Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Tieu luan phan 8 hcm, tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.75 KB, 42 trang )

Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang chứng kiến xu thế toàn cầu hóa. Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) được hình thành đánh dấu sự ra đời một thị trường quy
phạm hóa, pháp chế hóa, cho thấy sự tự do hóa của thương mại thế giới
bước vào giai đoạn mới. Tự do buôn bán hiện nay đã trở thành bước đi đầu
tiên của nhất thể hóa kinh tế quốc tế.
Xu thế tồn cầu hóa về kinh tế đã mang lại nhiều thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế của mỗi nước, đặc biệt những nước chậm phát triển về
kinh tế. Nhờ có vốn đầu tư và kỹ thuật từ nước ngoài đưa vào, các nước
chậm phát triển về kinh tế có thể thêm điều kiện tạo công ăn việc làm cho
người lao động. Trình độ tay nghề được nâng cao. Yêu cầu sử dụng thành
thạo kỹ thuật trong sản xuất cùng với các hoạt động dịch vụ khác đòi hỏi
người lao động phải học tập về ngoại ngữ, tin học, giao dịch trong thương
mại.v.v. Đó là những cơ hội để người lao động phát huy các khả năng của
mình.
Từ những vấn đề kinh tế và kỹ thuật, xu thế tồn cầu hóa đang từng
bước tác động tới những giá trị tinh thần của các dân tộc. Việt Nam đã và
đang từng bước hội nhập với thế giới và đã thu được nhiều kết quả rất đáng
khích lệ. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta cũng
đã rất coi trọng vấn đề hội nhập văn hóa. Cho đến nay, Việt Nam đã tham
gia ký kết hàng trăm điều ước quốc tế và khu vực, ký kết và gia nhập nhiều
điều ước quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Trong q trình hội nhập văn hóa,
hình ảnh Việt Nam và văn hóa Việt Nam đậm đà bẳn sắc văn hóa dân tộc đã
được quảng bá mạnh mẽ ra với thế giới. Tuy nhiên, cũng như hội nhập kinh
tế quốc tế, hội nhập văn hóa cũng nổi lên những vấn đề rất đáng quan tâm
và cần phải được giải quyết tốt nhằm xây dựng hệ giá trị văn hóa mới, góp
phần định hướng giá trị con người Việt Nam.
1




Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

Để làm rõ những vấn đề trên, bản thân chọn đề tài: “Tác động của
tồn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận hết học phần VIII.

2


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM TỒN CẦU HĨA, VĂN HĨA, CON NGƯỜI
1. Khái niệm tồn cầu hóa
1.1.Có nhiều cách lý giải khác nhau về tồn cầu hóa:
Theo nghĩa hẹp, tồn cầu hóa được hiểu là tiến trình các quốc gia,
khu vực bị cô lập đã và đang hội nhập với quốc tế.
Theo nghĩa rộng, tồn cầu hóa được hiểu là sự giao lưu ngày càng
nhộn nhịp về kinh tế, chính trị, văn hóa, giữa các quốc gia trong phạm vi
tồn cầu.
Tồn cầu hóa được hiểu thiên về nhất thể hóa nền kinh tế thế giới,
các nền kinh tế trên thế giới giao lưu, hợp tác, hịa nhập với nhau tiến tới
hình thành một chỉnh thể kinh tế tồn cầu.
Tồn cầu hóa được hiểu là một vấn đề chung khơng có ranh giới.
Các nhà kinh tế, các chính sách, các nhà xã hội học, các nhà văn hóa,... đều
có thể giải thích từ lĩnh vực chun mơn của mình.

Lý giải ở tầng nấc sâu hơn, toàn cầu được hiểu là một sự thay đổi
sâu sắc trong phạm vi tồn cầu nhưng khơng phải là một hiện tượng mới. Từ
khi chủ nghĩa tư bản Tây Âu bành trướng ra tồn cầu, hình thành phân công
quốc tế, thị trường quốc tế, cho đến nay sự lưu thơng xun biên giới về
hàng hóa, dịch vụ, cơng nghệ, tin tức, nhân tài và phân phối tài nguyên đều
là những biểu hiện của tồn cầu hóa.
Từ những giải thích khác nhau kể trên, các học giả quốc tế đã có
những định nghĩa khơng giống nhau về tồn cầu hóa, chẳng hạn có những
định nghĩa sau đây:

