Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Tiẻu luận cao học, tư tưởng hồ chí minh về công tác cán bộ của đảng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.47 KB, 49 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới cũng như lịch sử Việt Nam đã để lại nhiều bài học
kinh nghệm về việc đánh giá lựa chọn, đào tạo dùng người, dùng nhân tài.
Trên tấm bia khoa thi năm 1715 dựng tại Văn miếu Quốc Tử Giám-Hà Nội
có ghi: Cây ở đỉnh núi kia tươi tốt vì ở đó có ngọc, nước dịng suối kia êm
đềm vì ở dưới đó có châu, vận hội nước nhà được thịnh vượng, cơ đồ được
vững vàng vì có hiền tài đơng đúc như cây trong rừng.
Vua Lê Thánh Tông đã răn dạy: “Hiền tài ngun khí của quốc gia.
Ngun khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, ngun khí suy thì thế nước
yếu mà càng xuống thấp”. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có
đời nào lại khơng chăm lo ni dưỡng và đào tạo bồi đắp thêm nguyên khí.
Tiếp theo dịng lịch sử đó ngày nay Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan
tâm đến việc tuyển chọn, bồi dưỡng bố trí sử dụng nhân tài của quốc gia.
Coi đây là một vấn đề sống còn của một đất nước, một chế độ.
Đảng ta khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định cho sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Hồ Chí Minh đã xác định: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, mọi
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vấn đề cán bộ là
vấn đề rất cần kíp…”. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày cơng đào tạo, huấn
luyện,xây dựng đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên cường, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (cơng
nghiệp hố, hiện đại hố), nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn
phức tạp, địi hỏi Đảng ta phải đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Đảng
ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN (xã hội chủ
nghĩa).

1



Vì vậy, trong mơn học “Học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng”, người viết quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác cán bộ của Đảng” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học.
Viết về đề tài này, hiện nay đã có rất nhiều học giả nghiên cứu và đã
có những thành công nhất định. Nhưng người viết vẫn mạnh dạn chọn đề
tài này. Một mặt thông qua đề tài, người nghiên cứu muốn tìm hiểu sâu hơn
về Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ mn vàn kính u của dân tộc Việt Nam
chúng ta. Mặt khác qua đó trang bị thêm kiến thức cho người viết, giúp cho
người viết có được thế giới quan vững vàng hơn. Đặc biệt người viết có thể
đóng góp một vài ý kiến nhỏ của mình về cơng tác cán bộ của Đảng ta hiện
nay, nhằm làm cho công tác cán bộ của Đảng ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong bài viết này, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: Phương pháp luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch
và phương pháp thu thập tài liệu.
Bài viết được bố cục làm ba phần, ngoài phần mở đầu và kết luận,
phần nội dung được bố trí thành ba chương.
Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
cán bộ
Chương 2: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
của Đảng
Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay

2


B. PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN

BỘ
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm, toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
Theo cách khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh nói trên thì tư tưởng
Hồ Chí Minh ra đời được kết hợp bởi nhiều yếu tố, sự kế thừa quan điểm
của các nhà kinh điển, truyền thống văn hố của dân tộc, q trình hoạt
động thực tiễn bản thân Hồ Chí Minh .
Theo các nhà kinh điển thì mọi học thuyết tư tưởng ra đời là một sự
kế thừa những tư tưởng học thuyết trước đó, mặt khác đó là sự phản ánh
quy luật vận động của hiện thực, đồng thời là kết quả của hoạt động, nhận
thức sáng tạo của một người gắn liền với phẩm chất, nhân cách cá nhân,
phản ánh ý chí nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc.
Dưới đây người viết xin trình bầy cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về cán bộ và công tác
cán bộ
C.Mác và Ph.ăngghen đã nêu những tư tưởng cơ bản làm cơ sở nền
tảng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp công nhân. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh: Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ
đại và nếu khơng có những con người như thế thì thời đại sẽ tạo ra họ. Từ
3


