Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của ĐCS VN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.22 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................2
1 Sự cần thiết của đề tài.............................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu.............................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT XÃ HỘI...................................................................................4
1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................4
1.1.1. Lực lượng sản xuất......................................................................4
1.1.2. Quan hệ sản xuất.........................................................................5
1.1.3. Phương thức sản xuất..................................................................6
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:.....................................................................7
1.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
...................................................................................................................8
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.................................................................................................11
2.1. Tình hình thực tế..............................................................................11
2.1. Những vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.................................................................................14


PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19



PHẦN I: MỞ ĐẦU
1 Sự cần thiết của đề tài
Cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ ở Khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, đặc biệt là ở Việt Nam, quốc gia đang chứng kiến sự cải tiến và
ứng dụng công nghệ tại nơi làm việc ở tốc độ nhanh hơn bao giờ hết và rất đa
dạng trong các ngành nghề khác nhau. Những đóng góp, bổ sung và phát triển
cũng như sự vận dụng sáng tạo, những quy luật của học thuyết Mác - Lênin
vào quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Sự vận dụng quy luật phù hợp
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển nền kinh tế đất nước
nói chung và phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta nói riêng. Đã đạt được
những kết quả to lớn. Đây là sự địi hỏi phải có những quan tâm của Đảng,
Nhà nước của mọi người nhất là khi trên thế giới một nền kinh tế mới đang
hình thành và phát triển mạnh mẽ, đó là kinh tế tri thức, nền kinh tế ấy trước
hết thể hiện trình độ mới lực lượng sản xuất. Một trình độ có đặc trưng ơ bản
là tri thức đóng vai trị quy định số một.Vì vậy sự vận dụng quy luật này vào
nước ta hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.
Góp phần vào chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra mỗi cá nhân
sinh viên nói riêng thế hệ trẻ của Việt Nam ta cần phải đóng góp vốn tri thức
và phải nghiên cứu tri thức, để tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức
phù hợp với điều kiện và hồn cảnh đất nước. Do đó sau một thời gian tìm
hiểu và nghiên cứu, chúng e đã lựa chọn chủ đề “ Vận dụng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của
ĐCS VN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay ” để
hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng như những vận dụng đúng đắn của Đảng và
Nhà nước.


2. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các khái niệm cũng như lý luận
về các vấn đề liên quan đến quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và mối quan

hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cùng đó là đưa ra thực tế vận
dụng trong nền kinh tế thị trượng hiện nay để từ đó đưa ra một số khuyến
nghị phù hợp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận được tìm hiểu và hồn thành trong vịng 3 tuần bằng
những kiến thức được học tại lớp và kiến thức tham khảo trên một số website
uy tín.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp
nghiên cứu tài liệu, ngồi ra cịn sử dựng các phương pháp khác như: Phương
pháp diễn dịch, Tư duy lôgic…
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các lý luận về mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và phương pháp sản xuất. Ngoài ra còn đưa ra một số biện
pháp để vận dụng một cách hiệu quả trong nền kinh tế thị trường nước ta từ
những cơ hội và thách thức. Cụ thể:
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ VÀ THỊ
TRƯỜNG
CHƯƠNG II: VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI SANG
NỀN SẢN XUẤT HÀNG HỐ
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẮM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT XÃ HỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lực lượng sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Và theo Lênin “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân và người lao động”.
b. Kết cấu:
Lực lượng sản xuất gồm: có người lao động ( lực lượng sản xuất chính)
và tư liệu lao động.
Tư liệu lao động bao gồm: tư liệu sản xuất và đối tượng lao động, hai
thành phần này tác động qua lại lẫn nhau trong q trình sản xuất. Tư liệu lao
động bao gồm: cơng cụ hỗ trợ lao động và công cụ lao động.
Trong q trình lao động người lao động sử dụng cơng cụ lao động và
các công cụ hỗ trợ tác động trực tiếp hay gián tiếp vào đối tượng lao động để
tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội
dung khái niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất
mới và làm cho năng suất lao động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được
xem như là tiêu chí quan trọng trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của


lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến thắng
của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác.
1.1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan
hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong q trình sản xuất, khơng phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội sản xuất; giữa ba mặt của

