Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm thực tiễn trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.21 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài...............................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................2
4. Giới thiệu nội dung nghiên cứu.............................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG......................................................................................3
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỖI QUAN HỆ GIỮA
NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN................................................................3
1.1.

Lý luận về nhận thức......................................................................3

1.1.1.

Khái niệm.................................................................................3

1.1.2.

Quá trình nhận thức..................................................................5

1.1.3.

Cấp độ của quá trình nhận thức................................................7

1.2. Lý luận về thực tiễn............................................................................9
1.2.1. Khái niệm....................................................................................9


1.2.2. Các hình thức biểu hiện của thực tiễn.......................................11
1.3.

Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức........................................12

1.3.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức............................12
1.3.2. Thực tiễn là động lực của nhận thức.........................................13
1.3.3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:.......................................13
1.3.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức :.....................................14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM THỰC
TIẾN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
.....................................................................................................................15


2.1.

Thực trạng tự học của sinh viên...................................................15

2.2.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên........16

2.2.1. Các yếu tố chủ quan..................................................................16
2.2.2. Các yếu tố khách quan..............................................................17
2.3.

Một số biện pháp nâng cao khả năng tự học của sinh viên..........18

2.3.1.


Kích thích nhu cầu tự học, tạo niềm tin vào khả năng tự học

của sinh viên........................................................................................18
2.3.2. Hướng dẫn sinh viên cách đọc tài liệu......................................19
2.3.3. Hướng dẫn sinh viên khai thác, sử dụng Mobile Learning và các
phần mềm hỗ trợ tự học.......................................................................19
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................21


1

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Về vấn đề nhận thức và thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: phải có
nhận thức đúng thì mới có hành động đúng.Qua đó để thấy rằng giữa nhận
thức và thực tiễn ln có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cách khác giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng.
Đặt vào trong hoàn cảnh nước ta bây giờ, khi đang trong quá trình mở
cửa, đổi mới và hội nhập với thế giới, câu hỏi lớn đặt ra là : cái gì cần phải
thay đổi, phát triển, cái gì cần giữ nguyên và duy trì? Trả lời câu hỏi ấy địi
hỏi phải có một nhận thức đúng đắn và những hoạt động thực tiễn thích hợp.
Trong khi đó, học sinh sinh viên là những hạt nhân đóng vai trò quan trọng
trong việc kiến thiết và phát triển đất nước, liệu đất nước sẽ ra sao nếu như
họ có nhận thức lệch lạc, những hoạt động thực tiễn sai lầm…?
Trên thực tế quá trình học tập, rèn luyện cũng vậy, nhận thực thức
chính xác và tồn diện vấn đề sẽ giúp học sinh, sinh viên đi đúng hướng, đêm
lại lợi ích cho cộng đồng... Ngược lại nếu khơng có nhận thức đúng đắn thì
sinh viên – tương lai của đất nước sẽ có những thế giới quan lệch lạc, đưa đất
nước vào ngõ cụt. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu tơi đã lựa chọn đề tài “
Lý luận của triết học mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận

thức và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm thực tiễn trong quá trình tự
học của sinh viên hiện nay” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.


2
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ về mặt lý luận giữa nhận thức và thực tiễn, đồng thời nêu ra
mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn để vận dụng trong quá trình tự học
của sinh viên hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận được nghiên cứu trong vòng 2 tuần, tập chung nghiên cứu về
các khái niệm cũng như lý luận về các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa
nhận thức và thực tiễn. Do thời gian có hạn cùng với việc nghiên cứu chỉ
dừng lại ở hình thức tiểu luận nên em sẽ lấy khách thể nghiên cứu là hoạt
động sáng tạo,lý luận của nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mác- Lênin
nói chung
4. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng, Nhà nước và của ngành về vấn đề nhận thức và thực
tiễn.
- Khảo sát thống kê, điều tra xã hội học những số liệu về các đối tượng
nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh về các số liệu, các vấn đề có
liên quan đến nội dung đề tài.
4. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Phần nội dung chính của tiểu luận có kết cấu như sau:
NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHẬN
THỨC VÀ THỰC TIỄN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG ĐIỂM THỰC TIỄN TRONG QUÁ

TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN


3

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỖI QUAN HỆ
GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
1.1.

