Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, vận dụng đề xuất một số giải pháp xây dựng nhà nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.67 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN TRONG SẠCH VỮNG MẠNH..................................................2
1.1. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền...........2
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân. 2
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước...3
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:....................................4
1.2. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững
mạnh.........................................................................................................6
1.2.1. Bảo đảm tính hợp hiến và “thượng tơn pháp luật” của Nhà nước.
...............................................................................................................6
1.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước
phục vụ, kiến tạo phát triển...................................................................6
1.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, là
“cơng bộc” của nhân dân.......................................................................7
1.2.4. Chú trọng các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước.............7
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................................8
2.1. Một số giải pháp xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã
hội Chủ nghĩa trong sạch vững mạnh giai đoạn hiện nay...................8
2.1.1. Đấu tranh với quan điểm “khơng có đa ngun, đa đảng thì
khơng bao giờ có dân chủ”....................................................................8
i


2.1.2. Đấu tranh với quan điểm lợi dụng “xã hội dân sự” để âm mưu
gây chuyển hóa chính trị ở Việt Nam....................................................8
2.1.3. Đấu tranh với quan điểm “Chỉ có thể chống được tham nhũng


khi thực hiện thể chế tam quyền phân lập để kiểm sốt quyền lực”.....9
2.2. Vai trị của thanh niên, sinh viên trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh hiện nay...........................10
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................13

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay xây dựng nhà nước pháp quyền là một xu hướng tất yếu
trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Nhiều cơng trình nghiên cứu dưới
các góc độ khác nhau đều khẳng định nhà nước pháp quyền là “điều kiện cơ
bản để phát triển nền dân chủ”, “là một phương thức, cách thức tổ chức quyền
lực nhà nước”, “là xác lập dân chủ, thừa nhận và đảm bảo thực hiện quyền lực
của nhân dân”, “là một giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triển
tiến bộ”, “là cơ chế có mục đích bảo đảm các quyền tự do của công dân, ngăn
ngừa và chống lại sự lạm dụng quyền lực có thể có từ cơ quan cơng quyền”
Tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định nhiệm vụ tổng quát của đất nước
trong 5 năm tới (2016-2020) là “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh;
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ
luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ này, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo những giá trị

tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước trong bối cảnh hiện nay. Do đó
qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh Về xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, vận
dụng đề xuất một số giải pháp xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
1.1. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng,
củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Các tư tưởng Hồ Chủ
Tịch về Nhà nước thật sự to lớn, sâu sắc không chỉ được thể hiện trong các
bài viết, các bài phát biểu, trong các văn kiện quan trọng do Người trực tiếp
chỉ đạo xây dựng và ban hành mà cả trong hành động thực tiễn của Người
trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, không chỉ do dân
lập ra thơng qua bầu cử dân chủ mà cịn là nhà nước chịu sự kiểm tra, giám
sát, định đoạt của nhân dân. Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đơn đốc phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân”.
“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của
mình” . Người nhắc nhở: “Nước ta là nước dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ

tịch nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân” . Người cịn viết: “Chính phủ
cộng hồ dân chủ là gì? là đầy tớ của dân từ Chủ tịch tồn quốc đến Đảng –
Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ”.

2


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là nguồn sức mạnh của Nhà
nước, là nguồn trí tuệ của Nhà nước, là nguồn sáng kiến vơ tận, nhà nước có
chức năng khơi nguồn, phát hiện, tiếp thu và hoàn thiện các sáng kiến của
nhân dân để xây dựng chính sách và luật pháp.
Một nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà
nước nếu biết lắng nghe và học hỏi nhân dân, biết tôn trọng bồi dưỡng và
nâng cao sức dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân thì sẽ
thấy nhân dân khơng chỉ nói lên những mong muốn của mình mà còn chỉ ra
được nhà nước cần phải hành động như thế nào để giải quyết các vấn đề quốc
kế dân sinh. Chính vì lẽ đó Nhà nước được thành lập khơng vì mục đích làm
thay cho dân, mà thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân
bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải quyết các vấn đề của chính mình. Người
viết: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng
có Chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đồn kết thành một khối” . Nhà nước của dân, do dân không có mục
đích tự thân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh của Nhà nước là phụng sự hạnh
phúc của nhân dân, vì nhân dân. Vì lẽ đó Hồ Chủ Tịch cho rằng “…
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hồ ra đời, mở đầu một chính thể nhà nước mới ở Việt Nam: chính
thể dân chủ cộng hồ. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng hồ thể hiện một
tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn mơ hình tổ

chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ biến của nền dân chủ nhân
loại, vừa phù hợp với các đặc điểm của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình bộ máy nhà nước của dân, do dân,
vì dân được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất
nước do chính Người chỉ đạo xây dựng và ban hành. Có thể thấy rằng hai bản
Hiến pháp 1946, 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo
3


và 613 sắc lệnh kể từ 1945 đến 1969, trong đó có 243 sắc lệnh liên quan đến
bộ máy nhà nước và luật pháp do Người ký ban hành đã hình thành một thể
chế bộ máy nhà nước vừa hiện đại vừa dân tộc kết tinh sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Tuy không tiếp nhận tư tưởng phân quyền vốn là nền tảng lý luận của
mơ hình nhà nước dân chủ phương Tây, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào mơ
hình tổ chức bộ máy nhà nước những yếu tố hợp lý và khoa học của nguyên
tắc phân quyền. Theo đó, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 được thiết
kế trên cơ sở phân chia quyền lực uyển chuyển giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước này, khơng có một cơ quan nào là
độc quyền quyền lực, có quyền đứng trên cơ quan khác.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt
động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính
chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919,
tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm

liên quan đến vấn đề pháp quyền, cịn lại liên quan đến cơng lý và quyền con
người.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các
cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở

4


phương Đơng, Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ
chức hoạt động của Nhà nước và quản lý nhà nước.
Cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm
minh. Hồ Chí Minh u cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp
hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần
chúng mà mình tham gia”. Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực
của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trị quan trọng. Họ chính là
người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân cơng lý”. Vì
thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong
công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì
khơng thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tồ án mà còn phải
gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm
cơng bằng, trong sạch.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật khơng phải là để trừng trị con người mà là
công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công
chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho
ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào
theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp
giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm
triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.

Q trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn
sau này đã có khơng ít những thay đổi về mơ hình bộ máy dưới tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy
vẫn là tư tưởng của Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, dưới tác
động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế tồn cầu hố, nhiều điểm
đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân,
5


do dân, vì dân vẫn cịn ngun giá trị, tiếp tục định hướng cho các nỗ lực
nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp đổi mới mơ hình bộ máy nhà nước trong các
điều kiện phát triển mới.
1.2. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh
1.2.1. Bảo đảm tính hợp hiến và “thượng tơn pháp luật” của Nhà nước.
Việc thực thi pháp luật ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, song, cịn có những hạn chế. Một bộ phận nhân dân chưa ý thức rõ về
quyền lợi và trách nhiệm của mình trong Nhà nước pháp quyền, thậm chí có
hành vi “từ bỏ” quyền và nghĩa vụ công dân khi không tham gia vào các cuộc
bầu cử nhằm lựa chọn ra những đại biểu ưu tú - đại diện cho quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân - thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước ở
các cấp. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, như trình độ nhận thức chính
trị của một bộ phận nhân dân cịn thấp; cơng tác truyền thông chưa tốt; các thế
lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân chủ và một số vấn đề khác, cố
tình gây rối, làm mất an ninh, trật tự, hòng chống phá sự nghiệp đổi mới và
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bên
cạnh đó, việc chấp hành pháp luật, kỷ cương, phép nước có nơi, có lúc chưa
nghiêm; nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa được xử lý kịp thời, hoặc chế
tài xử lý chưa đủ sức răn đe...
1.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước phục vụ,