quan hệ sản xuất có mối quan hệ thống nhất với nhau, tạo thành hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội. Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và
làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phàu hợp với nó.khi một phương thức sản
xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực
lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức
phát triển” của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp chở thành không phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy yêu cầu khách quan của sự


phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
thành quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi
ra đời thay thế cho phương thức sản xuất cũ. Lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và
tác động lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác
động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
1.1.3. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là một khái niệm trong học thuyết duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Marx. Nó có nghĩa nôm na là "cách thức của sản xuất".Theo
Marx, xã hội loài người trong các giai đoạn lịch sử và ở các khu vực khác

nhau có thể trải qua 7 phương thức sản xuất khác nhau. Cụ thể là:
+) Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy: Xã hội loài người được
tổ chức trong các cấu trúc bộ lạc truyền thống với ít hơn 50 người trên một
đơn vị sản xuất, điển hình bởi việc chia sẻ sản xuất và tiêu thụ tồn bộ sản
phẩm xã hội. Do khơng có sản phẩm thặng dư nào được sản xuất, nên khơng
có khả năng tồn tại các giai cấp thống trị.
+) Phương thức sản xuất châu Á: Đây là đóng góp gây tranh cãi của
học thuyết Marx, nguyên thủy được sử dụng để giải thích các cơng trình xây
dựng bằng đào đắp đất lớn tiền slavơ và tiền phong kiến ở Trung Quốc, Ấn
Độ, Ơ-phrát và lưu vực sơng Nin (và nó được đặt tên trên cơ sở này của các
chứng cứ nguyên thủy có được từ châu Á).
+) Phương thức sản xuất Slavơ: Nó tương tự như phương thức châu Á,
nhưng khác biệt ở dạng sở hữu là sự chiếm hữu cá nhân trực tiếp những gì
thuộc về lồi người.
+) Phương thức sản xuất phong kiến:
+) Phương thức sản xuất tư bản:


+) Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa:
+) Phương thức sản xuất cộng sản:
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.

Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm khơng
ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức cơng nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản
xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn
nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xố bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xố
bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa
là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới. Những quan hệ sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là
hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác, phát triển của lực
lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó.
Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.


Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất
người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà không
giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm của
quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản
xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất , nó là yếu tố quyết định

là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo
quy mơ thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích
chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con người
là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý
sản xuất và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều
mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa
học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
1.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản
xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngoài quan hệ sản
xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất có
thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.


Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực
lượng sản xuất đúng vị trí, chức năng của chúng làm cho chúng phát huy
được tính năng, tác dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp
không phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối
với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu
hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ
chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đoàn sản xuất nào, tổ chức sản
xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là
mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực

lượng sản xuất trực tiếp.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật
chung cơ bản của quá trình lịch sử lồi người nó tác động trong những giai
đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân căn bản của sự hình thành và
phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử.
Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai
đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác.Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang
phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi
sang phương thức tư bản và cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.
Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy định
của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã
hội nhất định.
Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu, tác động thường
xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định


cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển xã hội. Nhưng không
phải là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất cộng
sản bỏ qua phương thức sản xuất TBC. Sở dĩ có thể tiến hành như vậy là vì
trên tồn thể giới phương thức sản xuất tư bản đã khơng cịn chiếm vị trí độc
tôn kế từ khi cách mạng CNXH ở nước Nga bùng nổ và thắng lợi.
Nhưng cần phải hiểu được sự bỏ qua khơng phải một cách máy m óc
mà trái lại phải tiếp thu tất cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương
thức tổ chức nền kinh tế tiến triển mà xã hội tư bản đã đặt được để phát triển
triển nền kinh tế của chúng ta. Không những thế còn phải tiếp nhận cả những
yếu tố của những giai đoạn phát triển kinh tế thấp hơn đang có mặt ở nước ta

để hướng chúng vào mục tiêu cuối cùng là phương thức sản xuất cộng sản.