quá trình truyền bá lý luận CNXH khoa học và phong trào công nhân, Mác

khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, cách mạng chưa nắm
chính quyền, C.Mác và Ph.ăngghen đã quan tâm đến xây dựng đội ngũ
những nhà tuyên truyền, cổ động truyền bá tư tưởng cộng sản, lãnh đạo tổ
chức những phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản để lập ra chính đảng
của giai cấp cơng nhân.
Hai ơng đặc biệt đánh giá rất cao vai trò quan trọng của cơng tác cán
bộ, chính vì có vai trị quan trọng như vậy mà việc xác định tiêu chuẩn của
cán bộ cũng được đặt ra một cách bức thiết.
Trong tác phẩm: “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là
những người kiên quyết nhất trong tất cả các đảng công nhân, là bộ phận
luôn thúc đẩy phong trào đi lên. Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của
giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình kết quả chung
của phong trào vơ sản…”.
Hai ông cho rằng, cán bộ phải là những người trung thành, tiêu biểu
cho lý tưởng, lẽ sống của giai cấp “họ là những người đầy tớ ln có thể bị
bãi miễn…luôn hành động dưới sự dám sát của nhân dân…không nấp sau
một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận sai lầm của mình bằng
sửa chữa những sai lầm”
1.2 Quan điểm của V.I. Lênin.
Lê nin đã kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác,đã đặc biệt
coi trọng đội ngũ “những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình,
những nhà chính trị vơ sản và khơng thua kém những nhà chính trị của giai
cấp tư sản”.
Để lật đổ chế độ Nga Hoàng, ngay từ những ngày đầu thành lập
đảng, Lênin đã coi trọng cán bộ và công tác cán bộ đây là một nguyên nhân
đi đến thành cơng của cách mạng tháng Mười. Khi có chính quyền lãnh đạo
4



xây dựng CNXH, Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những
người cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả
mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn.”. Lênin chỉ rõ trong bất
kỳ giai đoạn nào của cách mạng, “người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách
duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được
nhiều, ngày càng nhiều hơn những phụ tá…biết giúp đỡ họ, biết giới thiệu
và chú ý đến kinh nghiệm của họ”.
Khi bước vào giai đoạn CNH, HĐH xây dựng đất nước, Lênin đặc
biệt coi trọng đội ngũ khoa học kỹ thuật và quan tâm tới đội ngũ trí thức
của giai cấp cơng nhân coi đó là điều kiện đê xây dựng CNXH; “khơng có
sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu, khoa học kỹ thuật thì khơng thể nào
chuyển lên CNXH được, vì CNXH địi hỏi một bước tiến có ích và có tính
chất quần chúng để đi tới năng suất lao động cao hơn năng suất của
CNTB…”.
Nói tóm lại, mặc dù chưa có nhiều điều kiện đề bàn về những yêu
cầu của người cán bộ nhưng các nhà kinh điển đã có cái nhìn hết sức đúng
đắn và toàn diện về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Họ phải là những
con người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, là đầy tớ của dân, không
vụ lợi…
Đây cũng là cơ sở đầu tiên để Hồ Chí Minh tiếp cận nghiên cứu, tiếp
thu những quan điểm của những nhà kinh điển, trên cơ sở đó dần hình
thành tư tưởng của Người về công tác cán bộ của Đảng.

5


1.3 Truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống văn hố hết sức sâu sắc và đa
dạng.Một trong những truyền thống tốt truyền thống tốt đẹp ấy đó là truyền

thống yêu nước, lịng nhân ái, tinh thần đồn kết,lịng tự hào dân tộc. Hồ
Chí Minh, một con người ưu tú của đất Việt đã tiếp thu tồn bộ những tinh
hoa đó, để trở thành một con người vĩ đại,một nhà văn hoá, một nhà yêu
nước,một nhà cách mạng, một vị lãnh tụ tinh thần xuất chúng của dân tộc
Việt Nam.
Người đã từng khẳng định: “Dân tộc ta có một lịng nồng nàn yêu
nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới nay,mỗi khi tổ quốc bị
lâm nguy thì tinh thần ấy lại sơi nổi,nó thành một làn sóng vơ cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,khó khăn, nó nhấn chìm cả bè lũ
bán nước, cướp nước”.
Ngồi ra dân tộc Việt Nam cịn có đặc điểm riêng, đó là cần cù,
thơng minh sáng tạo, dũng cảm, ham hiểu biết học hỏi. Những phẩm chất
ấy là rất cần thiết đối với người cán bộ.
Nói tóm lại những truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam đã có
ảnh hưởng tích cực, nó là một trong những nhân tố quyết định để hình
thành là tiêu chí người cán bộ mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng.
2. Cơ sở thực tiễn.
2.1 Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ quan lại thời phong kiến ở Việt Nam
Đây cũng là một trong những cơ sở hết sức quan trọng để hình thành
lên tư tưởng của Người về công tác cán bộ.
Thời kỳ phong kiến, để xây dựng triều đại của mình được hưng
thịnh, vững chắc, các vị vua đã đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng tuyển
chọn đội ngũ quan lại, bố trí họ vào những vị trí thích hợp, sử dụng đúng
tài năng của họ. Nhờ như vậy mà thế nước được vững, quốc gia được thái
bình, đất nước khơng bị xâm lăng.