Lý luận về nhận thức

1.1.1. Khái niệm
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm
giác của con người. Sở dĩ, có quan điểm như vậy là do những người theo
trường phái này đã phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.Điều
đó có nghĩa là:tự bản thân con người bằng cảm nhận của mình mà đưa ra
những nhận xét, đánh giá mà khơng cần tới những quy luật tồn tại khách
quan. Đây là quan điểm phiến diện không nhận thấy được mối liên hệ khăng
khít giữa nhận thức và thực tiễn, nói cách khác là giữa vật chất và ý thức.Phải
thừa nhận rằng nhận thức của con người chính là nhờ thực tiễn phản ánh
thông qua ý thức.Chứ không phải chỉ đơn thuần là sự phức hợp những cảm
giác. Mọi sự vật, hiện tượng đều phải trải qua quá trình và đều được phản ánh
và chịu tác động trực tiếp bởi thực tại khách quan.
Chủ nghĩa duy vật: thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của
con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
đầu óc con người.Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy
móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực
quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật.Họ
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.Chính vì vậy mà

C.Mác đã nhận xét rằng:”khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật
từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơibắc là sự vật, hiện thực, cái
cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan, chứ khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan.


4
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan
niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức. Những vấn đề lý luận và nhận
thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được đầy đủ
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Chỉ có Chủ nghĩa duy vật biện chứng mới có câu trả lời cho bản chất
của nhận thức.
Về bản chất. nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
Có được khái niệm hoàn chỉnh như vậy là do chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã sinh ra bởi sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách
sáng tạo và được minh chứng bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật,
thực tiễn xã hội.
Các Mác và Ph.Ănghen đã dựa trên những nguyên tắc sau để dựng nên
học thuyết về nhận thức:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng

nhận thức được thế giới của con

người.Con nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể.Khơng có cái gì là

khơng thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được
nhưng sẽ nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo.qua trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ bản hiện tượng đến bản chất và từ bản chất
kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.


5
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức,
là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, nhận thức chính là sự phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào trong bộ óc con người nhưng dựa trên cơ sở thực tiến
chứ khơng phải do ý chí chủ quan của con người quyết định.
1.1.2. Quá trình nhận thức
Nhận thức là quá trình diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn,
trình độ, vịng khâu khác nhau song đây là quá trình biện chứng đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
a.Trực quan sinh động
Trực quan sinh động cịn gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là
giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự
vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức
là:cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con
người.Cảm giác là nguồn gốc của sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hố
những năng lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố của ý thức.Chính vì
thế mà Lênin đã viết:”Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”.
Tri giác là hình ảnh tương đối tồn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang

trực tiếp tác động vào các giác quan.Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm
giá, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình
thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hồn
chỉnh cịn lưu lại trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật đó khơng cịn


6
trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối
hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các
yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính trừu tượng hố.
Như vậy, cảm giác, tri giác là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình
thức nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn cái không bản chất, cả
cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài sự vật.Nhưng ở đây
con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là
tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là bên trong với bên ngoài.Yêu cầu của nhận thức
đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất. tất yếu, bên trong, chỉ có chúng
mới có vai trị quan trọng cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con
người.Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa
một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên
trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với như cầu tất yếu
phải phân biệt được cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận
động và phát triển của sự vật.khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt
lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.
b.Tư duy trừu tượng
Tư duy trừu tượng là đặc trưng của giai đoạn nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái
quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng.Đây là giai
đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái

bản chất của tính quy luật của sự vật, hiện tượng.Nhận thức lý tính được thể
hiện với ba hình thức : khái niệm, phán đốn và suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật.Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan , vừa


7
có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và
phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động mà còn là
điểm nút của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đốn.
Phán đốn là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau
để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối
tượng.Ví dụ : kháng chiến nhất định thắng lợi, non sông sẽ thu về một
mối.Đây là một phán đoán dựa trên cơ sở của thực tiễn cách mạng.Nó là sự
liên kết giữa thực tế chiến trường và sức mạnh dân tộc.
Dựa vào trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm 3
loại là phán đốn đơn nhất(ví dụ : sứ là vật cách điện), phán đốn đặc thù(ví
dụ :kim cương là sự liên kết của các bon) và phán đốn phổ biến( ví dụ : mọi
kim loại đều dẫn điện).Phán đốn phổ biến là hình thức thể hiện sự bao quát
rộng lớn nhất về đố tượng.
Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra tri thức mới bằng phán đốn mới.Ví dụ : nếu phán đốn ” phi kim khơng
dẫn điện thì sẽ suy ra được rằng : sứ khơng dẫn điện vì sứ cũng là phi kim.
Từ những biện chứng của qua trình nhận thức chúng ta có thể phân ra
các cấp độ của nhận thức như sau 
1.1.3. Cấp độ của q trình nhận thức
Có 2 cách phân loại.Nếu căn cứ trên mức độ thâm nhập vào bản chất
của đối tượng nhận thức, có thể chia nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm

và nhận thức lý luận ; nếu căn cứ trên tính chất tự phát hay tự giác của q
trình nhận thức, có thể chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận
thức khoa học.
a.Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận


8
Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát
trực tiếp các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay các thí nghiệm khoa
học.Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.Tri
thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học.
Nhận thức lý luận(gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu
tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng.Nhận
thức lý luận có chức năng gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ
sở của nhận thức kinh nghiệm.Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái
qt vì nó tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện
tượng.Do đó, tri thức lý luận- kết quả của nhận thức lý luận – thể hiện chân lý
sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau.Trong mối quan hệ đó thì
nhận thức kinh nghiệm là cơ sỏ của nhận thức lý luận.Nó cung cấp cho cho
nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể.Nó gắn chặt trực tiếp với
thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận
mới và tổng hợp khái quát bằng khái niệm mới.
b.Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của
con người.Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm
chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật.Vì vây, nhận thức

thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế nó có vai trị thường xun. phổ biến chi
phối hoạt động của mọi người trong xã hội.


9
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự
giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu.Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng, logic là
các khái niệm, các quy luật khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng ,
khái quát lại vừa có hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.
Trong đó, nhận thức thơng thường và nhận thức khoa học là hai nấc
thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân
thực.Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Trong mối quan hệ đó,
nhận thức thơng thường có trước nhận thức khoa học.Mặc dù đã chứa dựng
những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường
chỉ là những nhận thức bên ngồi, ngẫu nhiên, khơng bản chất của đối tượng
và tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả
năng tổng kết, trừu tượng,khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.Ngược lại
khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại nhận thức
thơng thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức
thông thường phát triển. Tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận
thức thế giới của con người.
Như vậy, việc đạt tới những tri thức khoa học trong quá trình nhận thức
diễn ra theo những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý
tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông
thường đến nhận thức khoa học.Tuy nhiên để chứng minh được nhận thức kia
đã đúng chưa cần phải được kiểm nghiệm trên thực tiễn.Thực tiễn là thước đo
chính xác nhất những gì nhận thức đã thu nhặt được.Vậy, thực tiễn là gì?Hãy
làm rõ vấn đề này và sau đó chúng ta sẽ có được kết luận về mối quan hệ giữa

thực tiễn và nhận thức.Qua đó, để thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức.


10
1.2. Lý luận về thực tiễn
Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính
lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn khơng phải bao gồm tồn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là
những hoạt động vật chất để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý
luận, hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người.
Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, cơng cụ
vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo
làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn,
con người làm biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để
biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh
của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính
năng động, sang tạo, là hoạt động đối tượng hố, là q trình chuyển hố cái
tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa
chủ thể và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên
cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian
nối liền nhận thức con người với thế giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc
trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích
nghi một cách thụ động với thế giới bên ngồi, thì con người nhờ vào thực
tiễn – như hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để
thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế
giới và để làm chủ thế giới. Con người khơng thể thỏa mãn với những gì mà
tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao
động sản xuất ra của cải vật chất để ni sống mình. Để lao động và lao động

có hiệu quả, con người phải biết chế tạo công cụ và sử dụng công cụ lao động.
Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên
những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Khơng có hoạt động đó,


11
con người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy,
có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã
hội, là phương thức đầu tiên chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế
giới.
Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt
động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là hoạt động có tính
chất lồi (lồi người). Hoạt động đó khơng thể được tiến hành chỉ bằng vài cá
nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân
trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực
tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn cũng có q trình vận động và phát
triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới
tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt
động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như
nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có lien hệ
với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn khơng
thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ
bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt
động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động
thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống
của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một

dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm cải tạo,
biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự
ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng
xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn


12
này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng khơng cơ bản của thực tiễn
được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lĩnh vực
như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo… Sở dĩ gọi là “khơng cơ bản”
khơng phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được hình
thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phát sinh.
1.3.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của

nhận thức và là tiêu chuẩn cho tính chân lý của quá trình nhận thức. Sở dĩ như
vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Thực tiễn có hai chức năng quan trọng : chuyển cái tinh thần thành cái
vật chất (khách quan hóa chủ quan) và chuyển cái vật chất thành cái tình thần
(chủ quan hóa khách quan). Trên cơ sở đó, ta có bốn vai trị cơ bản của thực
tiễn đối với khách quan:
1.3.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Nhận thức ngay từ đầu đã xuất phát từ thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Con người ln ln có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo
thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,

hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật vận động,
biến đổi, qua đó bộc lộ các thuộc tính, kết cấu, quy luật, những mối liên hệ
bên trong chúng. Các thuộc tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận
chuyển thành những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được
bản chất các quy luật phát triển của thế giới. Ví dụ, xuất phát từ nhu cầu cần
đo đạc diện tích, đo sức chứa của các bình mà tốn học đã ra đời và trở thành
cơng cụ tính tốn hữu hiệu cho đến ngày nay…Suy cho cùng, khơng có một


13
lĩnh vực nào lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ
hướng dẫn thực tiễn.
Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày
càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và
phát triển, càng phượng tiên nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác
dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới,
Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất…mà địi hỏi các
mơn khoa học quản lý ra đời.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
1.3.2. Thực tiễn là động lực của nhận thức
Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn đặt ra những vấn đề mới cho
nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy, thực tiễn trang bị
những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà sốt sự
nhận thức. Trong hoạt động thực tiễn ln khơng ngừng biễn đổi và phát
triển, đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển của nhận thức,
nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có những tri thức mới, phải tổng kết kinh
nghiệm, khái qt lý luận. Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
1.3.3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng
vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri

thức mà là nhằm cải tạo hiện thực khách quan phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội. Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới
giải quyết, là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức, biến tri thức khoa học thành
phương tiện giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Thực tiễn cũng tạo ra những phương tiện cần thiết giúp cho việc nghiên
cứu khoa học , đem lại những tài liệu, dữ kiện giúp tổng kết, khái quát hình
thành lý luận.


14
Lý luận mà không theo thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không
theo lý luận là thực tiễn mù qng. Nếu khơng vì thực tiễn thì nhận thức sẽ
mất phương hướng. Do đó, nếu thốt ly thực tiễn, khơng dựa vào thực tiễn thì
nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực,nuôi dưỡng những phát sinh, tồn tại. Vì
vậy, chủ thể nhận thức sẽ khơng thể có được những tri thức đúng đắn và sâu
sắc về thế giới.
1.3.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức :
Chỉ có thể đem những tri thức thu nhận được kiểm nghiệm qua thực
tiễn mới thấy rõ tính sai lầm hay đúng đắn của chúng. Bởi vì nhận thức
thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình thức trực tiếp và gián tiếp,
điều đó khơng thể tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận thức không phản ánh
đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong q trình hình thành kết quả
nhận thức thì các sự vật cần nhận thức khơng đúng u cầu mà nằm trong q
trình vận động khơng ngừng.
Trong q trình đó, nhiều thuộc tính nhiều mối quan hệ mới đã bộc lộ
mà nhận thức chưa kịp phản ánh. Để phát hiện mức độ chính xác đầy đủ của
kết quả nhận thức phải dựa vào thực tiễn. Mọi sự biến đổi của nhận thức, suy
cho cùng khơng thể vượt ra ngồi sự kiểm tra của thực tiễn, sự kiểm nghiệm
trực tiếp của thực tiễn.Qua thực tiễn để bổ sung điều chỉnh sửa chữa phát triển
và hoàn thiện kết quả nhận thức. Khi những tri thức được thực tiễn xác minh

là đúng thì tri thức đó trở thành chân lý, nếu chưa đúng thì phải được nhận
thức lại. Các Mác viết : “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là vấn đề lý luận mà
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý.”


15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM THỰC
TIẾN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN
NAY
2.1.

