loại
hình này không phải là sự tranh luận giữa hai bên đối trọng mà là tiếp tục điều tra.
Các bên phải cung cấp tất cả các chứng cứ cho tòa án, sự thật được đánh giá và kết

luận trong quá trình xét hỏi.
1.3 Tố tụng tranh tụng
Đây là loại hình tố tụng được hình thành và phát triển từ loại hình tố tụng tố
cáo và phát triển mạnh mẽ, rộng rãi ở các nước theo hệ thống án lệ, phổ biến nhất
là khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Theo loại hình tố tụng này, sự thật sẽ được
mở ra qua sự tranh luận giữa những người có dữ liệu chính xác. Tố tụng tranh tụng
dựa trên tư tưởng tố tụng là cuộc tranh tụng tại tòa án giữa một bên là người buộc
tội và một bên là người bị buộc tội. Đã là cuộc tranh tụng thì hai bên đều được sử
dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập, kiểm tra và đánh
giá chứng cứ, phân tích và đưa ra các kết luận đối với những sự việc cụ thể. Về
nguyên tắc, hai bên tranh tụng có khả năng và quyền như nhau trong tất cả các giai
đoạn tố tụng chứ không chỉ tại phiên tòa xét xử.
Ở loại hình tố tụng tranh tụng, khi tham gia vào quá trình tố tụng, bên buộc
tội và bên bị buộc tội không bắt buộc phải khách quan trong khi thực hiện quyền
và nghĩa vụ. Công việc của họ là thu thập chứng cứ để buộc tội hoặc bào chữa
phục vụ cho cuộc tranh tụng ở tòa án. Họ có trách nhiệm chứng minh tính có lỗi,
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc tính không có lỗi, các tình tiết
giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự.
Trong giai đoạn xét xử, tòa án đóng vai trò người phán quyết, lạnh lùng quan
sát sự tuân thủ quy tắc cuộc tranh tụng của hai bên. Việc đánh giá chứng cứ phụ
thuộc vào niềm tin nội tâm của thẩm phán khi thẩm phán dựa vào các tiêu chí hợp
lệ của chứng cứ, khuôn mẫu chứng cứ. Để bảo đảm sự bình đẳng trong tranh tụng,
phải có hai điều kiện:
Một là, sử dụng việc kiểm tra chéo, đối chất để xác định tính chính xác của
chứng cứ. Bên buộc tội và bên bị buộc tội tập trung chỉ ra cái mà người làm chứng
biết, chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng người làm chứng biết.
Hai là, quyền được chia đều cho các bên buộc tội và bên bị buộc tội, tòa án
chỉ đóng vai trò là trọng tài để bảo đảm cho các bên có đầy đủ điều kiện, các quyền
như nhau khi tham gia tố tụng.
Với quan niệm TTHS chỉ gồm có giai đoạn xét xử nên các chức năng buộc