6


Các nhà quản lý, lãnh đạo thời phong kiến xây dựng đội ngũ quan lại

bằng cách tuyển chọn “người tài” thông qua tiến cử và “khoa cử” coi đây là
một quốc sách.
Tiêu biểu cho thời kỳ phong kiến là thời Lê sơ, dưới dự trị vì của Lê
Thánh Tơng, một vị vua tài ba. Ông là một nhà tư tưởng xuất chúng, ơng có
quan điểm: “Hiền tài là ngun khí của quốc gia, ngun khí hưng thịnh thì
thế nước vững, lớn mạnh. Ngun khí suy thì thế nước yếu càng xuống
thấp…”. Với tư tưởng trọng người tài như vậy, cộng với tư tưởng cải cách
vô cùng tiến bộ của ông, trong đó nổi bật là tư tưởng “bố trí, tuyển chọn và
sử dụng quan lại”. Ông đã xây dựng lên một triều đại nhà Lê cực thịnh nhất
trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
Đặc biệt trong công việc tuyển chọn quan lại, ông đã nhấn mạnh hai
mặt đức và tài. Đây là hai tiêu chí rất quan trọng, khơng thể thiếu một trong
hai mặt này. Làm quan có tài thơi thì chưa đủ, mà phải có đức, có tâm; tâm
trong sáng thì mới minh bạch trong mọi cơng việc, thì mới yêu thương dân
được. Những vị quan như vậy mới được lòng dân, được dân yêu.
Tuyển chọn người tài rồi nhưng phải bố trí họ vào những vị trí nào
để “trên thì hợp ý trời, dưới thì hợp lịng dân”. Đồng thời phải thực hiện
đúng nguyên tắc sử dụng quan lại theo đúng học vị, đặt vị trí quan lại theo
đúng tài và đức; tuỳ đặc điểm công việc mà xắp xếp quan lại; luân chuyển
quan lại; đảm bảo chế độ lương bổng cho quan lại…
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa của tư tưởng này, gạt bỏ
những mặt hạn chế, xây dựng lên thành bài học kinh nghiệm rất hữu ích
cho q trình hình thành tư tưởng về công tác cán bộ.
2.2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và quá trình hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Đất nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là nước thuộc địa nửa
phong kiến. Trong xã hội có nhiều mâu thuẫn trong đó mâu thuẫn chủ yếu

7



nhất đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược,
mâu thuẫn giữa nhân dân lao động và bè lũ phong kiến tay sai.
Thời kỳ này có rất nhiều phong trào yêu nước của các sĩ phu, đứng
dậy chống thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai. Tiêu biểu như, phong
trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám,
phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào dân chủ tư sản của
Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học… Nhưng tất cả các phong trào này đều
bị thất bại, đều bị thực dân Pháp đàn áp một cách dã man. Sự thất bại của
các phong trào này đặt ra một câu hỏi lớn cho cách mạng Việt Nam, làm
thế nào để cứu nước, làm thế nào để dân tộc được độc lập, nhân dân được
ấm no. Muốn như vậy khơng có cách nào khác là phải tìm ra một con
đường cứu nước mới khác lạ so với những con đường mà các vị tiền bối đã
chọn. Muốn làm được điều này thì ắt phải xây dựng được một đội ngũ cán
bộ cách mạng, vừa có trí, có đức, có tài, tuyệt đối trung thành với tổ
quốc.Đội ngũ cán bộ này có thể lãnh đạo cách mạng, quy tụ được sức mạnh
của dân tộc của thời đại.
Đây là một điều trăn trở đối với người thanh niêm yêu nước Nguyễn
Tất Thành. Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước cho một dân tộc,
người không đi sang phương Đông mà quyết định đi sang phương Tây,ở
nơi đó có khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Người muốn tìm hiểu thực
tế khẩu hiệu đó ở nước chính quốc. Tháng 5 năm 1911, Người đã lên con
tàu bn Latutxơtrêvin tìm đường cứu nước.
Sau khi bôn ba khắp năm châu bốn biển, đi qua rất nhiều nước trên
thế giới. Năm 1920, Người đã đọc bản Luận cương sơ thảo của Lênin về
vấn đề cách mạng dân tộc và thuộc địa. Qua đó, Người đã tìm thấy con
đường cứu nước cho dân tộc. Đây thực sự là một bước ngoặt lớn trong sự
nghiệp cách mạng của Người,Người đã chuyển lập trường từ chủ nghĩa yêu
nước sang chủ nghĩa quốc tế vô sản…