Thực trạng tự học của sinh viên

Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động
không thể thiếu và đóng một vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình học
tập ở bậc đại học. Sinh viên nước ta ln ý thức được rằng: Tự học có vai trị
vơ cùng quan trọng trong q trình học đại học của sinh viên. Tự học nhằm
phát huy tính tự giác học và nghiên cứu.Việc tự học đối với sinh viên có vai
trị hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả
năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Thực hiện chủ trương chungcủa đất
nước trong vấn đề cải cách giáo dục và đổi mới phương pháp đào tạo, từ đào
tạotheo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ vai trị của tự học ngày càng
được khẳng định hơn nữa.
Hiện Nay sinh viên tại trường đã và đang áp dụng rất nhiều biện pháp tự
học khác nhau. Một số hình thức tự học ở đây có thể là học theo nhóm, hay áp
dụng hình thức học cá nhân , mỗi sinh viên ln cố gắng tìm cho mình
phương pháp tự học hiệu quả nhất.
Tuy nhiên bên cạnh đó hoạt động tự học vẫn cịn mang tính hình thức, đối

phó với các bài kiểm tra. Theo số liệu khảo sát của sinh viên tại trường hầu
hết các sinh viên đượchỏi cho rằng tính chủ động trong học tập của sinh viên
thấp. Có đến nhiều ý kiến cho rằng sinh viên khơng có thói quen tự học,
chuẩn bị bài trước khi đến lớp và phương pháp tự học mà đa số sinh viên lựa
chọn vẫn chưa thực sự hiệu quả. Như vậy có thể thấy đượcrằng tuy mọi sinh
viên đều ý thức được tự học có ý nghĩa rất quan trong nhưng để tìm được
phương pháp tự học hiệu quả thì khơng phải dễ dàng và cũng không phải ai
cũngđạt được kết quả như mong muốn


16
2.2.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên

2.2.1. Các yếu tố chủ quan
- Tự ý thức: Tự ý thức của SV phụ thuộc vào sự hiểu biết về mục đích
ý nghĩa và vai trị của tự học, nội dung cách thức của tự học và nhân tố ảnh
hưởng tới tự học của bản thân. Từ đó SV biết tự tổ chức, tự kiểm tra - đánh
giá kết quả tự học của mình để đáp ứng mục tiêu của giáo dục & đào tạo.
- Thái độ tự học: Thái độ tự học của SV được thể hiện ở nhu cầu tự
học, động lực tự học, hứng thú, tính tích cực, tự lực học tập, sự say mê với
tinh thần quyết tâm cao và ý chí khắc phục khó khăn để thực hiện được nhiệm
vụ học tập. Những cử chỉ hành vi có thể quan sát được cũng là biểu hiện của
thái độ tự học (cần mẫn, chăm chỉ...). “vấn đề hình thành và phát triển tư duy
không chỉ là vấn đề nắm vững tri thức KNKX, trí tuệ và phương thức hành
động mà xen vào đó là biểu hiện sâu sắc của xúc cảm và tình cảm, thái độ tích
cực của người học.
Những thành phần bên trong của thái độ tự học bao gồm: Nhu cầu tự
học, động cơ tự học, hứng thú tự học, ý chí khắc phục khó khăn trong tự

hcọ…
- Khả năng tự học: Cùng với hệ thống các yếu tố trên SV phải có khả
năng tự học thơng qua việc thực hiện kế hoạch tự học, cách thức tổ chức tự
học, đặt biệt dựa vào kết quả học tập để quyết tâm phấn đấu. Như thế SV phải
tích cực tự học, tự thu thập tài liệu về nội dung, phương pháp, bản thân mình
có nhu cầu tích luỹ tri thức cũng như cách thức và KNTH.
- Phương pháp học tập: Là phương thức để đạt được mục đích, nhiệm
vụ học tập theo một cách thức nào đó. SV phải có kế hoạch học tập hợp lý, có
sự phân phối thời gian và áp dụng các hình thức tự học phù hợp. Phương pháp
học tập có tính quyết định đến kết quả học tập của SV. Bên canh những yếu tố