tội - bào chữa - xét xử chỉ thực sự bắt đầu tại phiên tòa. Tại đây, với sự tham gia
của các bên buộc tội (công tố viên, người bị hại), bên người bị buộc tội, người bào
chữa (nếu có) và các chủ thể khác (nếu có) dưới sự điều khiển của thẩm phán, sự
giám sát của hội đồng xét xử, ba chức năng buộc tội - bào chữa - xét xử đều được
thực hiện công khai. Còn các giai đoạn trước khi mở phiên tòa xét xử được xem là
giai đoạn để các bên tiến hành một số hoạt động chuẩn bị cho việc tranh tụng tại
phiên toà. Vì vậy, trong loại hình tố tụng này, chức năng giám sát việc tuân theo
pháp luật thuộc về toà án. Với tư cách là trung tâm của cơ quan tư pháp, của hoạt
động tố tụng, toà án có quyền và trách nhiệm bảo đảm cho các bên nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của pháp luật. Mặc dù loại hình này có nhiều ưu điểm
nhưng vẫn bị phê phán là việc con người bị phán xét như thế nào dường như quan
trọng hơn việc xác định xem bị cáo đã làm gì trên thực tế.
Loại hình tố tụng này xuất hiện đầu tiên tại Anh, sau đó nó được phát triển ở
các nước thuộc địa của Anh và cho đến nay vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở
Mỹ, Canada và nhiều nước trên thế giới.
1.4 Tố tụng hỗn hợp
Như chúng ta đã biếtN, các loại hình tố tụng nói trên đều có những ưu điểm
và khiếm khuyết. Vì vậy, quá trình tiếp thu các loại hình tố tụng này của các nước
cần có sự lựa chọn nhất định. Tất nhiên là các nước sẽ lựa chọn những ưu điểm của
các loại hình nhưng phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Thậm
chí, cùng một hình thức tố tụng và cùng một truyền thống pháp luật nhưng mỗi
quốc gia có sự vận dụng khác nhau. Đây chính là một trong những nguyên nhân ra
đời hình thức tố tụng hỗn hợp.
Tuy nhiên, xét về mặt lịch sử thì tố tụng hỗn hợp lần đầu tiên xuất hiện trong
truyền thống pháp luật Hồi giáo, đó là sự hỗn hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng
tranh tụng. Truyền thống luật Hồi giáo dựa trên cơ sở thần thánh nên nó không
phát triển thông qua quá trình pháp điển hóa hay tiền lệ pháp. Hơn nữa, pháp luật
Hồi giáo không đòi hỏi các hoạt động tố tụng phải tập trung vào một hay nhiều cơ
quan. Việc xác định luật tố tụng Hồi giáo là việc làm không dễ dàng vì nó phụ
thuộc hoàn toàn vào sự sáng tạo của Nhà nước. Nhờ sự sáng tạo này mà luật TTHS

Hồi giáo có đặc trưng của cả loại hình tố tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng. Loại
hình tố tụng xét hỏi chiếm phần cơ bản hơn vì không có sự tách biệt giữa thẩm
phán và điều tra viên. Mặt khác, vai trò của người bào chữa không đến mức đối
trọng như một bên đại diện cho các chứng cứ đảm bảo chống lại sự kết tội không
đúng hoặc để giám sát phán quyết của tòa án. Trong khi đó, một số quy định của
loại hình tranh tụng lại được áp dụng như quyền phản đối sự buộc tội, quyền im
lặng và nguyên tắc suy đoán vô tội.
Cùng với sự phát triển cuả lịch sử, loại hình tố tụng hỗn hợp đã có những cải
tiến theo hướng dân chủ, tích cực và được phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước thuộc
truyền thống luật lục địa như Đức, áo, ý, Bỉ. Thực chất, tố tụng hỗn hợp là loại
hình hỗn hợp giữa tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng và cả một chút của tố tụng tố
cáo. ở giai đoạn trước xét xử, các hoạt động tố tụng phần nhiều được tiến hành bí
mật, hạn chế sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Mọi hoạt động đều
được ghi thành văn bản, người bị buộc tội hầu như bị tách khỏi quá trình tố tụng
Tuy nhiên, ở giai đoạn xét xử, phiên tòa được tiến hành công khai, quyền bình
đẳng trước phiên tòa và quyền bào chữa của người bị buộc tội được đảm bảo, bên
buộc tội và bên bị buộc tội có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc đưa ra các
chứng cứ và các yêu cầu. Lúc này, tòa án đóng vai trò là người trọng tài bảo đảm
cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
2. Hướng áp dụng cho Việt Nam
Nghiên cứu các loại hình TTHS nói trên, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền
con người, chúng tôi thấy loại hình tố tụng tranh tụng là ưu việt hơn cả. Cách thức
tổ chức bộ máy của các cơ quan tiến hành tố tụng, nội dung các hoạt động và hành
vi tố tụng của các chủ thể trong quan hệ pháp luật TTHS, thủ tục tiến hành các họat
động và hành vi đó có nhiều điểm hợp lý hơn, khoa học hơn so với các loại hình tố
tụng khác.
Nghiên cứu lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam trước năm 1945, chúng tôi
nhận thấy có nhiều dấu hiệu thể hiện giai đoạn này áp dụng hình thức tố tụng xét
hỏi. Những quy định của pháp luật tố tụng trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia
Long và thực tiễn xét xử đều phản ánh loại hình tố tụng xét hỏi với đặc điểm cơ

