Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam và sự vận dụng của đảng ta trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.94 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HƠ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI..........................................................................................2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội..................................2
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.........................................................................2
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam...................................................................................................3
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.......................................................4
1.4.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.........................................................................5
1.4.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp
lý............................................................................................................5
1.4.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành cơng nghiệp hóa..................5
1.4.4. Bốn điểm mấu chốt trong chính sách kinh tế..............................6
1.4.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu....................................................................7
1.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc....................................8
1.5.1. Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân.. 8
1.5.2. Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân
đội..........................................................................................................8
1.5.3. Về xây dựng thế trận lịng dân, nền quốc phịng tồn dân..........9
i


CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG Q TRÌNH CƠNG
NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG.................9


2.1. Quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng
Chủ nghĩa Xã hội.....................................................................................9
2.2. Kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại trong xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội trong thời kỳ Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa..............12
2.2.1. Kết quả đạt được.......................................................................12
2.2.2. Những vấn đề đặt ra..................................................................17
2.3. Vận dụng vai trò của nhà nước và sinh viên trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.......................................................20
2.3.1. Đối với nhà nước.......................................................................20
2.3.2. Đối với sinh viên.......................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế
giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì
phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng
thế giới lâm vào thối trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và
trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các
thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để
xun tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao
động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên
nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai
lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường
khác. Có người cịn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, cơng kích, bài bác chủ

nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám
hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ
nghĩa! Thực tế có phải như vậy khơng? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư
bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp
khơng? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không? Để làm
rõ các vấn đề nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta
trong công cuộc Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước”

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HƠ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao
gồm:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức,
trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng

nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng; các dân tộc đều bình
đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao
gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và xây dựng con người.
2


Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân
lao động, nịng cốt là cơng - nơng- trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa
cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động
lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực
sản xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực
tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên
trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội
lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ
thể của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết:
“tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước
thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…Có nước thì phải kinh qua chế
độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…”.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ,

Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng
phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng; nâng cao vai trị tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội;
xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.

3


Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng,
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một q trình phổ biến, có tính quy luật trên thế
giới. Nhưng việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, khơng chủ quan, nơn nóng.
Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì
khó khăn cịn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm,
một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ
Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước,
“bước ngắn, bước dài, tùy theo từng hoàn cảnh”, “nhưng chớ ham làm mau,
ham rầm rộ…Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần
dần”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết
hợp xây dựng và bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam - Bắc trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện
pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực
hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của
Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy
động và khai thác các nguồn lực trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích
của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngồi, phải suy
nghĩ tìm tịi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

4


1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo
sáng suốt, có tính ngun tắc về phát triển kinh tế Việt Nam.
1.4.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “… nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội,…có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài”.
1.4.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý
Người khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là cơng
nghiệp và nơng nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh
được”. Nông nghiệp phải phát triển mạnh mẽ để cung cấp đủ lương thực cho

nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để
cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân;
cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông
nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp.
Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau
phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh
chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh cơng nông để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.

5


1.4.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con
đường no ấm thật sự của nhân dân ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày
20-1-1960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi
chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách rộng rãi: dùng máy móc cả
trong cơng nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người,
làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc
phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành cơng nghiệp
làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta:
Con đường cơng nghiệp hóa nước nhà”.
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa
xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cịn nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ q độ, nền kinh tế đó cịn các hình thức
sở hữu chính: “Sở hữu của nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác
xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động
riêng lẻ. Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của tư bản”. Tương ứng với chế độ sở

hữu là các thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ
mới, có năm loại kinh tế khác nhau… Trong năm loại ấy, loại A (kinh tế quốc
doanh) là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ
phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư
bản”.
1.4.4. Bốn điểm mấu chốt trong chính sách kinh tế
Một là, cơng tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là cơng. Nó là nền tảng và
sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển
nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp
6


của cơng, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc
và kinh tế cá nhân của nơng dân và thủ cơng nghệ. Đó cũng là lực lượng cần
thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ
phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải
hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.

Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì khơng khỏi bóc lột. Nhưng
Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân q tay. Chính phủ phải bảo vệ
quyền lợi của cơng nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để
cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác
tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các
thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia
sản xuất, để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do
đó mà càng thắt chặt liên minh giữa cơng nơng.
Bốn là, lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán
cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những
thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính

sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
1.4.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con
đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho
nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh
phúc”, “Sản xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau
trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn chiến
7


tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm xã
hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các
chặng đường phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là
kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá
nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức
của ta, để làm hỏng công việc của ta”. Dù cố ý hay không, tham ô, lãng phí,
quan liêu “cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”. “Nó làm
hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo
đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí
phạm sức lực, tiêu hao của cải Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội Việt gian, mật thám”.
1.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
1.5.1. Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị quần chúng và lực
lượng vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và đấu

tranh cách mạng, phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng. “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung
quanh Tổ quốc”. Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở đấu tranh quân sự,
đồng thời còn là lực lượng tiến công trực tiếp đánh địch theo các phương thức
và nội dung rất phong phú, linh hoạt. Về lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Đây cũng
là một nội dung lớn và sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
8


1.5.2. Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội
Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng bản chất cách mạng, ý thức và trình
độ chính trị cho lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm và tổ chức thực
hiện một cách chặt chẽ, có hệ thống. “Qn sự mà khơng có chính trị như cây
khơng có gốc, vơ dụng lại có hại”. Người xác định quân đội ta có ba nhiệm
vụ: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Quân đội và
lực lượng công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng.
Về sức mạnh của lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trị
của yếu tố con người khi nêu luận điểm “người trước, súng sau”. Đó là sự
thống nhất giữa người cầm vũ khí với vũ khí, trong đó người cầm vũ khí đóng
vai trị quyết định. Trong quân đội, Người chủ trương xây dựng đội ngũ cán
bộ quân sự, cả chính trị, quân sự, khoa học - kỹ thuật và hậu cần. Người nêu
sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân sự: “Trí – Dũng - Nhân – Tín
– Liêm - Trung”.
1.5.3. Về xây dựng thế trận lịng dân, nền quốc phịng tồn dân
Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng
thế trận lịng dân. Đối với Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh vật chất, nguồn nhân

lực và sức mạnh tinh thần, mà lòng dân là sức mạnh đặc biệt to lớn.
Về quốc phịng, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền quốc
phịng tồn dân hùng mạnh.

9


CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG Q TRÌNH CƠNG
NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG
2.1. Quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là
yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm
1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ
trương: Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân
lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vào
những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa khơng cịn,
phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thối trào, gặp
rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính
sách và trong suốt q trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến
10


khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo
tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng
tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đơi
với xố đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có cơng, những
người có hồn cảnh khó khăn. Đây là một u cầu có tính ngun tắc để bảo
đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn
hóa đồng bộ, hài hịa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là
một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến
bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh
hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị
trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo

dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi
trường là một trong những vấn đề sống cịn, là tiêu chí để phát triển bền vững;
xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã
hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính
11


đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm
đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để
xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế
độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích
của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mơ hình
chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân
là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ
trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên
minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người
tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp
quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ

cho lợi ích của giai cấp tư sản, cịn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo
đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện
chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
12


cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đồn kết giữa
các dân tộc, tơn giáo.
2.2. Kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại trong xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
2.2.1. Kết quả đạt được
Tổng quan kết quả 35 năm thực hiện đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Trong nhiều thập niên qua, CNH, HĐH là xu hướng phát triển chung
của nhiều nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới,
việc thực hiện các chủ trương, đường lối về CNH, HĐH đã góp phần quan
trọng trong q trình phát triển, đưa đất nước thốt nghèo và lạc hậu, nâng
cao mức sống của người dân. Đánh giá chung về thành tựu thực hiện CNH,
HĐH ở Việt Nam trong 35 năm qua có thể khái quát trên một số nét như sau:
Về cơ bản, từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng
trưởng bình quân khá. Tăng trưởng GDP đã tăng từ mức bình quân 4,45%
giai đoạn 1986 - 1990 lên 8,19% giai đoạn 1991 - 1995. Giai đoạn sau, tốc độ
tăng trưởng GDP bình qn có thấp hơn, nhưng vẫn dao động quanh mức 7%,
trong đó, giai đoạn 1996 - 2000 đạt 6,96%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 đạt
7,33%. Riêng 10 năm qua, do những biến động bất lợi của kinh tế thế giới và
một số khó khăn của kinh tế trong nước, tăng trưởng GDP tiếp tục giảm

xuống thấp hơn, nhưng cũng là mức cao so với nhiều nước trong khu vực,
trong đó, giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình quân 6,32%/năm và giai đoạn 2011 2015 ước đạt bình quân khoảng 5,82%/năm.
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng ngành nơng nghiệp trong GDP giảm
dần, từ 38,06% năm 1986 xuống còn 18,9% năm 2010 và ước ở mức 18,12%
năm 2014 (năm 2015 dự kiến ở mức 16,8%). Tỷ trọng ngành công nghiệp và
13