17
trên, khả năng tư duy, khái quát, tổng hợp, phân tích vấn đề là yếu tố bên
trong quyết định trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động tự học.
2.2.2. Các yếu tố khách quan
- Phương pháp dạy học của giảng viên: Các yêu cầu về học tập, đòi hỏi
phương pháp giảng dạy của giáo viên phải phù hợp với trình độ nhận thức và
đặc điểm tâm sinh lý của mỗi cá nhân mới hình thành và phát triển KNTH
cho SV. Khi các KNTH hình thành rồi phải được rèn luyện và cũng cố thường
xuyên. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ nhận thức
và đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân là yếu tố tác động trực tiếp đến việc rèn
luyện KNTH cho SV nhằm phát huy tính tích cực, tự giác độc lập sáng tạo
của sinh viên. Các nghiên cứu cho rằng: chất lượng tự học phụ thuộc vào trình
độ tổ chức và điều khiển hoạt động học của thầy.
- Việc tổ chức, quản lý sinh viên tự học cũng có tác dụng tới quá trình
hình thành rèn luyện, nâng cao KNTH cho SV. Tuy rằng việc tự học của SV
Cao đẳng, Đại học hiện nay được quản lý theo cơ chế tự quản. Song các
trường quản lý tự học của SV bằng nhiều cách: yêu cầu giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học, thực hiện nghiêm túc qui chế thi cử và kiểm tra – đánh

giá theo từng năm học, từng kỳ học, từng tháng và từng tuần.
- Các yếu tố khác: Môi trường tự học (sự phát triển xã hội, yêu cầu của
thời đại, mối quan hệ bạn bè, môi trường tập thể...); Thời gian tự học (để rèn
luyện và nâng cao KNTH cho SV không những phải sắp xếp thời gian hợp lý
vào thời điểm trong ngày mà còn phù hợp với đặc điểm tâm lý cá nhân); Điều
kiện sống, điều kiện sinh hoạt, các phương tiện học tập, tài liệu tham khảo;
Nhân tố gia đình, bạn bè người thân…
Tóm lại, việc hình thành và phát triển KNTH của SV chịu ảnh hưởng
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó yếu tố chủ quan là cốt lõi, có
tính quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến hành động và kết quả tự học. Yếu tố


18
khách quan là điều kiện cơ sở nền tảng để kết quả tự học của sinh viên đạt
mức độ cao hơn. Tuy nhiên xét về KNTH, để hình thành, rèn luyện và nâng
cao KNTH thì yếu tố chủ quan mới là điều kiện cần và đủ. Yếu tố bên trong
quyết định trực tiếp hiệu quả hành động tự học. J.A.Comenxki đã nói: Mỗi
học sinh có một vốn tri thức, một trình độ tư duy riêng, chỉ có tự học mới học
hết tất cả những điều cần học vì chỉ có bản thân người học mới biết rõ mình
cịn thiếu cái gì và cần học cái gì?
2.3.

Một số biện pháp nâng cao khả năng tự học của sinh viên

Qua mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn, “Học phải đi đơi với hành,
học mà khơng hành thì vơ ích. Hành mà khơng học thì hành khơng trơi trảy.”
2.3.1. Kích thích nhu cầu tự học, tạo niềm tin vào khả năng tự học của
sinh viên
Giáo dục cho sinh viên động cơ, nhận thức đúng đắn và hiểu được về
sự cần thiết của tự học trong môi trường đại học là rất quan trọng. Đặc biệt,

trong thời đại Cơng nghiệp 4.0 thì việc tự học của sinh viên là vô cùng quan
trọng. Vì vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận của nhà trường
đại học như: giảng viên, cố vấn học tập và tổ chức Đoàn thanh niên để hình
thành ý thức tự học cho sinh viên. Cụ thể, Đoàn thanh niên cung cấp cho sinh
viên những kỹ năng tự học cơ bản thông qua buổi chào cờ đầu tháng, hoặc
các buổi hội thảo có sinh viên tham dự; giảng viên dạy các học phần thì cung
cấp cho sinh viên các kỹ năng tự học để đáp ứng với yêu cầu của học phần; cố
vấn học tập phải hướng dẫn sinh viên thực hiện các kỹ năng tự học thông qua
các buổi sinh hoạt lớp định kỳ và đặc biệt, phải trang bị các kỹ năng tự học
ngay từ khi sinh viên mới bước vào trường đại học. Giảng viên phải thường
xuyên giao nhiệm vụ học tập để sinh viên rèn luyện kỹ năng tự học và phải
phù hợp với trình độ, khả năng của sinh viên; hướng dẫn hoặc gợi ý cho sinh
viên khi gặp khó khăn, để sinh viên tự giải quyết những nhiệm vụ học tập và
cung cấp thông tin cần thiết để sinh viên chủ động thực hiện các nhiệm vụ tự



×