3


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

Tồn cầu hóa là một sự thay đổi xã hội, một sự liên thông ngày càng
tăng giữa các xã hội và các yếu tố của nó có sự xuyên văn hóa, sự gia tăng
bùng nổ của giao thông và các công nghệ truyền thơng góp phần thúc đẩy
kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa.
Tồn cầu hóa là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc
gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trong lĩnh vực kinh tế,
cơng nghệ, văn hóa, mơi trường hay xã hội.
Tồn cầu hóa là sự hình thành một ngơi làng tồn cầu hóa dưới sự
tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông. Quan hệ
giữa các lĩnh vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự tăng
không ngừng về sự hiểu biết lẫn nhau như tình hữu nghị giữa các “công
dân” thế giới dẫn tới một nền văn minh tồn cầu.
1.2.Tồn cầu hóa hay “Mỹ hóa”
Hiện nay, đang nổi lên hai quan điểm cực đoan, đối nghịch nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tồn cầu hóa là xu thế khách quan không
cưỡng được, là tất yếu, hợp lý, không thể khác và mọi quốc gia chỉ có thể có
một cách duy nhất đúng đắn và có hiệu quả là chấp nhận và tuân thủ mọi
luật chơi của toàn cầu hóa thể hiện ở các quy tắc của các tổ chức kinh tế, tài
chính và thương mại quốc tế.
Quan điểm này tưởng chừng như khoa học và thiết thực, song thật
ra lại gần như một sự “bái vật giáo toàn cầu hóa”, đặt con người ở vị trí thần
phục và bị chi phối bởi chính một sản phẩm của con người là tồn cầu hóa.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tồn cầu hố là kết quả của chiến lược
siêu cường Mỹ với sự đồng lõa của một số nước tư bản đế quốc khác hịng
áp đặt cho tồn thế giới sự thống trị của kinh tế Mỹ, và cùng với nó là sự
4


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

thống trị của chính trị, văn hóa, lối sống Mỹ. Thực chất của tồn cầu hóa là
Mỹ hóa, chư khơng có gì khác.
Quan điểm này tưởng chừng như sáng suốt và vững vàng về lập
trường, song thật ra lại gần như một sự sùng bái, đề cao quá mức và thổi
phồng sức mạnh của Mỹ. Họ ngộ nhận rằng, Mỹ muốn làm gì là được nấy,
lầm lẫn mưu đồ của Mỹ với khả năng của Mỹ mà không thấy rằng Mỹ cũng
đang ở thế “lực bất tịng tâm”. Chính sự sùng bái, ngộ nhận và sợ sệt như
vậy đã dẫn đến sự co rúm cứng nhắc bị động của kẻ yếu “chưa đánh đã chịu
thua”.
Một thực tế không thể phủ nhận là, Mỹ là siêu cường mạnh nhất thế
giới hiện nay. Sức mạnh và ưu thế của Mỹ có thể được duy trì trong nhiều
thập kỷ tới. Chính trên cơ sở sức mạnh, Mỹ đã là nước đi đầu trong việc
thúc đẩy nhiều tiến trình của lịch sử, trong đó có việc tạo nên những cơ chế

cho sự phát triển của tồn cầu hóa. Bởi vì sức mạnh của nước Mỹ sẽ cho
phép nước Mỹ trở thành động lực, người hưởng lợi và làm lợi cho q trình
tồn cầu hóa. Rõ ràng sức mạnh kinh tế của Mỹ đang là chỗ dựa cho quyền
lực chính trị Mỹ trong việc chi phối q trình tồn cầu hóa và việc giải
quyết các vấn đề tồn cầu. Đó là một thực tế cần được tính đến khi đề cập
đến các vấn đề tồn cầu hóa.
Tính chủ động trong q trình dẫn đến tồn cầu hóa đang diễn ra
hiện nay rõ ràng thuộc về Mỹ. Do đó, tồn cầu hóa hiện nay biểu hiện thành
một xu hướng Mỹ hóa rất rõ, nhưng thực chất vẫn là tồn cầu hóa.
1.3.Tồn cầu hóa, khu vực hóa và bản địa hóa
Thực tiễn cho thấy, tiến trình tồn cầu hóa khơng diễn ra biệt lập,
mà nó diễn ra đồng thời với các quá trình khác vừa như đối tượng vừa như
5


