Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở quảng bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.32 KB, 74 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến q Thầy Cơ trong khoa Lý Luận Chính Trị, Trường Đại
học Khoa học đã hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho em trong bốn năm
học vừa qua. Đặc biệt là cô giáo Thạc sỹ Thái Thị Khương đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá trình viết và hồn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn UBND tỉnh Quảng Bình, thư viện, trung tâm học
liệu đã tạo mọi điều kiện cho em hồn thành tốt khóa luận.
Qua đây, em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và bạn bè đã
động viên giúp đỡ em hồn thành tốt khóa luận này. Với vốn kiến thức
được tiếp thu trong q trình học tập khơng chỉ là nền tảng cho q
trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước
vào đời một cách vững chắc và tự tin hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc q Thầy, Cơ dồi dào sức khỏe và
thành công trong sự nghiệp trồng người.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hiền

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

1


Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1



1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu....................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................4
3.1. Mục đích.................................................................................................4
3.2. Nhiệm vụ................................................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................5
4.1. Cơ sở lý luận...........................................................................................5
4.2. Phương pháp...........................................................................................5
5. Đóng góp của đề tài...................................................................................5
6. Kết cấu của khóa luận...............................................................................5
NỘI DUNG......................................................................................................6
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT.....................................................................................6

1.1.Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.................................6
1.1.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất......................................6
1.1.2. Khái niệm quan hệ sản xuất..............................................................14
1.2 . Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất...................20
1.2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất..............................20
1.2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.............................................................................................27
Tiểu kết chương 1:.....................................................................................31
Chương 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUẢNG
BÌNH HIỆN NAY..........................................................................................33

2.1. Sơ lược tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Bình hiện nay...........33
2.1.1. Điều kiện xã hội ...............................................................................33
2.1.2. Điều kiện kinh tế ..............................................................................36

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

2


Khóa luận tốt nghiệp

2.2. Chính sách phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn hiện nay...37
2.2.1. Sự tác động của các ngành kinh tế đến việc phát triển kinh tế tỉnh
Quảng Bình .................................................................................................37
2.2.2. Những thành tựu đạt được về kinh tế của tỉnh Quảng Bình hiện nay
.....................................................................................................................43
2.3 Thực trạng và giải pháp của nền kinh tế Quảng Bình hiện nay............52
2.3.1. Thực trạng của nền kinh tế Quảng Bình từ năm 2000 – 2010..........52
2.3.2. Một số giải pháp về kinh tế ở Quảng Bình hiện nay........................59
Tiểu kết chương 2: ....................................................................................65
KẾT LUẬN...................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................69

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

3


Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
C. Mác và Ph. Ăngghen đã có những cống hiến hết sức vĩ đại cho
nhân loại ngày nay và một trong những cống hiến đó là đã mở rộng thế giới

quan duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Đem lại sự nhận thức xã hội
trong chỉnh thể và phát hiện ra những quy luật vận động, phát triển phổ
biến của lịch sử xã hội bởi học thuyết hình thái kinh tế xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, tức q trình phát triển
có quy luật của xã hội lồi người nói chung khi được phản ánh dưới hình
thức hệ thống các khái niệm, quy luật và các quan niệm thì đem lại cho
chúng ta lý luận về q trình đó. Đây là hình ảnh lý luận là cái cụ thể trong
tư duy và q trình phát triển tất yếu của xã hội lồi người nói chung. Các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cho thấy mặt lý luận của học thuyết hình
thái kinh tế xã hội có nội dung rất rộng, bao gồm rất nhiều yếu tố hợp
thành, nhưng có thể quy về ba quan niệm hay ba yếu tố lớn là khái niệm
hình thái kinh tế xã hội, quan niệm về quá trình lịch sử tự nhiên, tức là sự
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, quan niệm về mối liên hệ giữa
quá trình lịch sử - tự nhiên và sự đa dạng của lịch sử. Trong những quan
niệm này, quan niệm về quá trình lịch sử - tự nhiên với yếu tố đặc trưng nổi
bật của nó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, là quan niệm cơ bản nhất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất tác động đến mọi mặt của đời sống
xã hội của một quốc gia, một đất nước đặc biệt là trong vấn đề kinh tế. Nếu
trong một nước mà quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, và ngược lại.
Vì vậy, người ta phải biết điều tiết mối quan hệ biện chứng giữa hai khái
niệm này để tìm ra sự phù hợp giữa chúng.
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