8


Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
khẳng định: Trong thời đại ngày nay chỉ có thể giải phóng dân tộc bằng
cách mạng vơ sản và đi theo con đường cách mạng tháng Mười Nga. Muốn
vậy phải xây dựng một chính đảng cách mạng,một tổ chức lãnh đạo thống
nhất với một đường lối chính trị đúng đắn. Tuy nhiên để tổ chức hoạt động
có hiệu quả thì vấn đề con người phải được đặt lên hàng đầu. Thực tiễn lịch
sử cho thấy để phục vụ sự nghiệp cách mạng cần có một đội ngũ cán bộ có
đầy đủ bản lĩnh chính trị, trung thành, có phẩm chất, năng lực, khơng lùi
bước trước bất kỳ khó khăn nào. Chỉ với những cán bộ như thế, cách mạng
Việt Nam mới đi tới thành cơng.
Với nhận thức đó, Hồ Chí Minh khẩn trương xúc tiến q trình
chuẩn bị thành lập Đảng. Người đã bước đầu vạch ra những vấn đề cơ bản
về chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng. Đó là bước chuẩn bị
quan trọng về chính trị,tư tưởng.
Về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh thành lập Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội năm 1925. Người tuyển trọn những thanh niên Việt
Nam yêu nước trong các tổ chức cách mạng như Tâm Tâm xã và một số
thanh niên yêu nước ở trong nước, mở trường huấn luyện chính trị, đào tạo
họ trở thành những người cán bộ cách mạng rồi đưa họ trở về hoạt động
trong cách phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta
trong những năm 1926-1929. Đó chính là đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên
của cách mạng, trong đó có những người mà tên tuổi của họ gắn liền với
lịch sử đấu tranh cách mạng như: Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai,
Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong…
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn lựa chọn một số cán bộ gửi sang
Mátxcơva học tập lí luận ở trường Đại học Phương Đông và một số khác
học trường Quân sự Hoàng Phố tại Quảng Châu-Trung Quốc. Đội ngũ cán

bộ ấy sau thời gian học tập, nhanh chóng trưởng thành về chính trị, tư

9


tưởng, nhiều đồng chí về nước xây dựng cơ sở cách mạng lãnh đạo quần
chúng đấu tranh.
Như chúng ta đã biết q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là
một q trình lâu dài, nó gắn với thực tiễn hoạt động cách mạng trong suốt
cuộc đời Người, từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho tới khi Người trút hơi
thở cuối cùng.
Trên đây là những thực tiễn công việc mà Hồ Chí Minh đã làm trong
q trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã đào tạo được đội ngũ
cán bộ đầu tiên của Đảng ,đó cũng là cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ sau này.
Trên cơ sở thực tiễn ấy cùng với việc tiếp thu các quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kinh nghiệm xây
dựng bộ máy quan lại thời phong kiến cùng với những phẩm chất tốt đẹp
của Người, một tấm lòng nhân ái bao dung, một nhãn quan cách mạng đã
xây dựng lên một tư tưởng sâu sắc mang tầm thời đại. Tất cả những điều
này chỉ có thể thấy được trong con người Hồ Chí Minh, một vị lãnh tụ tài
ba, một thủ lĩnh tinh thần của dân tộc Việt Nam.

10


CHƯƠNG II

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC
CÁN BỘ CỦA ĐẢNG.

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là
một nội dung lớn liên quan đến tồn bộ tiến trình cách mạng giải phóng
dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Để làm rõ vấn đề này, trước hết ta cần hiểu khái niệm về cán bộ theo quan
niệm chung và quan niệm của Hồ Chí Minh.
1.1. Khái niệm về cán bộ
Trong từ điển tiếng Việt cán bộ được định nghĩa như sau: Là người
làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước (như cán
bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị…).
Là người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
nhằm phân biệt với người thường khơng có chức vụ.
Trong pháp lệnh cán bộ cơng chức tại điều 2, có ghi:
Cán bộ công chức là công bộc của dân, phải không ngừng rèn luyện
phẩm chất đạo đức học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Qua quá trình học tập rèn luyện, thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt
Nam Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa về cán bộ như sau: Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính Phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho chính phủ
rõ, để đặt chính sách cho đúng. Cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc.
Ta có thể thấy rằng Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa rất dễ hiểu, ai
đọc cũng có thể hiểu được ngay. Cán bộ khơng phải là cái gì cao sang mà
chỉ là cái cầu nối liền giữa Đảng và dân mà thôi.
1.2. Vị trí, tầm quan trọng của cán bộ.