bản là quan cai trị hành chính là thẩm phán và điều tra viên, việc điều tra tiến hành
bí mật, chứng cứ chủ yếu là lời khai của người làm chứng và sự nhận tội của người
bị buộc tội, việc xét xử không công khai, tra tấn, gông cùm là biện pháp chủ yếu
trong hoạt động TTHS.
Sau năm 1945, cùng với việc xây dựng hệ thống pháp luật kiểu mới, pháp
luật TTHS Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản, đã loại bỏ hầu hết các quy định
của loại hình tố tụng xét hỏi vì chúng không còn phù hợp với bản chất của Nhà
nước ta. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đặt nền móng cho việc hình
thành một loại hình TTHS tiến bộ hơn, xét về mặt bản chất cũng như trình tự, thủ
tục, phương thức tiến hành. BLTTHS năm 1988 được ban hành đánh dấu một bước
cải cách, đổi mới pháp luật TTHS nước ta theo hướng dân chủ hóa TTHS, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, tăng cường tính
công khai, đưa ra và thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, khắc phục những định
kiến theo hướng buộc tội, bảo đảm sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội
đồng xét xử. Quyền và trách nhiệm của viện kiểm sát được đề cao trong việc đấu
tranh tội phạm. Nâng cao trách nhiệm của các điều tra viên, tăng cường các bảo
đảm pháp chế trong hoạt động TTHS. Vị trí, vai trò của người bào chữa ngày càng
được nâng cao trong hoạt động tố tụng theo hướng mở rộng quyền của họ ở giai
đoạn điều tra và các giai đoạn tố tụng khác.
BLTTHS năm 2003 thay thế cho BLTTHS năm 1988 đánh dấu một bước
phát triển mới trong cải cách hệ thống pháp luật TTHS ở nước ta. Bộ luật đã thể
chế hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực đấu tranh tội phạm,
đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong Bộ luật này, pháp
luật TTHS nước ta có những thay đổi, bổ sung cơ bản thể hiện ở những điểm sau
đây:
- Tăng cường một cách cơ bản những bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng.
- Bên bị buộc tội có quyền sử dụng các phương tiện kỹ thuật để có được các
tài liệu tố tụng, được quyền thuê người bào chữa từ thời điểm bị tạm giữ, quyền

thu thập chứng cứ, quyền khiếu nại ở những giai đoạn tố tụng nhất định. Các quy
định về việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại được quy định và mở rộng.
- Nội dung tranh luận của bên buộc tội và bên bị buộc tội đã được thể hiện
trong các quy định của BLTTHS. Chức năng buộc tội - chức năng bào chữa - chức
năng xét xử được phân định khá rõ ràng và được giao cho các cơ quan khác nhau
và những người có thẩm quyền khác nhau. Các bên buộc tội và bên bào chữa bình
đẳng trước tòa.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội đã được ghi nhận. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan và những người tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Mọi nghi ngờ đều được
giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Như vậy, ở chừng mực nào đó, pháp luật TTHS nước ta đã có tính chất tranh
tụng, nhưng vẫn mang đậm nét của loại hình tố tụng xét hỏi. Điều đó đánh dấu
bước tiến theo hướng phát triển dân chủ của pháp luật TTHS nước ta. Mặc dù vậy,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hiện nay pháp luật TTHS nước ta lạc hậu nhiều so
với pháp luật TTHS của các nước có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự. Quá trình
hội nhập của nước ta với thế giới và trong khu vực đòi hỏi phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tiến tới xây dựng pháp luật TTHS nước ta theo loại hình tố tụng
tranh tụng. Trong quá trình cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật TTHS, bên
cạnh những ý kiến ủng hộ quan điểm cần xây dựng pháp luật TTHS nước ta theo
loại hình tố tụng tranh tụng, vẫn còn nhiều ý kiến không thống nhất với quan điểm
trên. Theo quan điểm này, nước ta không có điều kiện để tồn tại loại hình tố tụng
tranh tụng, tố tụng tranh tụng chỉ có thể tồn tại trong nhà nước tư sản, pháp luật
TTHS nước ta như hiện nay là phù hợp. Cần phải khẳng định rằng, loại hình tố
tụng không phụ thuộc vào kiểu Nhà nước mà nó phụ thuộc vào cách thức tổ chức
quyền lực nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy tố tụng và các yêu cầu trong cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tế đã chứng minh trong Nhà nước tư sản
vẫn tồn tại nhiều loại hình tố tụng khác nhau. Vấn đề quan trọng là phải xuất phát
từ hiệu quả của loại hình tố tụng - điều cần được xem xét trên nhiều yêu cầu và
bình diện khác nhau như: khả năng kiểm soát và đấu tranh có hiệu quả với tình