4


Khóa luận tốt nghiệp


Nghiên cứu đề tài này, tơi chỉ muốn góp một phần nhỏ vào việc phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
đồng thời làm rõ tình hình phát triển kinh tế ở Quảng Bình hiện nay.
Vì vậy, hơn lúc nào hết việc nắm vững và bảo vệ tính cách mạng, tính
khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa Mác là một
nhiệm vụ chính trị và đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn ngày nay.
Hơn nữa, với một sinh viên ngành triết học được trang bị cho mình
một lượng kiến thức chuyên ngành Mác - Lênin, đó là hệ tư tưởng tiến bộ,
khoa học nhất thì việc lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có học
thuyết hình thái kinh tế xã hội là điều rất cần thiết để tơi hồn thành khóa
luận tốt nghiệp với tên đề tài: “Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Quảng Bình hiện nay”.
Giới hạn là một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, bản thân tôi chỉ tập
trung giải quyết các vấn đề trong khóa luận từ năm 2000 - 2010, nhằm làm
rõ sự vận dụng biện chứng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở Quảng Bình.
Xuất phát từ những lý do nêu trên mà tơi đã cố gắng tìm tịi, suy nghĩ
thấu đáo và mạnh dạn lựa chọn vấn đề nêu trên để làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung và quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng
là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc
biệt là đối với vấn đề phát triển kinh tế. Góp phần làm nền tảng lý luận,
định hướng phát triển kinh tế, đưa ra những con đường, những giải pháp
phù hợp cho việc hoàn thiện nền kinh tế theo hướng cơng nghiệp, hóa hiện
đại hóa đất nước.
Vì vậy mà đã có rất nhiều nhà nghiên cứu Mác xít quan tâm, tìm hiểu,
đưa ra những lý luận duy vật về hình thái kinh tế xã hội đặc biệt là về quy

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

5


Khóa luận tốt nghiệp

luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Họ đã có những cơng trình nghiên cứu được đơng đảo mọi người
quan tâm, chúng ta không thể kể hết những cơng trình đó mà chỉ có thể nêu
một số nghiên cứu gần đây mà chúng ta thường nhắc đến:
Với tác phẩm: “ Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý
luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta” Nxb Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2005. Chủ biên: Tiến sĩ Phạm Văn Chung đã tập trung
xem xét nội dung khoa học của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội
và mối liên hệ hữu cơ của nó đối với lý luận về con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Từ việc nghiên cứu học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội, cuốn sách xác định hai phương diện là lý luận và phương
pháp luận của học thuyết và chỉ ra một cách cụ thể vai trò phương pháp
luận của học thuyết này đối với việc xác định nội dung khoa học của lý
luận về con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thông qua luận giải một số
vấn đề lý luận cấp bách.
Trong tác phẩm: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”, của Lương Xuân
Quỳ, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Đề cập đến hệ quan điểm,
phương hướng, chính sách và giải pháp xây dựng quan hệ sản xuất định hướng
xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trên đất nước ta.
Trong cuốn: “ Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở Việt
Nam” của tác giả Phạm Thị Quý, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000.
Tác phẩm nêu những vấn đề về quan hệ sản xuất, quá trình xác lập quan hệ

sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới ( từ năm 1986 đến
nay), định hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quan hệ
sản xuất ở Việt Nam.
Đặc biệt trong số những cơng trình nghiên cứu đó có tác phẩm: “Tìm
hiểu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về quy luật phù hợp của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất”, Trương Hữu Hoàn, Triết học, số 3 (1994).
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

6


Khóa luận tốt nghiệp

Nội dung tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng của học thuyết hình
thái kinh tế xã hội, đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất để thấy rõ sự tác động qua lại giữa chúng là một
q trình có quy luật của nó. Vạch rõ những tư tưởng của Mác và Ph.
Ăngghen về quan hệ sản xuất,lực lượng sản xuất để ta thấy rõ được những
đối tượng đó có đặc điểm và mối liên hệ với nhau như thế nào. Bên cạnh đó
cịn làm rõ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ở mỗi thời đại khác nhau
như thế nào.
Đó mới chỉ là một số nghiên cứu gần đây của các tác giả mà chúng ta
được đọc và tham khảo. Ngồi ra cịn rất nhiều cơng trình khác của các cấp,
các ngành, cán bộ và sinh viên thuộc khoa lý luận chính trị cần được chúng
đặc biệt quan tâm. Với đề tài khóa luận của tôi mặc dù không phải là đề tài
mới mẻ nhưng đang là vấn đề rất được quan tâm nên tơi xin được góp một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đặc biệt
là đối với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết hình thái
kinh tế xã hội đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Nêu ra được những đặc điểm cũng như
thực trạng và giải pháp của tỉnh Quảng Bình trong sự vận dụng quy luật đó.
3.2. Nhiệm vụ
Để hồn thành mục đích trên sinh viên thực hiện đề tài này có nhiệm vụ:
* Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, làm rõ tác động qua lại giữa chúng.
* Nêu ra những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
và những quy luật trong đó. Qua đây thấy được ý nghĩa của việc vận dụng học
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

7


Khóa luận tốt nghiệp

thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất nói riêng vào phát triển kinh tế Quảng Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đồng thời dựa trên nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
đường phát triển đi lên CNXH.
4.2. Phương pháp
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra cịn vận dụng các phương
pháp cụ thể như: Phân tích - tổng hợp, lơgic - lịch sử, liệt kê, so sánh và các
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác.

5. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi là một bài khóa luận tốt nghiệp, người thực hiện đề tài
chỉ mong muốn làm rõ tính đúng đắn, khoa học trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, đề tài có thể là một trong những nguồn tài liệu cần thiết
cung cấp một số vấn đề liên quan: Thành phần kinh tế, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và những chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát
triển kinh tế tại địa phương.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời cảm ơn, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục thì khóa luận cịn có phần nội dung gồm 2 chương và 5 tiết.

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

8


Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1.2. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát minh vĩ đại nhất của C.
Mác. Là một bộ phận hợp thành của triết học Mác - Lênin, nó là lý luận
duy vật về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của xã hội, đồng
thời là phương pháp luận khoa học để nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội và
q trình lịch sử. Khơng những thế chủ nghĩa duy vật lịch sử còn là kim chỉ

nam cho các khoa học xã hội cụ thể và cho việc định ra chiến lược, sách
lược của Đảng cộng sản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử bàn đến nhiều vấn đề nhưng được chú ý
nhất đó là học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Việc tìm hiểu quá trình hình
thành và phát triển lý luận Mác về hình thái kinh tế xã hội cho thấy hình
thái kinh tế xã hội là một hệ thống những yếu tố, những mối liên hệ xã hội
rất phức tạp. Tuy nhiên, đây không phải là những yếu tố, những mối liên hệ
bất kì mà là những yếu tố được hình thành một cách tất yếu, lặp đi lặp lại
trong những xã hội cụ thể. Ở đây, chúng ta sẽ bàn đến mối quan hệ biện
chững giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thấy được sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố và sự vận động, phát triển một cách
tự nhiên.
Đầu tiên là khái niệm lực lượng sản xuất: Theo định nghĩa trong sách
giáo trình Triết học Mác - Lênin đã viết: ”Lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống của mình”.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất,
trong đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân,
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

9


Khóa luận tốt nghiệp

là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động
sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để
sản xuất ra của cải vật chất.
Xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ có sản xuất vật chất và lịch sử

loài người là lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Mỗi chế độ
xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất khác nhau.Vì vậy
mà phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất biện chứng hai mối quan hệ của con người, thứ nhất là quan hệ
giữa con người với tự nhiên, thứ hai là quan hệ giữa người với người. Hai
mối quan hệ trên thống nhất biện chứng trong một quá trình sản xuất được
gọi là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nhưng lúc đầu Mác chưa dùng thuật ngữ “lực lượng sản xuất” mà gọi
là “sức sản xuất”. Ông cho rằng: “sức sản xuất” không phải là cái “bản chất
tinh thần” nào đó mà đó là sức mạnh vật chất. Mác viết “Để xua tan vầng
hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất” chỉ cần mở ra bản
quan thống kê đầu tiên là đủ. Ở nơi đó nói về sức người, sức hơi nước, sức
ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất” [13,38]. Khi phân
tích các yếu tố của lực lượng sản xuất Mác chia chúng thành hai loại đó là
sức sản xuất tự nhiên và sức sản xuất của bản thân con người. Theo Mác
con người với tư cách là một lực lượng sản xuất không chỉ sáng tạo ra của
cải vật chất mà chủ yếu hơn lực lượng sản xuất xã hội đó cùng với sức sản
xuất tự nhiên trở thành một lực lượng cách mạng thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
Lao động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình
bằng hoạt động sản xuất. Ban đầu loài người chỉ biết hái lượm những cái có
trước mắt để ăn, khơng biết tích lũy cũng khơng biết sáng tạo, tìm tịi ra
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