11


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục kế thừa và vận dụng sáng tạo Chủ

nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt vấn đề cán bộ và công tác cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định đối
với q trình thực hiện chính sách của Đảng và Chính Phủ. Người viết
“Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành cơng hoặc thất bại của chính sách
đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điềm ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”.
Người tiếp tục khẳng định “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Chỉ điều
này đã nói lên được vị trí vơ cùng quan trọng của cán bộ, cán bộ là “cái gốc
của mọi công việc”. Cán bộ là người xác định phương hướng cách mạng
cho quần chúng, là người bồi dưỡng cho quần chúng, giúp đỡ quần chúng,
là người xác lập, kiểm tra đường lối của Đảng, đường lối ấy có trở thành
hiện thực hay khơng cũng do cán bộ, cán bộ quyết định sức mạnh của
Đảng.
Theo Bác cán bộ còn là “Tiền vốn của Đảng”, Bác giải thích “có vốn
mới làm ra lãi, bất cứ chính sách, cơng tác gì, nếu có cán bộ tốt thì thành
cơng tức có lãi, khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc tức lỗ vốn”. Để nói lên vị
trí, tầm quan trọng của cán bộ Bác đã đưa ra cách ví rất hay và dễ hiểu. Cán
bộ giống như “tiền vốn”, đã bn thì cần có vốn, khơng có vốn thì khơng
thể đi bn được, khơng đi bn được thì khơng có lãi. Bác nói rất nhiều về
cán bộ nhưng thực chất một điều Bác muốn truyền đạt tới chúng ta rằng,
cán bộ khơng có gì cao sang mà cán bộ chỉ là “cầu nối liền giữa Đảng với
quần chúng”, là người phổ biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
để nhân dân hiểu và thực hiện, nghe ý kiến của quần chúng để phản ánh lên
với Đảng.
1.3. Tiêu chuẩn người cán bộ
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phẩm chất đạo đức và năng lực
của người cán bộ ( Đức và Tài ),trong đó đạo đức là cái gốc, cái căn bản.
12



Người nói: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ
vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính”. Chỉ khi có đạo
đức cách mạng, người cán bộ mới có thể làm việc phục vụ Tổ Quốc và
nhân dân.
Người viết: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ chách mạng vẻ vang”, “người cách mạng mà khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.
Người cịn nói rõ đạo đức cách mạng của người cán bộ không phải là
cái gì trừu tượng mà đó chính là cái phẩm chất tốt đẹp của con người. Vì
vậy “Người Đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở thành người cách mạng
chân chính khơng có gì là khó cả. Điều đó hồn tồn do lịng mình mà ra,
lịng mình có chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến
chỗ chí cơng vơ tư. Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít
mà tính tốt ngày càng thêm”. Cịn nếu khơng giữ đúng thì “dễ nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân”.
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí của đạo đức cách mạng là Nhân – Nghĩa
- Trí – Dũng - Liêm. Đây khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người. Một lần nữa Bác nhấn mạnh,
người có đạo đức cách mạng phải hết lịng vì lợi ích chung của mọi người.
Đây chính là nét đặc trưng trong phẩm chất đạo đức của người cách mạng
chân chính.
Những đức tính, phẩm chất trong đạo đức cách mạng của những
người cán bộ được đề cập tới trong nhiều tác phẩm nhưng tổng hợp lại nó
bao gồm những phẩm chất sau
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
- Trong hồn cảnh nào cũng đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, một lịng
một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.