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

yếu tố bổ sung hỗ trợ của nó. Đó là các q trình khu vực hóa và bản địa
hoa hay địa phương hóa. Như vậy các q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa
và bản địa hóa khơng chỉ là sự phân biệt các cấp độ khơng gian, mà đồng
thời cịn thể hiện tính chất và xu hướng vận động khác nhau của chủ thể
quốc gia.
Bản địa hóa (Localization) là một quá trình trên cơ sở truyền thống
văn minh và chế độ chính trị xã hội của dân tộc, mà hấp thụ và biến hóa các
yếu tố văn minh của bản thân phục vụ cho ổn định và phát triển của đất
nước. Xét về chiều hướng vận động, bản địa hóa cơ bản là một quá trình
hướng tâm, tức là đi từ ngồi vào. Do đó bản địa hóa địi hỏi một ý thức tự
chủ, một sự định vị địa văn hóa và xác định đúng đắn trình độ của quốc gia
các nhiệm vụ và bước đi cụ thể cho chiến lược phát triển quốc gia ngang

tầm thời đại và hội nhập và nhóm các quốc gia tiên tiến. Ngay cả trong
trường hợp một cơng ty nước ngồi thực hiện bản địa hóa sản phẩm của
mình nhằm xâm nhập thị trường một nước nào đó, người ta thấy rõ tính chất
hướng tâm của hành động đó: sản phẩm đó địi hỏi đáp ứng tâm lý tiêu dùng
dựa trên đặc trưng văn hóa của người bản địa. Xét về khía cạnh lịch sử, khái
niệm bản địa hóa xuất hiện sớm hơn so với khái niệm khu vực hóa và khái
niệm tồn cầu hóa bởi vì nó gắn liền với q trình tiếp xúc và tiếp biến văn
hóa khởi nguồn từ xa xưa.
Khu vực hóa (Regionalization) được xem như một sự liên kết giữa
các quốc gia hay các tổ chức bên trong của các nước cùng khu vực địa lý
nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ khu vực cũng như tăng sức mạnh cạnh
tranh quốc tế của cả khu vực. Khái niệm khu vực hóa gắn liền với thời đại
hội nhập của các quốc gia ở khu vực, trước hết là khu vực Tây Âu với sự ra
6


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

đời của Cộng đồng châu Âu (EC) nhừng năm 1950 và của khối ASEAN ở
khu vực Đông Nam Á trong hằng năm 1960 của thế kỷ XX. Xét về chiều
hướng vận động, khu vực hóa là q trình hai chiều, vừa hướng ngoại (ly
tâm) và hướng nội (hướng tâm) nhằm đáp ứng hai mục đích nói trên của chủ
nghĩa quốc gia. Do tính hai mặt của khu vực hóa mà nảy sinh khái niệm chủ
nghĩa khu vực (Regionalism) với hai đại diện điển hình là Liên minh châu
Âu (EU) và ASEAN.
Tồn cầu hóa (Globalization) ngày nay là một q trình gia tăng đến
phạm vi toàn cầu của các hoạt động toàn diện của con người (kinh tế, chính
trị, văn hóa) trước hết là kinh tế với các quá trình sản xuất, liên thông mà
chủ yếu là các doanh nghiệp và cá nhân, dựa trên các thành tựu của công

nghệ viễn thông, giao thơng và chất lượng mới của nguồn nhân lực.
1.4.Tồn cầu hóa văn hóa và văn hóa tồn cầu
Trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta chỉ nói đến
tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, khơng hề nói đến tồn cầu
hóa văn hóa và văn hóa tồn cầu. Một số nhà khoa học cũng khẳng định
khơng có cái gọi là tồn cầu hóa văn hóa. Nhưng cũng có rất nhiều nhà khoa
học cho rằng có tồn cầu hóa văn hóa và văn hóa tồn cầu. PGS.TS Nguyễn
Văn Dân trong cuốn “Văn hóa và phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa”
đã nêu lên một số điều kiện quan trọng dẫn đến tồn cầu hóa văn hóa là: (1)
Tồn cầu hóa kinh tế - một điều kiện quan trọng nhất của toàn cầu hóa văn
hóa; (2) Sự tiến bộ của khoa học - cơng nghệ - một điều kiện cơ bản của
tồn cầu hóa Việt Nam; (3) Giao lưu văn hóa - một điều kiện đặc thù của
tồn cầu hóa văn hóa. Tác giả còn nêu lên những cơ sở nhân văn chủ yếu
7