10


Khóa luận tốt nghiệp


những cái mới để sử dụng. Đến khi con người đã phát triển hơn thì đã biết
dựa vào giới tự nhiên, trao đổi chất với giới tự nhiên và duy trì mối quan hệ
khăng khít với giới tự nhiên. Con người biết điều tiết thức ăn cho mình để
sử dụng được nhiều thời gian hơn, lâu hơn. Bên cạnh đó, con người cịn biết
tự chế tạo, sản xuất ra những thứ phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của
mình từ giới tự nhiên đó. C.Mác đã viết: “ Lao động trước hết là một quá trình
diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, một quá trình mà trong đó con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với giới tự
nhiên” [15,260].
Trên cơ sở hoạt động thực tiễn con người ngày càng đi sâu khám phá
giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên. Ban đầu chỉ là những công cụ hết sức
thô sơ, dần con người biết chế tạo ra những công cụ tốt hơn phù hợp với
nhu cầu cải biến giới tự nhiên của mình. Ở thời đại sống thành bầy đàn,
hoạt động sống của con người (cũng tức là hoạt động thỏa mãn nhu cầu) có
thực chất là quá trình nạp nhu cầu vào đối tượng. Trong chiều hướng đó
của hoạt động sống, con người phải thay đổi nhu cầu của mình sao cho phù
hợp với đối tượng, có như thế nhu cầu của họ mới được thỏa mãn. Nhưng
việc thõa mãn nhu cầu và sự tăng thêm càng nhiều cá thể trong bầy, đã làm
cho lượng cầu của con người gia tăng nhanh chóng. Trong tương quan với
sự gia tăng như thế về lượng cầu, thì lĩnh vực giới tự nhiên làm thành môi
trường sống của con người trở nên nghèo đi cùng với tốc độ tương ứng, và
đến mức độ nhất định thì giới tự nhiên với những sản vật sẵn có của nó sẽ
khơng còn đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của họ. Lúc này, hoạt
động sống của con người vẫn cứ tiếp diễn theo những q trình, song có
chiều hướng ngược lại, nạp đối tượng vào nhu cầu. Trong chiều hướng này
của hoạt động sống, nhu cầu của con người chỉ được thõa mãn, khi đối
tượng thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu và để đối tượng trở nên phù
hợp với nhu cầu của mình thì con người chỉ cịn một cách duy nhất là tích
cực tác động vào nó từ lao động. Bằng lao động và thơng qua lao động, con

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

11


Khóa luận tốt nghiệp

người sản xuất ra đời sống vật chất - một đời sống do chính con người tạo
ra cho mình, khác về chất so với đời sống chỉ biết lợi dụng những gì có sẵn
trong tự nhiên của họ ở thời đại bầy đàn.
Qua đây ta có thể hiểu lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa
người và giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của lồi người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn
của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra cả cải vật chất
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Mác viết: “Lực lượng
sản xuất là cơ sở của toàn bộ lịch sử con người bởi vì mọi lực lượng sản
xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó.
Như thế, lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con
người, nhưng bản thân nghị lực ấy lại được chế định bởi những điều kiện
mà con người đặt vào, bởi một hình thức mà xã hội ấy lại được tạo ra
không phải những con người ấy mà bởi những thế hệ trước đó” [13,997].
Mỗi thế hệ đều sinh ra một lực lượng sản xuất và thế hệ sau phát triển hơn,
tiến bộ hơn bởi nhờ có sự kế thừa phát huy những thành tựu của thế hệ
trước, loại bỏ những hạn chế mà thế hệ trước đã vấp phải. “Mỗi thế hệ sau
có được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực
lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau thực hiện một hoạt động
sản xuất mới, nhờ hiện tượng đó mà hình thành nên mối liên hệ trong lịch
sử lồi người, hình thành lịch sử loài người, các lực lượng sản xuất của con
người và do đó quan hệ xã hội của con người phát triển nhiều hơn, lịch sử
đó càng trở thành lịch sử lồi người” [13,997-998].

Vì vậy, một lần nữa ta lại khẳng định: Lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống của mình. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu
sản xuất trong đó: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là
cơng nhân, là người lao động” [6,430].

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

12


Khóa luận tốt nghiệp

Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra trước hết là công cụ lao động. Người
lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động cịn có cơng cụ lao động và
những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ của con người đối với giới tự
nhiên, nhưng toàn bộ giới tự nhiên không thể là một bộ phận cấu thành của
lực lượng sản xuất mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
sản xuất, được con người sử dụng mới là đối tượng lao động trực tiếp. Con
người khơng chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn,
mà cịn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất có liên quan tới việc đưa những đối tượng lao động ngày
càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hồn tồn có tính quy luật,
bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Con người là yếu tố năng động nhất, quyết định lực lượng sản xuất. Bởi vì
chỉ có yếu tố con người mới có trí tuệ và cũng chỉ có con người mới có
năng lực tự phát triển và tự hồn thiện bản thân mình. Người lao động

không chỉ sinh con, tái sản xuất ra sức lao động, mà cịn ln nâng cao chất lượng
của lao động bằng con đường kế thừa các yếu tố xã hội và phát triển chúng.
Ngày nay, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại
đòi hỏi con người phải phát triển cao hơn về trí tuệ , khỏe mạnh về thể chất,
giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Trong đó, trí tuệ khơng phải là
những tri thức trừu tượng mà trước hết phải có năng lực chun mơn được
đào tạo. Thể chất khơng chỉ đơn giản là cường tráng về thể lực mà cịn bao
hàm trong đó cả sự phát triển tốt về trí lực, hơn nữa cùng với việc phát triển
sức lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân tố trí lực chiếm tỷ lệ ngày
càng cao, vai trị của người lao động trí óc ngày càng lớn và rõ rệt. Vì vậy
mà có thể nói rằng, con người là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động
và phát triển lịch sử.
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

13


Khóa luận tốt nghiệp

Cịn tư liệu lao động là vật hay là phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động
của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao
động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư
liệu sản xuất. Vì thế mà trong tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức” ta bắt gặp
những dịng: “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tơn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế là
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”