13


- Hồ mình với quần chúng, hiểu và lắng nghe ý kiến quần chúng
- Gương mẫu trong hành động
- Luôn tự phê bình và phê bình
- Thật thà ngay thẳng, không dấu dốt, không sợ khuyết điểm, khiêm
tốn cầu thị để tiến bộ
Trước lúc đi xa, trong bản di chúc của mình, Người căn dặn: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trong tiêu chuẩn người cán bộ Hồ Chí Minh cũng khơng qn tiêu
chuẩn Vũ năng lực người cán bộ ( tài ). Người cán bộ chỉ có đức thơi thì
chưa đủ mà phải có tài, có đức và có tài thì mới làm được việc. Bác đã từng
viết: Người có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Người có tài
mà khơng có đức thì cũng vơ dụng.
Chính vì vậy Hồ Chí Minh chỉ rõ phải tranh thủ thời gian tự học, tự
nâng trình độ lên. Để nâng cao trình độ, người cán bộ phải học lý luận, phải
đem lý luận áp dụng vào cuộc sống, “phải chữa bệnh kém lý luận, khinh lý
luận”, Hồ Chí Minh cho rằng phải học các môn khác như điều tra, nghiên
cứu, kinh nghiệm, lịch sử khoa học. Thơng qua đó người cán bộ tự trang bị
cho mình những kiến thức về các lĩnh vực của đời sống. Từ đó người cán
bộ tiếp tục rèn luyện nâng cao tri thức của mình.
Nói tóm lại về tiêu chuẩn của người cán bộ theo Hồ Chí Minh thì
“đức” và “tài” là hai tiêu chuẩn khơng thể thiếu. Nếu người cán bộ cách
mạng mà thiếu một trong hai mặt này thì dù khơng phải là người cán bộ
cách mạng. Giữa đức và tài có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động
lẫn nhau, bổ xung cho nhau.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
2.1. Khái niệm cơng tác cán bộ

Có thể khái qt về công tác cán bộ theo quan điểm của Hồ Chí Minh như
sau:
14


Cơng tác cán bộ là tồn bộ q trình cũng như các khâu sắp xếp, đào tạo,
huấn luyện, lựa chọn,bố trí cán bộ, chính sách cán bộ…nhằm làm cho
Đảng đánh giá đúng chất lượng đội ngũ cán bộ một cách đúng đắn. Đồng
thời nhằm tăng cường kỷ luật đối với cán bộ sai phạm, nhằm làm cho cán
bộ đảng viên ngày càng nâng cao năng lực về phẩm chất đạo đức, chun
mơn nghiệp vụ…để có thể đảm nhận tốt cơng việc của Đảng và Nhà nước
giao phó.
2.2. Vị trí tầm quan trọng của công tác cán bộ
Hầu như trong các tác phẩm mà Người viết, tác phẩm nào Người cũng đề
cập tới vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Điều đó chứng tỏ Người đặc biệt
quan tâm đến vấn đề này, coi đây là một công việc cần kíp và có vị trí rất
quan trọng. Đến khi nhắm mắt trong di chúc Người vẫn còn căn dặn: “Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng thật cần,
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư”.
Đặc biệt trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Bác viết năm 1947,
Bác đã viết riêng về vấn đề này. Tồn bộ tác phẩm đã tốt lên tầm quan
trọng của công tác cán bộ.
Bác khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng”. Cán bộ là người định hướng mọi công việc
cho dân , xây dựng công việc, bồi dưỡng cho quần chúng nhân dân, truyền
tải đường lối chính sách của Đảng đến với nhân dân. Thế nhưng để có
được người cán bộ được việc như vậy thì Đảng ta phải tuyển chọn những
người có đủ đức, đủ tài, huấn luyện đào tạo họ trở thành những người cán
bộ cách mạng chân chính. Điều này nó có ý nghĩa vô cùng to lớn, ý nghĩa
quyết định đối với vận mệnh Tổ quốc.

Bác cịn chỉ ra cách thức ni dạy cán bộ “Đảng phải nuôi dạy cán
bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”.
Lời dạy của Bác rất giản dị nhưng lại bao hàm một ý nghĩa rất lớn
lao, Đảng muốn có cán bộ tốt thì phải chú ý chăm lo tới công tác cán bộ
15


một cách tận tâm,như người làm vườn chăm sóc cây quý vậy, có như thế
cây quý mới đơm hoa kết trái cho ra những quả ngọt, mới đào tạo ra những
cán bộ tốt.
Đối với công tác xây dựng Đảng Bác viết: “trong xây dựng Đảng,
công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt”.
Bởi lẽ, một Đảng có vững mạnh thì phải có lực lượng cán bộ đảng viên
vững mạnh cả về trí tuệ lẫn tổ chức, có đầy đủ phẩm chất năng lực. Những
cán bộ đảng viên ấy phải được tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, kinh qua
thử thách và được bố trí sử dụng một cách hợp lý.
Tóm lại cơng tác cán bộ ln có một vị trí rất quan trọng trong mọi
thời kỳ cách mạng , điều đó đã được Bác khẳng định trong tác phẩm: “Sửa
đổi lối làm việc”. Ngày nay, trước yêu cầu của tình hình mới, đất nước ta
đang tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thì vị trí của cơng tác cán
bộ càng được Đảng ta coi trọng: “là khâu then chốt của vấn đề then chốt”.
Ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra, và
quan trọng hơn là bố trí họ vào những vị trí thích hợp nhất để phát huy hết
khả năng của họ, để họ hồn thành cơng việc một cách suất sắc.
2.3. Nội dung của cơng tác cán bộ
Trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng như trong
công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt tới vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ.Người cho đây là một cơng việc rất cần kíp. Người đã
góp phần giải quyết vấn đề cán bộ một cách toàn diện. Từ quan điểm về
cán bộ, đến phương hướng, nội dung, phương pháp, biện pháp xây dựng