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

của văn hóa tồn cầu vì tồn cầu hóa văn hóa hay văn hóa tồn cầu khơng
chỉ bao hàm văn hóa đại chúng, mà văn hóa tồn cầu là sự biểu hiện ước
vọng và ý chí chung của lồi người. Đó là vì con người đều có những đặc
tính chung như: lịng nhân đạo, tình u đồng loại, u cái đẹp, u thích
sáng tạo, u thích thể thao, u thích hịa bình, có nhu cầu giao lưu.
Giữa những người khẳng định có tồn cầu hóa văn hóa và văn hóa
tồn cầu lại có bốn cách lý giải khác nhau: (1) Tồn cầu hóa văn hóa là xu
thế “đồng hóa” về văn hóa hoặc “đồng chất hóa” về văn hóa; (2) Tồn cầu
hóa văn hóa là “thực dân hóa” về văn hóa; (3) Tồn cầu hóa văn hóa đang
làm “tiêu tan các nền văn hóa dân tộc; (4) Tồn cầu hóa văn hóa là tất cả các
nền văn hóa trên thế giới lưu thơng trong phạm vi tồn cầu dưới mọi hình

thức, chịu tác động song hành của hòa nhập và bảo tồn. Nền văn hóa dù nhỏ
nhưng có sức sống mãnh liệt sẽ tồn tại và phát triển, những nền văn hóa
thiếu sức sống dù lớn sẽ bị teo tóp hoặc hịa tan trong q trình tồn cầu
hóa.
Trong bốn cách lý giải nói trên, rõ ràng cách lý giải thứ tư có tính
phổ cập hơn và tương đối sát thực với những gì đang diễn ra trong tiến
trình tồn cầu hóa văn hóa hiện nay.
Với những cách lý giải khác nhau về tồn cầu hóa văn hóa, nhận
thức của các chính khách và giới học giả quốc tế về toàn cầu hóa văn hóa
cũng khơng giống nhau. Tựu chung lại có hai loại nhận thức tiêu cực và tích
cực về vấn đề tồn cầu hóa văn hóa.
Nhận thức tiêu cực cho rằng tồn cầu hóa văn hóa là sự bành trướng
và lũng đoạn của một nền văn hóa nào đó hoặc sự lên ngơi một loại hình
văn hóa nào đó. Cùng với nhận thức đó, một số người cho rằng, trong quá
8


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

trình tồn cầu hóa văn hóa, các nền văn hóa nhược tiểu sẽ bị tổn thương, sẽ
bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác lớn mạnh hơn.
Nhận thức tích cực cho rằng, tồn cầu hóa văn hóa là sự thẩm thấu
của tồn cầu hóa sang lĩnh vực văn hóa, là một bộ phận quan trọng của tồn
cầu hóa. Tồn cầu hóa văn hóa khơng phải xây dựng trên một vùng lãnh thổ
nào đó mà xây dựng trên cơ sở người - chủ thể của văn hóa. Đặc trưng của
tồn cầu hóa văn hóa là sự giao thoa giữa con người, nghệ thuật, sức mạnh
vật chất và hình thái ý thức của các quần thể văn hóa. Trong q trình giao
thoa này, khái niệm “tồn cầu” là chỉ số đơng nhân loại chứ không phải đơn
thuần là khu vực địa lý. Ý thức chung của con người gặp nhau trong toàn

cầu hóa văn hóa là các vấn đề về tự do, dân chủ, quyền lợi và bình đẳng...Vì
vậy, tồn cầu hóa văn hóa khơng phải là phủ định sự khác biệt giữa các nền
văn hóa mạnh và các nền văn hóa yếu; cũng không phải là coi thường sự đối
lập giữa văn hóa của các nước phát triển với văn hóa của các nước đang
phát triển. Trong q tình tồn cầu hóa văn hóa, các nền văn hóa khác nhau
đều cố gắng bảo vệ bản sắc riêng của mình, vì vậy sẽ không tránh khỏi cọ
xát và xung đột. Những mâu thuẫn và cọ xát đó khơng có nghĩa là một vài
nền văn hóa nào đó bị tẩy chay.
2. Khái niệm văn hóa
2.1. Khái niệm văn hóa của tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hợp Quốc (UNESCO)
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, gắn với nhiều chiều cạnh của
cuộc sống, từ tác giả E.B.Tylo - Văn hóa nguyên thủy (Primitere Culture,
London, 1871) đến UNESCO (Tuyên bố về những chính sách văn hóa tại
Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì tại Meehicơ, tháng 8/1982), đã có
9