xây dựng trong GDP tăng từ mức 28,88% năm 1986 lên 38,5% năm 2014
(năm 2015 dự kiến là 39%). Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ
mức 33,1% những năm đầu đổi mới lên 42,88% năm 2010 và khoảng 43,38%
năm 2014 (năm 2015, dự kiến tăng lên khoảng 44%). Quá trình chuyển dịch
cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu về CNH,
HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của cơng
nghiệp khai khống giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế
biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ gắn với CNH,
HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn
thơng... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP.
Hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Việt Nam đã tham gia hội
nhập trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị cung ứng, đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh toàn cầu. Xuất khẩu tăng nhanh và là động lực quan trọng
cho tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân thời kỳ 2001 - 2005
đạt 17,9%, thời kỳ 2006 - 2010 đạt 18,27% và thời kỳ 2011 - 2015 ước đạt
17,96%. Thị trường xuất khẩu được mở rộng ra nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Nếu như năm 1986, Việt Nam chưa có mặt hàng nào xuất
khẩu trên 200 triệu USD thì đến năm 2013 đã có 8 sản phẩm có giá trị xuất
khẩu đạt trên 5 tỷ USD (điện thoại và linh kiện, điện tử máy tính và linh kiện,

máy móc thiết bị dụng cụ khác, thủy sản, dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm
gỗ, giầy dép). Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng
sản phẩm chế biến, nguyên vật liệu, linh kiện và phụ tùng cho sản xuất, giảm
tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng thơ và tài nguyên. Trong khi đó, cơ cấu hàng
nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.

14


Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, từ 73% năm 1990 xuống
khoảng 47% năm 2014. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ tăng liên tục, trong đó, ngành cơng nghiệp, xây dựng tăng từ 11,2%
năm 1990 lên 18,2% năm 2005 và đến năm 2014 là 20,8%; ngành dịch vụ
tăng từ 15,8% năm 1990 lên 24,7% năm 2005 và đến năm 2014 là 32,2%. Tỷ
lệ lao động qua đào tạo tăng từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm
2010 và đến năm 2014 là 49%.
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Cùng với
thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam cũng đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Công tác giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo vượt mục tiêu
phát triển Thiên niên kỷ. GDP bình quân đầu người tăng mạnh, từ 113 USD
năm 1991 lên 1.273 USD năm 2010 và đến năm 2015 ước đạt khoảng 2.300
USD. Người dân cũng đã có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với
các dịch vụ công cơ bản, trong đó đáng kể là dịch vụ y tế, giáo dục. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm rõ rệt qua các năm, kể cả khu vực nông thôn và thành thị. Tỷ lệ
hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo năm 2005 đã giảm từ 15,5% năm 2006 xuống
còn 10,7% năm 2010; 9,6% năm 2012 và ước ở mức khoảng 5,8 - 6% năm

2014 (theo chuẩn nghèo năm 2011).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nói trên, q trình thực hiện đổi
mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam thời gian qua cũng đang phải đối
mặt với một số vấn đề, trong đó, đáng chú ý là:
Kinh tế phát triển chưa bền vững: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp so
với tiềm năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu CNH. Tăng
trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào các ngành công nghệ thấp,
tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Vai trò của
15


KHCN, của tính sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế còn thấp. Yêu cầu về thực
hiện CNH, HĐH theo hướng rút ngắn đứng trước nhiều thách thức. Kể từ khi
bắt đầu thực hiện CNH, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 25 năm sau đó
của Hàn Quốc là 7,79% (giai đoạn 1961 - 1985), của Thái Lan là 7,11% (giai
đoạn 1961 - 1985), của Ma-lai-xi-a là 7,66% (giai đoạn 1961 - 1985) và của
Trung Quốc là 9,63% (1979 - 2003). Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP
bình qn của Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới đến nay chỉ khoảng
6,5%: Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực đang hiện hữu.
Mặc dù đã đạt được các kết quả tích cực về phát triển kinh tế, song đến
nay, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp, chênh lệch
khá lớn so các nước trong khu vực. GDP bình quân đầu người của Thái Lan
năm 1996 là 3.026 USD thì đến năm 2014 là 5.550 USD và của Trung Quốc
năm 1996 là 728 USD thì đến năm 2014 là 7.572 USD, trong khi con số
tương ứng của Việt Nam chỉ tăng từ mức 337 USD lên 2.072 USD. GDP bình
quân đầu người của Việt Nam năm 2014 chỉ ngang bằng mức GDP bình quân
đầu người của Trung Quốc năm 2006, In-đô-nê-xi-a năm 2007, Thái Lan năm
1993.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động
đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. Các

ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, KHCN phát triển còn chậm. Nếu như trong
giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch
khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh, từ mức 38% năm
1986 xuống 27% năm 1995 và 19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ
trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành
nông nghiệp vẫn chiếm hơn 18% GDP, cao hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành
nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của In-đô-nê-xi-a là 14,4%, của
Ma-lai-xi-a là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%).
16


Sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu, CNHT phát
triển còn chậm, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ
liệu. Việt Nam đã thực hiện CNH, HĐH được gần 30 năm, nhưng đến nay
vẫn còn lúng túng trong việc xác định các định hướng phát triển ngành
CNHT. Vai trò của CNHT trong thực hiện CNH, HĐH chậm được nhận diện.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ
cấu kinh tế hiện đại, chưa có sự liên kết chặt chẽ để tạo ra các tác động lan tỏa
cho nền kinh tế, mức độ tập trung kinh tế vẫn thấp.
Sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động có khoảng
cách lớn so với nhiều nước và chậm được cải thiện. Theo số liệu từ Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 - 2014 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, nền
kinh tế Việt Nam đứng thứ 70 trong số 148 quốc gia trong bảng xếp hạng,
tăng 5 bậc so với thứ hạng 75 trong năm 2012 - 2013. Việt Nam ln nằm
trong nhóm các quốc gia gần thuộc nửa cuối bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều
so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Ma-lai-xi-a đứng thứ 24, Thái
Lan đứng thứ 37, In-đơ-nê-xi-a đứng thứ 38, Phi-líp-pin đứng thứ 59) và cịn
một khoảng cách rất xa so khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản).
Mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị

tồn cầu cịn rất hạn chế. Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở cửa trong gần
30 năm, xuất khẩu liên tục được mở rộng nhưng mức độ tham gia của các
doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị tồn cầu cịn rất hạn chế. Hàm
lượng GTGT của xuất khẩu còn thấp. Các mặt hàng có lợi thế so sánh cao vẫn
thuộc các nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu, tài nguyên và lao động rẻ như
nhóm hàng cơng nghiệp nhẹ (da giầy, thủ cơng mỹ nghệ…), nhóm nơng sản,
thủy sản.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Để thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, Việt Nam đã đề ra và tổ chức
thực hiện nhiều giải pháp khác nhau. Các đường lối, chủ trương thực hiện
17


CNH, HĐH đã tính đến các đặc điểm của quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt
Nam trong từng giai đoạn, bối cảnh của thế giới và khu vực. Mô hình, cách
thức và bước đi thực hiện CNH, HĐH cũng đã được xác định rõ ràng và cụ
thể hơn. Tuy nhiên, như phần trên đã chỉ ra, kết quả thực hiện các chủ trương,
chính sách CNH, HĐH thời gian qua vẫn còn những hạn chế và các nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế này có thể khái quát lại như sau:
Việt Nam đã bước vào công cuộc đổi mới được 35 năm, trong đó có
gần 20 năm thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH nhưng đến nay, nhiều nội dung
đề ra rất khó đạt được. Việc chưa hình thành được một chiến lược tổng thể về
CNH, HĐH đã làm cho vấn đề phát triển các ngành, các lĩnh vực trở nên dàn
trải trong khi nguồn lực thực hiện hạn chế. Phát triển CNHT được xem là nền
tảng và là yêu cầu để thực hiện CNH, HĐH, song đến nay, ngành CNHT ở
Việt Nam còn kém phát triển. Việc xác định các lĩnh vực, ngành, nghề và khu
vực cần ưu tiên phát triển chưa được dựa trên luận cứ, căn cứ phù hợp[9], vẫn
còn tư tưởng mong muốn phát triển “dàn đều” ở các ngành, các lĩnh vực, các
vùng và hệ lụy là sau gần 30 năm thực hiện đổi mới đến nay, Việt Nam vẫn
chưa có được một ngành cơng nghiệp phát triển, có chỗ đứng trên thị trường

khu vực và thế giới.

Thể chế cho sự vận động của một nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong một số lĩnh vực vẫn chưa bắt kịp đòi hỏi của thực tiễn, cịn chậm
thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị trường bằng các biện pháp
hành chính. Trong tư duy thực hiện CNH, HĐH, một số nội dung còn thể hiện
sự “ôm đồm” của Nhà nước đối với nhiều chức năng mà thị trường đảm
nhiệm hiệu quả hơn, trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà
Nhà nước phải thực hiện trong quá trình quản lý nền kinh tế. Các nguyên tắc
của kinh tế thị trường như vai trò của giá cả trong phân bổ nguồn lực, vai trò
của cạnh tranh, vai trò của tự do kinh doanh, của yếu tố sáng tạo tuy sớm
18



×