[7,29].Trong tư liệu lao động, Mác tách những cái trực tiếp dẫn truyền tác
động của con người vào giới tự nhiên đó là cơng cụ lao động. Cơng cụ lao
động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất và là chỉ tiêu quan
trọng nhất trong quan hệ của xã hội với giới tự nhiên đạt được do lao động
sản xuất và trong sản xuất thì công cụ lao động luôn luôn được cải tiến.
Cùng với sự cải tiến và hồn thiện cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản
xuất của lồi người cũng được phát triển và phong phú thêm, những ngành
sản xuất mới xuất hiện, từ đây sự phân công lao động phát triển. Chính sự
cải tiến và hồn thiện khơng ngừng cơng cụ lao động đã làm biến đổi tư liệu sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của lồi người, là cơ sở xác
định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác
nhau giữa các thời đại kinh tế. Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào” [18,233].
Một thế hệ sẽ có những tư liệu nhất định và thế hệ trước là điểm xuất
phát cho tư liệu lao động của thế hệ sau. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

14


Khóa luận tốt nghiệp

lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động
sống. Con người bằng trí tuệ và kinh nghiệm của mình chế tạo ra tư liệu lao
động và sử dụng nó trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, dù tư liệu lao động
có ý nghĩa lớn lao đến đâu mà tách khỏi người lao động thì sẽ khơng thể
phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.

Trong tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác viết: “Những quan
hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được
những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất
của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình,
lồi người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay
bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp” [10,15].
Tiếp theo, đối tượng lao động là những yếu tố tự nhiên mà lao động
của con người tác động vào nhằm làm biến đổi nó cho phù hợp với mục
đích của con người. Đối tượng lao động gồm hai loại cơ bản:
Thứ nhất, loại sẵn có trong tự nhiên: tức là con người chỉ cần dùng sức
lao động của mình tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm
đáp ứng cho nhu cầu của mình và cho xã hội.
Thứ hai, loại đối tượng lao động do con người sáng tạo ra từ những sự
vật do tự nhiên cung cấp. Những thứ đó khơng có sẵn trong tự nhiên như
vậy mà phải thông qua sự cải tạo, chế biến của con người. Do trí tưởng
tượng cũng như sự thơng minh của con người mà những sản phẩm làm ra
ngày một phong phú, đa dạng.
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự
hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thơng minh, sự hiểu biết,
kinh nghiệm của con người. Hơn nữa, con người khơng chỉ sử dụng cơng
cụ hiện có mà cịn sáng chế ra những tư liệu lao động mới. Những tư liệu
lao động này là lực lượng vật chất của tri thức con người. Những tri thức
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

15


Khóa luận tốt nghiệp


khoa học, những kinh nghiệm, thói quen của con người đều cần thiết để
hoàn thiện kỹ thuật và phương pháp sản xuất.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất vào sự phát triển của tư
liệu lao động, thích ứng với bản thân con người, với sự phát triển văn hóa,
khoa học, kỹ thuật của họ. “Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời xét đến cùng nó là nhân tố
quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới, nhân tố quan
trọng nhất để nâng cao năng suất lao động là việc sáng tạo và áp dụng vào
sản xuất những tư liệu lao động có năng suất cao áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, quy trình cơng nghệ mới, phát triển những cơ sở năng lượng” [3, 30].
Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong kỹ
thuật sản xuất. Con người khơng cịn thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ
thuật mà chủ yếu là sáng tạo và điều khiển q trình đó một cách tự động,
tri thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất
thay cho thói quen và kinh nghiệm thông thường, tri thức khoa học được
vật chất hóa, được kết tinh vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất, từ đối
tượng lao động, tư liệu lao động, kỹ thuật, phương pháp công nghệ đến tri
thức của người lao động - “Khoa học hóa sản xuất”. Do khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần người cấu thành lực lượng sản
xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất khơng chỉ bao
gồm lao động chân tay, mà cịn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và những
cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
Vì thế mà có kết luận như sau: “Như vậy là sự sản xuất ra đời sống
của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác
bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng,
một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với
ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều
kiện nào, trùng nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì” [9, 42]. Trong
quan hệ song trùng này, vai trò quyết định thuộc về phương thức hoạt động
SVTH: Nguyễn Thị Hiền