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

hàng trăm định nghĩa về văn hóa, phản ánh văn hóa “hữu thể” và văn hóa
“vơ hình”. Có thể hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, phức thể nhiều mặt: là giá
trị vật chất và tinh thần, khắc họa bản sắc, tạo nên đặc trưng riêng của cộng
đồng; văn hóa là hiểu biết, ứng xử; gắn với từng lĩnh vực (văn hóa văn
nghệ, văn hóa giáo dục, văn hóa pháp luật). Văn hóa là phạm trù chỉ tồn bộ
đời sống con người trong quan hệ giữa con người với con người và giữa con
người với thiên nhiên. Quan hệ đó đã kết tinh các giá trị (vật chất và tinh
thần); năng lực hoạt động của con người (trong phương thức sống, năng lực
chiếm lĩnh thế giới và khả năng hóa thân sản phẩm do mình tạo ra); và trình

độ phát triển của chính bản thân con người (hồn thiện phẩm chất, nhân
cách, trình độ người). Văn hóa giúp cho con người tự hồn thiện, khắc họa
bản sắc, tính cách riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý
nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh con người.
2.2. Khái niệm văn hóa của Hồ Chí Minh
Tháng 8/1943, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm của mình về ý nghĩa
của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn và cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”1.
Tinh thần và bản chất trong quan niệm văn hóa của Hồ Chí Minh có
tính kế thừa và phát triển các quan niệm văn hóa trước, nhưng lại hoàn toàn
phù hợp và thống nhất với quan niệm văn hóa của UNESCO. Đây là khái
10


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

niệm văn hóa sớm nhất và duy nhất của Hồ Chí Minh khi bàn về văn hóa
theo nghĩa rộng.
Từ sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa
được Hồ Chí Minh xác định là lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, thuộc đời
sống tinh thần của xã hội. Với vị trí đó, văn hóa có mối quan hệ mật thiết
với chính trị, kinh tế, xã hội.
3. Khái niệm con người
3.1. Khái niệm chung về con người

Khái niệm con người đang ngày càng được chú ý nghiên cứu và trở
thành lĩnh vực hàng đầu trong các tìm tịi khoa học.
Khoa học xã hội nghiên cứu con người như một yếu tố của hệ thống
xã hội. Con người là cái mang thuộc tính xã hội, là lực lượng sản xuất chính
của xã hội, là chủ thể và khách thể của quá trình lịch sử, là đối tượng của
giáo dục... Việc nghiên cứu của khoa học xã hội thường gắn liền một cách
trực tiếp với lợi ích con người, các nhóm xã hội, các giai cấp nên diễn ra
theo chiều hướng khác nhau, mâu thuẫn nhau.
Khoa học tự nhiên nghiên cứu con người như là sự tiến hóa sinh
học, một lồi sinh vật đặc biệt, một cá thể tự nhiên có chương trình biến dị di truyền nhất định. Khoa học kỹ thuật nghiên cứu con người trong mối liên
quan với việc nghiên cứu các hệ thống kiểm tra, giao tiếp và quản lý để tạo
ra các thiết bị mô phỏng chức năng của con người trong các q trình cơng
nghệ.
Mỗi khoa học cụ thể nghiên cứu về con người thường bị hạn chế bởi
tính đa diện của chính con người và đòi hỏi nhất thiết phải sử dụng phương
pháp và kết quả nghiên cứu của khoa học khác, chẳng hạn tâm lý học không
11


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

thể không quan tâm đến di truyền học. Việc hợp tác các ngành khoa học
khác nhau để nghiên cứu phù hợp về con người đang là vấn đề đòi hỏi cấp
bách.
3.2.Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự
nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể “song trùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết
hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau,

đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng
khơng có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Con người trong q trình tồn tại khơng chỉ tác động vào tự nhiên,
làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên
bản chất người, làm cho con người khác với con vật. “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”2.
Con người khơng thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ
trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thơng qua đó mới thỏa
mãn những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại.v.v. Trong xã hội
thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một
cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt,
từng bước hoàn thiện nhân cách.