đội ngũ cám bộ. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ không những
trước mắt mà cả lâu dài, cả ở TW và địa phương, cơ sở. Tất cả các vấn đề
đó đều được người chỉ rõ ràng cụ thể thông qua tư tưởng của người về công
tác cán bộ của Đảng .
2.3.1 Về đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ

16


Từ quan niệm “cán bộ là gốc của mọi công việc”, Hồ Chí Minh xác
định “huấn luyện cán bộ là công việc của Đảng”. Đào tạo bao gồm “nuôi
dạy”, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Đó là cơng việc mà Đảng phải bỏ
nhiều công sức, tiến hành chu đáo , công phu. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ
như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Hồ Chí Minh cho
rằng: “Huấn luyện học tập không phải là việc đơn giản, muốn làm được thì
phải hiểu cho rõ”. Trước hết phải xác định đúng mục đích huấn luyện, học
tập. Tức là huấn luyện, học tập để làm gì? Điều này phải được quán triệt ở
cả chủ thể huấn luyện và đối tượng huấn luyện.
Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ đi học là để “làm việc, làm người rồi
mới làm cán bộ chứ không phải trước hết để làm cán bộ”. Tuy ba mục đích
ấy là thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng trong thực tế dễ bị đảo
lộn thứ tự, nhận thức và hành động sai mục đích, nhất là đối với người học.
Do đó đối với người học Hồ Chí Minh nhấn mạnh “học để sửa chữa tư
tưởng”, “học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”, “học để tin tưởng”, “học để
hành”…Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan phụ
trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công”.
“Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan dễ bảo, “đập đi, hị đứng”
khơng dám phụ trách, như thế là một việc thất bại của Đảng. Đào tạo, thế
thì “phí cơng, phí của, vơ ích”. Hồ Chí Minh nghiêm túc phê phán cách tạo
hình thức, chạy theo số lượng mà không thiết thực,chu đáo, chất lượng

kém.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những vấn đề cụ thể, thiết thực đến nay vẫn
còn nguyên giá trị như:
2.3.1.1. Huấn luyện ai
Bác khẳng định, trước hết là huấn luyện cán bộ, vì “cán bộ là tiền
vốn Đảng”, “Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có
cán bộ tốt thì thành cơng, tức có lãi”. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc,
tức là lỗ vốn”.
17


Ta có thể thấy Bác xác định đối tượng huấn luyện rất cụ thể khơng
vịng vo khó hiểu. Bác chỉ rõ ln đối tượng huấn luyện đó là cán bộ,
những người gánh trọng trách cơng việc mà Đảng giao phó. Vì vậy họ có
nghĩa vụ và trách nhiệm phải thực hiện cơng việc ấy, muốn làm được điều
đó thì những cán bộ ấy phải được đào tạo, huấn luyện một cách căn bản.
Nhưng ai huấn luyện họ, Bác cũng chỉ ra rất cụ thể.
2.3.1.2. Ai huấn luyện
Theo Bác thì khơng phải ai cũng huấn luyện được. Phải lựa chọn rất
cẩn thận nhân viên phụ trách việc huấn luyện. Chính bản thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, tham gia giảng
dậy và chỉ dẫn công việc, hướng dẫn, dậy bảo cán bộ trong công tác thực
tế.
Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dậy và chỉ dẫn công
việc, tuỳ đối tượng huấn luyện và nội dung huấn luyện mà chọn người huấn
luyện tương xứng. “ Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về
mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Người huấn luyện phải học thêm
mãi. “ Người nào tự cho mình là đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất” Lê
nin đã từng nói: “Người thơng minh là người biết được mình dốt”.
2.3.1.3 Huấn luyện gì

Đã xác định được đối tượng huấn luyện, người huấn luyện, tiếp đó
Bác quan tâm đến nội dung của việc huấn luyện. Đây là một vấn đề cốt yếu
nó quy định các nội hàm của người cán bộ . Hồ Chí Minh đã đề cập đến
bốn nội dung:
Trước hết là huấn luyện lý luận. Người nêu hai cách huấn luyện lý
luận: Lý luận sng, vơ ích và lý luận thiết thực có ích. Tránh cách huấn
luyện thứ nhất và làm theo cách huấn luyện thứ hai. Lý luận mà khơng thực
hành thì cũng vơ ích. Vì vậy học phải đi đôi với hành.