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
2.1. Tình hình thực tế
Trong thời đại ngày nay , khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng , vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành
lực lượng sản xuất , đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các
yếu tố nói trên cấu thành lực lượng sản xuất trở thành yếu tố vô cùng quan
trọng trong quá trình sản xuất xã hội
Ở mỗi giai đoạn lịch sử , khơng có lực lượng sản xuất nào lại khơng
gắn bó với những quan hệ sản xuất nhất định . Nếu sản xuất với tư cách là
mối liên hệ kỹ thuật giữa con người với tự nhiên chỉ được thực hiện thông qua
các quan hệ kinh tế - xã hội giữa người và người thì ngược lại , những mối
quan hệ kinh tế -xã hội đó cũng chỉ tồn tại được là nhờ có quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong xã hội . Đây không phải là những mối quan hệ giản
đơn , bất biến , không mâu thuẫn mà là những mối quan hệ biện chứng phức
tạp và không ngừng phát triển .
Quan hệ sản xuất với tính cách là hình thức xã hội của sản xuất, bao
giờ cũng thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy địnhỷtình độ của quan hệ
sản xuất . Hai mặt quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau ,
làm tiền đề tồn tại cho nhau, biểu hiện trong quá trình sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống xã hội . Trong mối quan hệ biện chứng này, quan hệ sản xuất khi

nó phù hợp với trình độ của lực lượng san xuất thì tạo địa bàn cho lực lượng


sản xuất phát triển . Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
là sự phù hợp của hình thức và nội dung . ở đâu , lúc nào quan hệ sản xuất
khơng cịn tác dụng tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển thì lúc đó
quan hệ sản xuất khơng phù hợp với tính chất và trình độ của kực kượng sản
xuất. Đây là một nguyên lý được xem là rất cơ bản của chủ nghĩa Mac- LeNin
đã được toàn bộ sự phát triển cua lịch sử loài người chứng minh là đúng.
Đảng và nhà nước ln ln nhận thức đúng vị trí của quy luật và đã
thể chế hố nó vào đường lối sản xuất. Vận dụng những tư tưởng và quan
điểm nói trên, Đảng ta đã đề ra đường lối kết hợp cải tạo và xây dựng quan hệ
sản xuất, nghĩa là cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
nhằm mục đích tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng : “ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vao trò chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc “
Việc hình thành đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hố nhiều thành
phần trong thời kì q độ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta đã khẳng định cơng nghiệp hố là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì q độ. Song, chúng ta khơng thể tiến hành
cơng nghiệp hoá trên cơ sở một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, thơ sơ về mọi mặt
trong đó sản sản xuất nơng nghiệp là chủ yếu. Cơng nghiệp hố địi hỏi nơng
nghiệp phải cung cấp một khối lượng lớn lương thực và nguyên liệu cho công
nghiệp. Nhưng với nền kinh tế tiểu nông , sản phẩm làm ra không đáp ứng
được nhu cầu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Thực tế chỉ ra rằng, ngày nay để nước ta tiến hành cơng nghiệp hố
XHCN thì nền kinh tế khơng thể duy trì quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất mà phải cải tạo quan hệ đó, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất Xã hội



chủ nghĩa, tạo cơ sở kinh tế xã hội quan trọng cho q trình cơng nghiệp hố
Xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ ở Việt Nam. Nền kinh tế cũ với cơ chế
quản lí bao cấp, tập trung đã kìm hãm năng lực sáng tạo và tính năng động
của các chủ thể trong sản xuất kinh doanh. Chủ trương xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường thay cho nền
kinh tế quản lí theo cơ chế bao cấp tập trung là sự thay thế tất yếu, là sự thay
đổi quan hệ sản xuất cũ để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Xây dựng chế độ
XHCN về kinh tế trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhăm phát
triển hơn nữa lực lượng sản xuất. Chủ trương của Đảng là xây dựng kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ
đạo, mở đường đưa các thành phần kinh tế khác chiếm lĩnh ưu thế của nền
kinh tế quốc dân. Khi chuyển tư liệu sản xuất từ hình thức sở hữu tư nhân
sang hình thức sở hữu ( cộng sản ), quan hệ sản xuất đã giải quyết được
những vấn đề về hìhn thức sử dụng, phương thức tồn tại của tư liệu sản xuất
trong cơ cấu kinh tế. Việc lựa chọn hình thức kinh tế có tính quyết định tới
việc hình thành các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ là phổ biến tiến lên
XHCN, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đã có những yếu tố khách quan
làm cơ sở cho sự phát triển tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần trong thời kì q độ ở Việt Nam.
Thứ nhất : Trình độ chủ yếu của lực lượng sản xuất ở nước ta là thủ
công và tiểu thủ cơng nghiệp. Chính điều này đã làm cho quá trình lao động
của họ dần tách rời nhau và tách rời khỏi thành quả lao động của họ.
Thứ hai