12


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

3.3.Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
3.3.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về
tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người ln có xu hướng vươn
lên cái Chân - Thiện - Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa
dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng
lớp, đồng chí, đồng bào...); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất,
khả năng, cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp lại
nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác,

nhưng đều cùng là nịi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hồn cảnh xuất thân,
điều kiện sống, làm việc.
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt
đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,...bao gồm cả tính
người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người. Theo Hồ
Chí Minh, con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã
man đều có tình”3.
3.3.2. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng
trong một số trường hợp (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”,
“người ta”, “con người”, “ai”...), nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và
một tư duy chung, còn phần lớn. Người xem xét con người trong các mối
quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), theo
lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (cơng nhân, nơng dân, trí thức...),
trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và
13


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vơ
sản). Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
3.3.3.Bản chất con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao
động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật tự
nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau..., xác lập các mối
quan hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu

bao gồm các quan hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; lồi người.
II. TỒN CẦU HĨA TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Tác động của tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế trên các lĩnh
vực khác nhau
Một là, tồn cầu hóa thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và
xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Tồn cầu
hóa góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh tỷ
trọng các sản phẩm chế tác và các dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới. Như
vậy, tồn cầu hóa tạo thêm những tiền đề mới rất quý cho xã hội hiện đại.
Xét từ góc độ này, ngay những khiếm khuyết của tồn cầu hóa hiện nay
đương nhiên là tai hại, nhưng qua đó cũng góp phần đặt ra những vấn đề lớn
của tương lai và thậm chí hé mở nhiều giải pháp. Sự phát triển bền vững với
sự tôn vinh con người là nguồn lực chính với mối quan tâm đặc biệt đến môi

14


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

trường xã hội và môi trường sinh thái đã nổi lên từ những năm 1980, chính
là do tiến trình tồn cầu hóa gợi mở.
Hai là, tồn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày
càng lớn tuy chưa được như mong muốn, những thành quả mới mẻ, những
đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản
xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc. Ở
nhiều nước, thành quả này đã đến từng gia đình, từng người dân, tạo nền
móng cho nơng nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày càng hình thành và phát
triển.

Ba là, tồn cầu hóa tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang
lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát
triển: từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm cả về
chiến lược dài hạn và về tổ chức tiến hành không những đối với tầm vĩ mô
là quốc gia mà cịn đối với tầm vĩ mơ là từng doanh nghiệp và hộ dân. Tồn
cầu hóa một mặt, gây sức ép mạnh mẽ và gay gắt về cạnh tranh cũng như
hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp nhưng lại chỉ rõ vị trí
hàng đầu của yếu tố chất lượng, yếu tố thời gian, tăng giá trị thặng dư để có
sức mạnh cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao. Mặt khác, tồn cầu hóa mở ra
những địa bàn và cách thức hoạt động mới cho từng bước, nhất là các nước
đang phát triển.
Bốn là, toàn cầu hóa thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau, kích
thích các luồng và các dạng giao lưu làm cho con người ở mọi châu lục
ngày càng hiểu biết nhau hơn, nắm được tình hình cập nhật ở mọi nơi và có
thể góp phần tác động nhanh chóng đến mọi sự kiện. Bằng cách đó, tồn cầu

15


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

hóa góp phần vào sự nâng cao dân trí và sự tự khẳng định của các dân tộc,
của con người.
Ngoài bốn mặt tích cực nói trên, tồn cầu hóa cịn đưa đến những
tiêu cực và bất lợi cho nhiều quốc gia, dân tộc. Đó là:
Một là, tồn cầu hóa làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào
sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Chính mặt
tiêu cực này đã gây phẫn nộ khơng sao kể siết cho hơn 4 tỷ người, trên 2/3
số dân thế giới.

Hai là, tồn cầu hóa gây bất ổn định về mọi mặt hoạt động và làm
cho đời sống con người trở nên kém an toàn: sự an toàn của từng con người,
từng gia đình, an ninh quốc gia và an tồn của hệ thống kinh tế, tài chính,
tiền tệ toàn cầu đều bị ảnh hưởng và xáo trộn. Trong thế bất an như vậy,
những bất trắc và nguy cơ khủng hoảng có thể đột ngột nổ ra, với những tác
hại dây chuyền khốc liêt, khó lường trước được.
Ba là, dưới tác động của tồn cầu hóa, quyền lực phạm vi và hiệu
qủa tác động của các nhà nước - dân tộc phần nào bị thu hẹp, nó làm rung
chuyển nền tảng đời sống của các quốc gia, đồng thời đặt ra những vấn đề
rất nhạy cảm. Trong trường hợp chính sách quốc gia phạm sai lầm thì tác
hại của sự tranh chấp và xung đột quyền lực này càng nặng nề, nghiêm
trọng.
Bốn là, tồn cầu hóa đặc biệt các nước đang phát triển trước những
thách thức khốc liệt. Nếu họ vượt qua được thì thắng lợi, cái được rất lớn,
cịn nếu ứng phó thất bại thì cái mất cũng không kém phần nặng nề. Đối với
các nước đang phát triển vừa hợp tác vừa đấu tranh trong toàn cầu hóa, cả
thế và lực đều yếu hơn hẳn các nước phát triển.
16