16


Khóa luận tốt nghiệp

hợp tác, lực lượng sản xuất của xã hội, bởi lẽ: “Tổng thể những lực lượng
sản xuất mà con người đã đạt được quyết định trạng thái xã hội” [9, 42].
Có thể nói tóm gọn lại một ý trong vấn đề lực lượng sản xuất rằng:
Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện
đại. Lực lượng sản xuất chính là cơ sở vật chất của hình thái kinh tế xã hội.
1.1.2. Khái niệm quan hệ sản xuất
Lý luận hình thái kinh tế xã hội của C. Mác đã chỉ rõ: Xã hội không
phải là sự kết hợp ngẫu nhiên các mặt, các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ
quan mà là một hệ thống, trong đó các mặt, các yếu tố thống nhất với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động qua lại với tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp đó, C. Mác đã chỉ
ra và khẳng định quan hệ sản xuất là quan hệ khởi thủy, cơ bản của xã hội,
được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và là cơ sở
của các quan hệ xã hội khác, quy định tính độc đáo của mỗi chế độ xã hội
trong lịch sử nhân loại, là tiêu chuẩn khách quan để phân chia xã hội này
với xã hội khác. Trong “lao động làm thuê và tư bản” C.Mác viết: “Tổng
hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những
quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai
đoạn nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại,
xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất
như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển
đặc thù trong lịch sử nhân loại” [11, 553]. Trong tác phẩm: “ Hệ tư tưởng
Đức” đã hình thành những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
như phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc

thượng tầng, ý thức xã hội, hệ tư tưởng, chế độ xã hội, đồng thời đem đối
lập quan niệm duy vật về lịch sử với quan niệm duy tâm về lịch sử. Cũng
trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu quan hệ sản xuất như quan
hệ được hình thành về mặt lịch sử giữa người với người trong quá trình sản
xuất, quan hệ sản xuất được quy định của chế độ nhà nước và thượng tầng
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

17


Khóa luận tốt nghiệp

tư tưởng: “Hình thức giao tiếp cái mà trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ
trước đến nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến lượt nó
lại quyết định bởi lực lượng sản xuất, là xã hội công dân mà tiền đề và cơ
sở…, là gia đình đơn giản và gia đình phức hợp”[9,51].
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời
sống vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện
ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Mác viết:
“Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ” [17,637].
Vì vậy mà giáo trình triết học Mác Lênin đã định nghĩa một cách ngắn
gọn nhất, khái quát nhất quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất
gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức
và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Trong
sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người muốn hay khơng cũng
phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan

hệ này mang tính tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý muốn của ai. Đó chính
là những quan hệ sản xuất. Cố nhiên, quan hệ sản xuất là do con người
sáng tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự
vận động của đời sống xã hội. Với tính cách là những quan hệ kinh tế
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, quan hệ
sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của
đời sống tinh thần xã hội. C.Mác viết: “Trong sản xuất người ta không chỉ
quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu khơng kết
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt
động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

18


Khóa luận tốt nghiệp

quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc
sản xuất” [11,552].
Vấn đề quan hệ sản xuất được C. Mác phân tích trong mối liên hệ với
các lĩnh vực của đời sống xã hội, với logic của sự phát triển của lịch sử, với
các tư tưởng và thiết chế chính trị, đồng thời rút ra từ những yếu tố chủ
đạo, căn bản nhất. Cơ sở của quan hệ sản xuất là những quan hệ kinh tế
hiện thực về sở hữu, phân phối và sự chiếm hữu kết quả lao động, ở đó làm
nổi bật vai trị của chủ thể lợi ích kinh tế. Theo C. Mác, việc hiểu được
quan hệ trực tiếp của những chủ sở hữu các điều kiện sản xuất cho phép
vạch ra bản chất của một chế độ xã hội.
Thông qua đây, C.Mác cũng chứng minh tính khách quan của các
quan hệ sản xuất ở chỗ:

Thứ nhất: Chúng hình thành ở một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và phù hợp với lực lượng sản xuất.
Thứ hai: Các mối liên hệ và quan hệ kinh tế của con người trong quá
trình sản xuất vật chất không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ, mà vào
tính chất của phương tiện sản xuất và sở hữu.
Thứ ba: Chúng không lệ thuộc vào các dự án và các mục tiêu định sẵn
trong đầu con người mà ngược lại.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế
xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một
hình thái kinh tế xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt
sau đây:
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ quản lý và phân công lao động.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong
từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

19


Khóa luận tốt nghiệp

chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ
xã hội khác. Lịch sử phát triển nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất đó là sở hữu tư nhân và sở hữu cơng cộng.
Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người
với người trong xã hội. Nếu tư liệu sản xuất là tài sản chung của tồn thể xã
hội, thì những thành viên của xã hội trở thành bình đẳng đối với tư liệu sản

xuất, mục đích sản xuất là để đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, quan hệ tập thể hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa
người với người cũng được thiết lập.
Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập
trung vào trong tay một số ít người cịn đại đa số khơng có hoặc có rất ít tư
liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất
và đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột.
Sở hữu cơng cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất
thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với
người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ trong các chế độ sở
hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch sử thì chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại hình sở hữu này. C.Mác và
Ăngghen cũng đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là
hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử lồi người. Chủ nghĩa xã hội dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng
vai trị phủ định đối với chế độ tư hữu. Quan hệ sản xuất không phải là cố
định bất biến mà nó mang tính lịch sử. Bất kì quan hệ sản xuất nào cũng
đều thích ứng với lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Do đó, lịch sử lồi người đã và đang trải qua các quan hệ sản xuất: Quan hệ
sản xuất cộng sản nguyên thủy, quan hệ sản xuất chế độ nô lệ, quan hệ sản
xuất phong kiến, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất xã