: Những người lao động thủ công tham gia vào quá trình sản

xuất phân tán trên địa bàn rộng, nền sản xuất nhỏ và phân tán nên khó tổ chức

và quản lí sản xuất được tốt.


Thứ ba

: Cơ sở vật chất của nước ta còn quá nghèo nàn lạc hậu so

với sự phát triền chung của thế giới, phương pháp lao động thủ công và dựa
trên kinh nghiệm là chủ yếu trong khi đó các nước đã áp dụng khoa học kĩ
thuật vào sản xuất từ rất lâu. Chính vì vậy tính xã hội hố trong lao động chưa
cao.
Thứ tư

: Trình độ của lực lượng sản xuất còn chênh lệch nhau quá

nhiều giữa thành thị và nông thôn, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa đồng
bằng và miền núi.
Đó chính là những trở ngại lớn cho Việt Nam trong bước
chuyển tiếp từ một hình thái kinh tế – xã hội kém phát triển
sang một hình thái mới hiện đại hơn phù hợp với những chuẩn
mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã
hội.
Chính lúc đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra bước
ngoặt phát triển của loài người , mở ra một nền văn minh mới, tác động sâu
sắc đối với cuộc sống của các tộc người trên thế giới, tạo cho các nước đang
phát triển và chậm phát triển trong đó có Việt Nam thời cơ mới nhưng cũng
khơng ít thách thức trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. Để vựot
qua những chướng ngại vật mang tính tồn cầu đó, Việt Nam đã chủ động và
mạnh dạn thay đổi hẳn đường lối kinh tế của mình : từ nền kinh tế tập trung
bao cấp chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường. Và một trong những yếu tố

quyết định tới thay đổi đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Tính
chất quốc tế hố của lực lượng sản xuất đã tạo nên xu thế mới trong quan hệ
giữa các quốc gia, các dân tộc, làm thức tỉnh các dân tộc đi vào con đường
phát triển tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoận Tư bản chủ nghĩa. Lực
lượng sản xuất của Việt Nam đã hoà nhập cùng với xu thế chung của lực
lượng sản xuất trên toàn thế giới.


2.1. Những vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
Đảng và nhà nước đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm
nhận thức đúng hơn và có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
quan trọng là công cuộc xây dựng cơ cấu kinh tê mới, về công nghiệp ohá Xã
hội chủ nghĩa trong những chặng đưòng đầu tiên khi mới phát triển, thừa nhận
sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để
cơ chế bao cấp lạc hậu, lỗi thời và quyết định chuyển hẳn sang hạch tốn kinh
doanh. Xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa
thấp vừa khơng đồng đều nên khơng thể nóng vội, chủ quan xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xt. Hình thức kinh tế nhiều thành phần góp phần giải phóng mọi khả
năng để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đã đúng trong những thay đổi nền kinh tế Việt Nam.
Về mục đích : xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa nhất là trong những chặng đầu của thời kì quá độ, lực lượng
sản xuất còn yếu kém cần được củng cố, tạo cơ sở xây dựng thành công trên
nền tảng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội. Dùng cơ chế thị trường để
khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất. thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố Chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo tiền đề vững chắc về kinh tế cho sự phát ra đời của

phưong thức sản xuất chủ nghĩa xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện địa
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù họp trên cả 3 mặt : sở hữu về
tư liệu sản xuất, quản lí và tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm .
Về chế độ sở hữu : là chế độ sở hữu công cộng ( công hữu ) về tư liệu
sản xuất chủ yếu từng bứoc được xác lập cà sẽ chiếm hữu ưu thế tuyệt đối khi
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản.