hình tội phạm, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của xã hội, của Nhà nước, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Với yêu cầu trên, theo chúng tôi, không có loại
hình tố tụng nào có khả năng đáp ứng tốt nhất, mỗi loại hình tố tụng đều có những
ưu điểm và khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, cần có sự kết hợp các ưu điểm của
từng loại hình tố tụng theo hướng ưu tiên đến tranh tụng. Tuy nhiên, cũng cần nhận
thức rằng, thay đổi một yếu tố nào đó có thể đem lại những kết quả mong đợi và
những kết quả không mong đợi. Do đó, cần thiết phải có sự nghiên cứu toàn diện,
cơ bản để đánh giá đầy đủ và chính xác tất cả những yêu cầu, điều kiện, khả năng
đáp ứng và những kết quả do sự thay đổi mang lại. Ví dụ: từ những năm 1930 đến
năm 1989, nước ý đã áp dụng loại hình tố tụng xét hỏi có yếu tố tranh tụng; nhưng
đến 1989, nước này chuyển hẳn sang loại hình tố tụng tranh tụng. Trong quá trình
áp dụng, loại hình tố tụng mới không mang lại những kết quả mong đợi, đến năm
1992, ý lại đưa vào áp dụng một số yếu tố của loại hình tố tụng xét hỏi. Tương tự,
pháp luật TTHS của Đức có sự kết hợp giữa loại hình tố tụng xét hỏi và loại hình
tranh tụng. Pháp luật TTHS Canada - quốc gia điển hình về tố tụng tranh tụng -
hiện nay cũng đã có sự kết hợp giữa các loại hình tố tụng, nhưng chú trọng đến yếu
tố tranh tụng.
Đối với Việt Nam, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, góp phần
nâng cao hiệu quả của pháp luật TTHS, cần phải:
- Tiếp tục sửa đổi Hiến pháp, hoàn thiện pháp luật TTHS, Luật Tổ chức Toà
án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, các quy định về tổ chức và
hoạt động của cơ quan điều tra, tổ chức luật sư theo hướng phân biệt rõ ràng các
chức năng buộc tội - bào chữa - xét xử.
- Khẳng định sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, cần ghi nhận
nguyên tắc tranh tụng, sự độc lập cuả toà án không chỉ trên bình diện pháp luật mà
còn trên bình diện thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Nâng cao dân trí, trình độ pháp luật cho những người tiến hành tố tụng để
họ có đủ khả năng, bản lĩnh và độc lập khi tham gia tiến hành tố tụng.
Những yêu cầu này cần có thời gian và vật chất để bảo đảm việc áp dụng
thành công. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến 2020 là mốc thời gian cần thiết để chuẩn bị. Vấn đề có
tính quyết định là chúng ta phải xây dựng được lộ trình phù hợp và khoa học để
nghiên cứu, triển khai vào thực tế cuộc sống.
Có thể thấy rằng, mỗi loại hình TTHS như đã trình bày đều có những
nguyên nhân xuất hiện, quá trình tồn tại và phát triển khác nhau. Các nước khác
nhau có những điều kiện chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hoá, trình độ dân trí khác
nhau và đặc biệt là tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng chống khác nhau,
nên bản chất, nội dung và những biểu hiện của từng loại hình TTHS cũng khác
nhau. Cùng loại hình TTHS nhưng ở giai đoạn lịch sử khác nhau cũng sẽ được quy
định và áp dụng khác nhau. Có loại hình TTHS có ưu điểm ở quốc gia này nhưng
lại có những hạn chế khi áp dụng ở quốc gia khác. Vấn đề được rút ra ở đây là loại
hình TTHS nào, trong những thời điểm, với những điều kiện nào thì nó sẽ là loại
hình TTHS tối ưu. Việc tìm ra loại hình tối ưu phù hợp với điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội của Việt Nam là mục tiêu chính của các nhà làm luật.

×