SVTH: Nguyễn Thị Hiền

20


Khóa luận tốt nghiệp


hội chủ nghĩa, những quan hệ sản xuất này cấu thành và tương ứng với
những kiểu kết cấu kinh tế xã hội, tức những hình thái kinh tế xã hội.
Xét về mặt nội dung thì kinh tế xã hội là tổng hòa các quan hệ sản
xuất. Trong bất kì một kết cấu kinh tế xã hội nào hồn tồn khơng phải chỉ
tồn tại một quan hệ sản xuất mà ngược lại rất nhiều quan hệ sản xuất cùng
tồn tại, chúng ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau.
Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến ngoài chế độ sở hữu ruộng đất
phong kiến chiếm vị trí thống trị còn tồn tại những tàn dư của chế độ nơ lệ.
Hậu kì của chế độ phong kiến cịn có sự manh nha của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Hoặc trong xã hội Trung Quốc đương đại không chỉ có quan
hệ sản xuất cơng hữu đóng vai trị chủ đạo mà cịn có cả quan hệ sản xuất
phi cơng hữu (khơng đóng vai trị chủ đạo), chúng cấu thành kết cấu kinh tế
xã hôi Trung Quốc đương đại.
Trong tác phẩm: “ Những “người bạn dân” là thế nào” …Lênin đã
đánh giá vai trò của quan hệ sản xuất cũng như ý nghĩa phương pháp luận
được rút ra. Theo Lênin, trong xã hội mặt cơ bản là các quan hệ sản xuất,
việc nêu ra quan hệ sản xuất vật chất như là các quan hệ cơ bản và chủ đạo
cho phép khám phá ra những quy luật phát triển của xã hội. Việc nhấn
mạnh quan hệ sản xuất vật chất khắc phục sự hòa lẫn bản chất và hiện
tượng, vạch ra các tiêu chí cơ bản để phân định ranh giới giữa các hiện
tượng cơ bản và các hiện tượng không cơ bản của đời sống xã hội là rất cần
thiết.
Nói chung, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất. Vấn đề quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất như đã nói ở
trên là quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối
sản phẩm và nhiều quan hệ khác.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Đây là quan hệ nói lên rằng trong
quá trình sản xuất thì ai là người quyết định việc tổ chức, quản lý trong quá
trình sản xuất. Trong chế độ xã hội mà nền kinh tế dựa vào chế độ tư nhân
SVTH: Nguyễn Thị Hiền


21


Khóa luận tốt nghiệp

về tư liệu sản xuất như chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa thì người sở hữu tư liệu sản xuất là kẻ bóc lột , chiếm giữ vai trị
quản lý, những người này chiếm rất ít trong xã hội, cịn người lao động
khơng có tư liệu sản xuất nên họ là người bị quản lý, bị bóc lột.
Cịn trong chế độ xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ cơng hữu
thì mọi thành viên trong xã hội có vị trí bình đẳng như nhau trong tổ chức
lao động và phân phối sản xuất. Chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu, mọi
người làm việc cho mình.
Hiện nay, có trường hợp người sở hữu tư liệu sản xuất không trực tiếp
đứng ra quản lý thì gián tiếp người đó vẫn đóng vai trị quyết định cuối
cùng. Nên trong quan hệ tổ chức, quản lý dù hình thức quản lý như thế nào
đi nữa thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất vẫn đóng vai trị chi phối,
quyết định. Nhưng nếu khơng quan hệ quản lý thì mặt sở hữu hay lợi ích cơ
bản chẳng bao giờ thực hiện được. Như vậy, quan hệ tổ chức và quản lý
sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất,đến việc tổ chức, điều
khiển q trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm q trình sản
xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và
nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường hợp quan hệ tổ
chức và quản lý khơng thích ứng với quan hệ sở hữu làm biến dạng quan hệ
sở hữu.
Cuối cùng là quan hệ về phân phối sản phẩm.
Quan hệ có khả năng kích thích thực tiễn vào lợi ích của con người
nên quan hệ phân phối đóng vai trị như là “chất xúc tác” của các quá trình
kinh tế xã hội, quan hệ phân phối có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát

triển sản xuất của xã hội. Đây là quan hệ nói lên rằng trong q trình sản
xuất người nào là chủ thể nắm quyền quyết định phân phối và ai là người
tiếp nhận.
Phân phối sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất theo
nghĩa rộng. Trong quan hệ phân phối, những tính chất và hình thức phân
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