18


Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trị vơ cùng quan trọng của lý luận và
học lý luận. Vì thế người nhất thiết đã là cán bộ thì phải học lý luận có hiểu
lý luận với các lý do:
- Lý luận đóng vai trị định hướng cho hành động.
- Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại
của cách mạng qua các giai đoạn và các thời kỳ lịch sử.
Khi đặt vấn đề Đảng lãnh đạo thế nào và Đảng lãnh đạo bằng cái gì,
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng; lý luận rất quan trọng: “khơng có lý luận lúng
túng như nhắm mắt mà đi”. Rằng nguyên nhân của bệnh chủ quan, bảo thủ
là do “kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận sng”.
Lý luận đóng vai trị dự đốn tương lai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó
chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế”; rằng trong thực
tế, có những cán bộ có nhiều kinh nghiệm, điều đó rất quý, nhưng nếu họ
có những cán bộ có nhiều kinh nghiệm, điều đó rất quý, nhưng nếu họ “
biết thêm lý luận thì cơng việc lợi hơn nhiều. Người cho rằng: “Có kinh
nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ.” Lý
luận giúp cho con người ta định hướng cho đúng hành động hiện tại, phải

đoán đúng bước đi và sự phát triển của tương lai.
Lý luận giúp con người tạo lập niềm tin, kiên định lập trường tư
tưởng.
Người đã từng nói rằng, Người đã “76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học
thêm”; để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh; “Đảng mạnh là do chi bộ
tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ “bốn tốt”
thì phải bồi dưỡng lập trường vơ sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vơ
sản vững chắc thì đảng viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý
luận cách mạng. Khơng có lý luận về CNXH khoa học thì khơng thể có lập
trường giai cấp vững vàng”.

19


Ngồi dạy lý luận ra cịn phải dạy cơng tác; phải dạy văn hố, nâng
cao trình độ cán bộ, để làm cơ sở giúp cho họ tiến bộ về lý luận và cơng
tác. Với những cán bộ cịn kém văn hố thì việc huấn luyện này rất trọng
yếu. Người chỉ rõ: “những cán bộ học trong lớp này, phải theo trình độ văn
hố cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không theo cấp bậc cao hay thấp”.
Cuối cùng là huấn luyện chuyên môn. “Mỗi người phải biết một
nghề để sinh hoạt”, “Riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành hoạt động
nào thì phải biết chun mơn về ngành ấy”. Cán bộ mơn nào thì nghiên cứu
lý luận của mơn ấy.
2.3.1.4 Huấn luyện thế nào
Hồ Chí Minh nhấn mạnh “cốt thiết thực, chu đáo hơn…việc cốt yếu
là phải làm cho người học hiểu vấn đề”. Phải lấy người ở cấp dưới lên huấn
luyện rồi trở lại cấp dưới để họ huấn luyện cho cấp dưới nữa, muốn vậy
phải huấn luyện chu đáo. “Đừng bôi bác, nếu ở trên bôi bác thì càng xuống
dưới càng sai lệch”. Quá trình huấn luyện phải gắn lý luận với công rác
thực tế, phải nhằm đúng nhu cầu. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải chú trọng

việc cải tạo tư tưởng: “Phải huấn luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn rũa
cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc”. Huấn luyện cán bộ, một mặt chú
trọng trang bị kiến thức, nâng cao khả năng, mặt khác phải “tẩy rửa khuyết
điểm cho họ”.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh “phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”.
Người học phải biết tự động, tự giác học tập, xác định đúng mục đích, động
cơ học tập. Học tập lý luận “ theo nguyên tắc: kinh nghiệm và thực tế phải
đi cùng nhau”. Cách học tập là: “lấy tự học làm cốt”. Trong mục học “học
ở đâu”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và
học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”.
2.3.2. Về lựa chọn cán bộ
Lựa chọn cán bộ là vấn đề rất hệ trọng. Làm sao chọn được những
người cán bộ có phẩm chất, năng lực, uy tín thực sự. Cần loại bỏ những
20



×