Về chế độ phân phối : nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phân
phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh,
góp phần đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội, hình thành quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng xã hội XHCN, một xã
hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các hình thức sở hữu có thể
đan xen, hỗn hợp với nhau trên cơ sở 2 hình thức sở hữu cơ bản từ đó hình
thành nên nhiều thành phần kinh tế : tư nhân, quốc doanh, hợp doanh, liên
doanh, doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngồi......
Như đã nói ở trên, sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là yếu tố hàng
đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định tới chế độ phân phối và
chế độ quản lí. Đó cũng là lí do vì sao muốn xố bỏ sự bóc lột, bất cơng thì
phải xố bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Trong thực tế, khoa học kĩ thuật đã được nước ta áp dụng tối đa để trở
thành lực lượng sản xuất quan trọng. Nếu như trước những năm giải phóng,
nền kinh tế nước ta chủ yếu là dựa vào nông nghiệp và 1 số nghề thủ công
( như chạm khảm, làm đồ mây nan tre.... ) với năng suất rất thấp, thậm chí cịn
khơng đủ để phục vụ nhu cầu trong nước thì đến năm 1986, với khoa học và
kĩ thuật, cơng nghiệp hố nơng nghiệp ( như sử dụng máy móc thay sức lao
động của người, sử dụng các loại giống cây trồng tốt cho năng suatá cao và

thích nghi được với khí hậu,mơi trường của Việt Nam.... ) thì sản lượng đã
tăng rất nhanh vừa thoả mãn nhu cầu trong nước vừa để xuất khẩu ( Việt Nam
là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới ) .
Đảng và nhà nước cũng đã định hướng rõ muốn phát triển lực lượng
sản xuất thì phải đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng cho ngành giáo dục để


nâng cao nguồn nhân , đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước và phát triển kinh tế trí thức.
Tuy chủ trương và chính sách là cơng nghiệp hoá - hiện
đại hoá nhưng Đảng và nhà nước vần khẳng định ngành Nơng
nghiệp vẫn giữ vai trị chủ đạo, tạo tiền đề cho công nghiệp
phát triển. Bởi bản chất nước ta là 1 nước nông nghiệp với
những điều kiện tự nhiên phong phú để phát triển ngành này.
Mặc dù chúng ta cũng có những điều kiện tốt để phát triển
cơng nghiệp nhưng với trình độ lực lượng sản xuất như hiện
nay thì khơng thể nhanh chóng xây dựng 1 nền cơng nghiệp
vững chắc, có sức cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế
giới. Đồng thời cơ sở hạ tầng cũng chưa cho phép nước ta
phát triển ngành công nghiệp.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
thành phần kinh tế tự do làm ăn, phát triển nhưng không được
tách rời ra khỏi sự quản lí của nhà nước. Nhà nước bằng pháp
luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, kế hoạch, chính sách, sử
dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lí của kinh tế thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế
và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi
ích nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Nền kinh tế sản xuất hàng hố nhiều thành phần tự nó

đã chứa đựng những mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế
vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng Chủ nghĩa tư
bản.Thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất
xã hội chủ nghĩa nhưng chưa thích nghi được với cơ chế thị
trường, làm ăn kém hiệu quả nên ở đây diễn ra cuộc đấu


tranh định hướng gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định
hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế nhiều
thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và quản lí kinh tế của
Nhà nước giữ vai trò quyết định. Việc vận dụng các quan điểm
của triết học trong xây dựng và quản lí kinh tế có một ý nghĩa
thực tiễn vô cùng sâu sắc.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất
của lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng phát triển
hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trị của
người lao động có tri thức lại càng quan trọng, trong lực lượng sản xuất.
V.L.Lênin đã chỉ ra: Lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là
cơng nhân, là người lao động.
Con người khi làm chủ được những tư liệu sản xuất, được đào tạo một
cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một
cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản
xuất như huy động vốn, động viên khuyến khích người lao động làm việc có
hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư, do vậy hiệu quả sản xuất kinh
doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay vai trò quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày
càng trở nên quan trọng. Do vậy, mọi quốc gia thường rất quan tâm tới đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tri thức.

Thực tiễn những thành tựu đạt được từ công cuộc đổi
mới đã chứng minh chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện tư
duy, quan niệm về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây cũng
chính là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì
quá độ tiến bước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “ Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh dân chủ “



×