22


Khóa luận tốt nghiệp

phối, quy mơ thu nhập của các giai cấp, các tập đoàn xã hội khác nhau đều
phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ quản lý. Ba yếu
tố trên đây của quan hệ sản xuất hoạt động trong mối liên hệ và tác động
lẫn nhau rất mật thiết, tạo thành một cơ cấu, một hệ thống quan hệ sản xuất.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một
phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong
mỗi hình thái kinh tế xã hội quyết định tính chất và bộ mặt hình thái kinh tế
xã hội.
Vì vậy, khi nghiên cứu xem xét tính chất của một hình thái kinh tế xã
hội nào thì khơng thể nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà
còn phải xét đến tính chất của quan hệ sản xuất.
1.3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Khi nhân loại đã đi được một chặng đường nhất định trên con đường
tiến hóa của mình thì một câu hỏi đặt ra buộc các nhà triết học phải suy
nghĩ: Cái gì quyết định sự phát triển của lịch sử?
Nhiều nhà tư tưởng của các thế hệ trong lịch sử đã lần lượt đưa ra kiến
giải của mình, cho đến giữa thế kỷ trước, lịch sử vẫn như một đám mây

mù, bởi lẽ lịch sử là hoạt động có ý thức của con người, nhưng người ta lại
lấy tư tưởng, ý chí của con người hoặc của các siêu nhân để giải thích lịch
sử nên cuối cùng vẫn khơng sao ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: tư tưởng quyết
định tư tưởng.
Không giống như những nhà triết học khác, C. Mác ngay từ thời cịn
trẻ đã khơng đi tìm ngun nhân của sự phát triển lịch sử từ những hiện
tượng tinh thần mà ở trong những điều kiện vật chất của xã hội. C. Mác là
một nhà triết học thông minh, vĩ đại, không đi theo những quan niệm duy
tâm của các nhà triết học trước kia mà đã có cách nhìn đúng đắn hơn, duy
vật hơn. Mác là người đã vén bức màn thần bí đã được các bậc thầy tư
tưởng của mình là Hêghen và các nhà triết học tiền bối khác che phủ lên
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

23


Khóa luận tốt nghiệp

lịch sử. Đánh giá về việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác,
Ph. Ăngghen viết: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế
giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người : cái
sự thật đơn giản đã bị những tầng tầng lớp lớp những tư tưởng phủ kín cho
đến ngày này là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã
rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo được” [14,499450] và V.I. Lênin cũng khẳng định ý nghĩa khoa học to lớn của chủ nghĩa
duy vật lịch sử: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất
của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong
các quan niệm về lịch sử và chính trị, lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do
chỗ lực lượng sản xuất lớn lên thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội
này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã

hội khác cao hơn” [5,53].
Những tư tưởng nói trên của Mác đã đặt nền tảng cho một quan niệm
duy vật về lịch sử : tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Để thõa mãn những nhu cầu đầu tiên, cơ bản của con người, Mác thấy
con người phải chế tạo ra công cụ lao động, cái mà sau này Mác gọi bằng
những khái niệm rộng hơn, chính xác hơn: tư liệu lao động, tư liệu sản
xuất, lực lượng sản xuất. Nhưng sản xuất không thể là hành động của con
người riêng lẻ tác động vào tự nhiên, mà “muốn sản xuất được, người ta
phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ có trong
phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có sự tác động của
họ vào giới tự nhiên, tức sức sản xuất” [15,94].
Như vậy: “loài người tồn tại và phát triển được trên thế gian này,
không phải do phép màu của một lực lượng huyền bí hay ý chí của các bậc
vĩ nhân mà là do có sự tồn tại phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất của con người, như cách nói sau này của Mác, là do sự tồn tại và phát
triển của những phương thức sản xuất nối tiếp nhau trong lịch sử” [2,72].
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

24


Khóa luận tốt nghiệp

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức
sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn
nhau. Sự liên hệ tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình
thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong phần này ta sẽ tập trung nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thấy được mặt thứ nhất của

quy luật này là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển.
Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của
lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất
ra sản phẩm, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
ln ln tìm cách cải tiến những cơng cụ lao động mới tinh xảo hơn.
Những cơng cụ đó ngày một hiện đại hơn, làm cho sức lao động của con
người ít hao tổn mà lại sản xuất ra được nhiều hơn.
Cùng với sự biến đổi và phát triển nhiều hơn của cơng cụ lao động thì
kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa
học của con người cũng tiến bộ. Lúc này, lực lượng sản xuất trở thành yếu
tố động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn
định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đặc biệt, lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn
quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc
vào nội dung. Nội dung thay đổi trước sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Nhưng khi ta hiểu nó thì đương nhiên là hình thức khơng phải mang tính
tiêu cực, nó cũng có tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung.
Bên cạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất
cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ
SVTH: Nguyễn Thị Hiền

25


×