kiến tạo phát triển.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng về
nhà nước phục vụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh và xem
như là một đặc trưng nổi bật của nhà nước mới mà Việt Nam phải xây dựng.
Cùng với đó, những gợi ý về nhà nước kiến tạo cũng được Người đề cập và
triển khai thực hiện trên thực tế khi giữ cương vị đứng đầu Nhà nước ta, mặc
dù Người chưa trực tiếp sử dụng thuật ngữ này.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là đặc
trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Do vậy, “Trong
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là
của nhân dân”; “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Theo đó, các cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân dân, là công bộc
của nhân dân, “gánh việc chung cho dân”. Khi đất nước mới giành được
chính quyền, trước mn vàn khó khăn chồng chất, trên cương vị là người
đứng đầu Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
với các thành viên Chính phủ, tập trung chỉ đạo cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới trên tất cả các lĩnh vực thông qua những quyết sách đúng đắn, kịp
thời. Chính phủ mới thực hiện tốt vai trò kiến tạo, hành động đã tạo động lực
xã hội mạnh mẽ và nhận được sự đồng thuận cao của tồn dân trong cơng
cuộc kiến thiết nước nhà.
1.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, là “cơng
bộc” của nhân dân.
Bộ máy nhà nước có trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả hay
khơng, phụ thuộc trước hết vào những con người trong tổ chức bộ máy đó. Do
vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nhà nước mới phải bắt đầu từ công

việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa
chuyên, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người khẳng định:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, đáp
ứng yêu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân.
1.2.4. Chú trọng các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, hoạt
động có hiệu quả, phục vụ nhân dân thì kiểm sốt quyền lực nhà nước là cơng
7


việc quan trọng. Người nêu ra một số biện pháp căn bản để thực hiện kiểm
soát quyền lực nhà nước như sau:
Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơng cụ để kiểm sốt
quyền lực nhà nước: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một nhà nước vì dân,
hoạt động có hiệu quả, phải là một nhà nước có “hiến pháp ban hành” và
“phải có thần linh pháp quyền”. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với nhà nước
pháp quyền. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, luật pháp là công
cụ thực thi quyền lực của nhân dân, cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện
các chức năng của mình, đồng thời để kiểm sốt quyền lực nhà nước.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số giải pháp xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội
Chủ nghĩa trong sạch vững mạnh giai đoạn hiện nay
2.1.1. Đấu tranh với quan điểm “khơng có đa ngun, đa đảng thì khơng bao
giờ có dân chủ”
Cần khẳng định rằng, đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy
nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm cho một nền dân chủ đích thực mà bản chất
của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội,

được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm
quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân… Vì
vậy, một đảng lãnh đạo khơng đồng nhất với độc tài lãnh đạo và càng không
đồng nhất với mất dân chủ. Theo đó, khơng nhất thiết cứ đa ngun chính trị,
đa đảng đối lập mới có dân chủ thật sự. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền
phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, quyền và lợi
ích của Đảng hồn tồn thống nhất với nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước là
để cho nền dân chủ XHCN cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
ln được bảo đảm.

8


2.1.2. Đấu tranh với quan điểm lợi dụng “xã hội dân sự” để âm mưu gây
chuyển hóa chính trị ở Việt Nam.
“Xã hội dân sự” còn là cái “cớ” để các thế lực chống phá địi dân chủ
hóa bất chấp pháp luật, đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong
các lĩnh vực; cổ súy cho sự “vượt ngưỡng” và thái quá trong tự do cá nhân;
đưa ra tự do ngơn luận và nhân quyền để địi lập hội, nhóm bất chấp quy định,
kêu gọi biểu tình, kích động trái phép. Bên cạnh đó, họ lợi dụng vấn đề viện
trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép với Đảng và Nhà
nước ta về cái gọi là “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, hịng làm thay đổi
đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp của chúng ta.
Không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài
thường rất quan tâm đến những địa bàn trọng điểm về an ninh, chính trị, trật
tự an tồn xã hội ở nước ta. Phát triển các tổ chức “xã hội dân sự” ln được
khơng ít “đối tác hai mặt” coi như một phương thức để “diễn biến hịa bình”
tiến tới “diễn biến khơng hịa bình” hịng triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ta.
2.1.3. Đấu tranh với quan điểm “Chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực

hiện thể chế tam quyền phân lập để kiểm sốt quyền lực”
Về thực chất, quan điểm này khơng hướng đến mục tiêu phòng, chống
tham nhũng mà muốn nhân danh chống tham nhũng, lợi dụng đấu tranh chống
tham nhũng để kích động địi thay đổi thế chế chính trị, xóa bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, lật đổ Nhà nước XHCN.
Các nước tư bản hầu như đều vận dụng thuyết tam quyền phân lập
trong xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước với nhiều biến thể
khác nhau, tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở khơng ít quốc gia tư bản, thể chế này
khơng thể ngăn chặn được sự chuyên quyền. Theo đó, có thể nói, “tam quyền
phân lập” khơng phải là mấu chốt để giải quyết vấn đề tham nhũng. Bởi, tham
nhũng xảy ra ở những nơi mà hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế còn bất cập,
9


thiếu kín kẽ, thiếu chặt chẽ, khơng cơng khai, minh bạch; sự kiểm tra, giám
sát chưa được duy trì có hiệu quả; vai trò của nhân dân, của dư luận xã hội
chưa được phá huy đầy đủ; các hoạt động quản lý, giáo dục bị bng lỏng…
Chính vì vậy, “tam quyền phân lập” khơng phải là “chìa khóa vạn năng” để
xóa bỏ được nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng; không thể là
phương thức và giải pháp duy nhất để đấu tranh phịng, chống tham nhũng có
hiệu quả.

Bất kể thể chế chính trị nào, cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tham
nhũng chỉ có thể thành cơng khi có quyết tâm chính trị cao, coi trọng cơng tác
phịng ngừa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, giáo dục, tu dưỡng rèn
luyện là cơ bản với trừng trị nghiêm khắc những cá nhân vi phạm; hoàn thiện
thể chế về chống tham nhũng, tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước và
tính đồng bộ về pháp luật, pháp chế, kỷ cương; thực hiện tốt việc giám sát của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội với hoạt động của cơ quan nhà nước; có
chính sách đãi ngộ với đội ngũ cán bộ cơng chức, viên chức...

2.2. Vai trị của thanh niên, sinh viên trong công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền trong sạch, vững mạnh hiện nay
Trong lĩnh vực chính trị, phải “đổi mới nội dung, phương thức giáo dục
chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
lòng yêu nước...” cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. “Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào,
sống tốt và làm việc hiệu quả”. “Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các
ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân...”. Đồng
thời, phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm “mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
10


xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được
nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở
tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích,
cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến
giám sát quá trình thực hiện” với “hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích
hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm
chủ”.
Về đạo đức, đối với thanh niên, sinh viên và các tầng lớp nhân dân,
phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, khơi dậy lịng nhiệt tình của tuổi trẻ, tinh thần trách nhiệm vì
cộng đồng, thái độ sống tích cực. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Đối với đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức: cần quan tâm cải thiện thu nhập, bảo đảm lợi ích hài hịa, để
họ không phải quá bận tâm đến “cơm áo gạo tiền” mà vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức công vụ, để họ có thể tập trung vào thực thi cơng vụ một cách
tốt nhất. Trong đó, “đội ngũ đảng viên thật sự tin dân, trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân".

11


PHẦN III: KẾT LUẬN
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn
sau này đã có khơng ít những thay đổi về mơ hình bộ máy dưới tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy
vẫn là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của Nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất
nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế tồn cầu
hố, nhiều điểm đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân vẫn cịn ngun giá trị, tiếp tục định hướng cho
các nỗ lực nghiên cứu, đổi mới mơ hình bộ máy nhà nước trong các điều kiện
phát triển mới.
Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng ta
đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị và tồn xã hội kiên quyết, kiên trì đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả ngày
càng cao hơn. Qua đó, xử lý nghiêm và kịp thời những hành vi tham nhũng,
lãng phí theo tinh thần “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ”, “tăng cường
cơng tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng,
lãng phí;... xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà
cho người dân, doanh nghiệp”. Từng bước xây dựng được một hệ thống pháp
luật hoàn thiện, hiện đại, nhân văn, lấy lợi ích của nhân dân và của đất nước là
mục đích tối thượng.


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, t. 1, tr. 469
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 202
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, t. 20, tr. 389 - 390
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 284 –
285
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 195
(7) Lương Đình Hải, Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân
chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1 (176), tháng 12006.
(8) Trần Đại Quang, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”,

13



×