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để nước ta
mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư các nguồn lực bên ngoài, phát
huy các nguồn lực bên trong nhằm phát triển các ngành sản xuất mà ta có
lợi thế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, đối với các nước có nền kinh
tế chuyển đổi như nước ta, hội nhập quốc tế là phương thức tích cực giúp
chuyển đổi một cách có hiệu quả sang nền kinh tế thị trường.
*Những tác động tích cực của tồn cầu hóa đối với Việt Nam

Một là, tồn cầu hóa tạo cơ hội để nước ta mở rộng thương mại
quốc tế thúc đẩy tăng trưởng thương mại. Đến nay chúng ta đã có quan hệ
thương mại với hơn 160 nước trên thế giới, xuất khẩu đã trở thành trụ cột
của nền kinh tế Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu chiếm gần 50% GDP, tồn
cầu hóa làm giảm các chi phí đầu vào của q trình sản xuất kinh doanh và
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ.
Hai là, tồn cầu hóa thúc đẩy q trình thu hút đầu tư và phát triển
công nghệ tạo điều kiện chuyển dịch, cơ cấu kinh tế, kích thích tăng trưởng.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đóng góp phần quan trọng cho tăng
trưởng kinh tế, là dạng đầu tư an tồn, ít gây hậu quả tiêu cực. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài tác động đối với tăng trưởng kinh tế nhờ làm tăng yếu tố
đầu vào là vốn, cũng như công nghệ mới, kỹ năng quản lý, tạo điều kiện đẩy
mạnh xuất khẩu thông qua đối tác nước ngoài, tăng mạnh sức cạnh tranh của
hàng hóa sản xuất trong nước. Vai trị của FDI trong việc đóng góp cho tăng
trưởng GDP ngày càng rõ rệt.
Ba là, tồn cầu hóa tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển nền kinh
tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Việc thực hiện cam kết quốc tế buộc

17


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

chúng ta phải từng bước thay đổi hệ thống luật lệ, chính sách, gây sức ép cải
cách trong nước theo hướng thị trường hóa.
Bốn là, tồn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội cho việc trau dồi kỹ năng
lao động, học tập, tiếp cận thơng tin, qua đó phát triển vốn con người. Hội
nhập quốc tế giúp đào tạo tốt hơn nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa.

* Cùng với những tác động tích cực nói trên, tồn cầu hóa cịn có
những tác động tiêu cực sau đây:
Một là, tồn cầu hóa góp phần làm sâu sắc thêm tình trạng bất bình
đẳng trong từng nước, giữa các nước và giữa các khu vực.
Hai là, hiện nay toàn cầu hóa đang bị một số nước phát triển và các
tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối. Họ nắm các huyết mạch
của tồn cầu hóa: thương mại, đầu tư, nguồn tài chính, cơng nghệ, thơng
tin... Thơng qua các kênh này họ muốn phổ biến các giá trị và các luật chơi
của chủ nghĩa tư bản.
Ba là, với việc hội nhập quốc tế dịng hàng hóa của các nước phát
triển có lợi thế sẽ lấn át thị trường của các quốc gia kém phát triển hơn.
Điều này đã đẩy đến cạnh tranh gay gắt và nảy sinh vấn đề phá sản, thất
nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở nước ta.
Như vậy, Việt Nam đang từng bước đứng trước thách thức: Việt
Nam đang cách xa các nước trên nhiều phương diện như thu nhập, công
nghệ, cơ sở hạ tầng. Khu vực kinh tế nhà nước được bảo hộ, hoạt động kém
hiệu quả, chiếm 35% đến 62% tổng vốn đầu tư tồn xã hội, song chỉ đóng
góp xấp xỉ 40%GDP và chỉ tạo ra khoảng 5% công ăn việc làm. Đặc biệt là
khu vực ngân hàng còn yếu kém; các ngân hàng thương mại chiếm giữ vị
18


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

thế độc quyền. Chất lượng lao động Việt Nam còn thấp, gần 90% lao động
chưa được đào tạo, ngôn ngữ giao tiếp là tiếng Anh lại thấp làm cho lợi thế
lao động rẻ của Việt Nam chưa phát huy hết được. Chất lượng giáo dục và
đạo tạo hiện nay thấp ở mức báo động. Trình độ phát triển khoa học cơng
nghệ chưa cao, nghiên cứu chưa gắn với yêu cầu sản xuất, tỷ lệ nhập cơng

nghệ cũ cịn cao. Nhà nước chưa có bước đột phá về cơng nghệ, đa số doanh
nghiệp chưa đặt cơng nghệ có tính quyết định trong cạnh tranh. Khung pháp
lý của Việt Nam cho một nền kinh tế thị trường cịn yếu, vẫn chưa có luật
cạnh tranh và chống độc quyền. Tham nhũng là một quốc nạn đang hạn chế
đáng kể tiềm năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
2. Tác động của tồn cầu hóa đến sự phát triển văn hóa và con
người Việt Nam
Các cơ hội và thách thức mà tồn cầu hóa đem lại đều rất to lớn. Có
bốn loại quan điểm khác nhau về sự tác động của tồn cầu hóa: có người tin
vào một sự tồn cầu hóa vui vẻ, theo họ, hành tinh của chúng ta đang hướng
tới một sự cùng tồn tại hịa thuận giữa văn hóa và văn minh; một số người
khác cho rằng “cỗ xe lu” toàn cầu hóa sẽ xóa sạch mọi khác biệt về văn hóa;
loại ý kiến thứ ba lại tin là thế giới đang đi đến một sự đụng độ giữa các nền
văn minh hay là một kiểu chiến tranh văn hóa nào đó; cuối cùng có người
cho rằng tồn cầu hóa dường như là một tiến trình văn hóa làm nảy sinh
nhiều điều kiện bạo lực khác nhau.
Những cách tiếp cận một chiều như trên đã bỏ qua tính hai mặt của
quá trình tồn cầu hóa. Thật ra, tồn cầu hóa thúc đẩy hai tiến trình diễn ra
song song nhưng ngược chiều nhau - đó là tiến trình nhất thể hóa, đồng
dạng hóa và tiến trình đa dạng hóa. Trong nhận thức về tồn cầu hóa, tác
19


Tiểu luận phần VIII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
con người mới, về kinh tế

động hai mặt của tiến trình này đối với văn hóa ngày càng được nhận thức
rõ. Một mặt, những điều lợi to lớn và chưa từng có mà q trình tồn cầu
hóa đem lại cho con người trên mọi khía cạnh của đời sống nói chung và
liên quan đến giao lưu, đối thoại giữa con người, giữa nền văn hóa - văn

minh nói riêng. Mặt khác, tồn cầu hóa bị coi là đe dọa đối với sự đa dạng
hóa vì nguy cơ đồng nhất và sự nghèo nàn gắn liền với xu thế thương mại
hóa ngày càng cao các sản phẩm văn hóa. Tồn cầu hóa đem lại cả những
biểu đạt và cách tân chưa từng có lẫn nguy cơ loại trừ các nền văn hóa dễ bị
tổn thương nhất.
Trong thời đại tồn cầu hóa ngày nay, nhân tố bên ngồi có một vai
trị khơng thể xem nhẹ. Nó có thể có một tác động nhiều khi mang tính
quyết định đến mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và phát
triển con người. Tác động của tồn cầu hóa dẫn đến sự phát triển văn hóa và
con người theo hai chiều hướng: tác động tích cực và tác động tiêu cực.
2.1. Tác động tích cực
Tồn cầu hóa đang làm cho thế giới thu nhỏ lại như “ngôi làng tồn
cầu”. Nó làm cho mọi người xích lại gần nhau, tiếp thu tư tưởng của nhau,
làm cho đời sống tư tưởng con người trở nên đa dạng và phong phú hơn bao
giờ hết. Nhân tố tồn cầu hóa đem đến tư tưởng tự do để tạo khả năng đa
dạng hóa và phong phú hóa trong tư duy nhận thức, nâng cao tư duy sáng
tạo cho mỗi cá nhân. Mà tự do sáng tạo lại là một nhân tố rất quan trọng để
đem lại giá trị văn hóa cho con người và xã hội. Vì thế trong thời đại tồn
cầu hóa ngày nay, hệ giá trị của con người trở nên phong phú chưa từng
thấy.

20



×