Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận cao học, nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.76 KB, 30 trang )

A - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Quyền lực chính trị là mơn học thuộc chun ngành chính trị học nhằm
cung cấp những kiến thức cơ bản về cách thức quản lí xã hội, các học thuyết xây
dựng, tổ chức xã hội. Là quyền lực của một hay liên minh giai cấp để thực hiện
mục tiêu chính trị trên cơ sở thực hiện chức năng công quyền mà cơ bản là bằng
quản lí nhà nước, là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã
hội có lợi cho giai cấp mình và bảo đảm nhất định công bằng xã hội.
Là học thuyết thuộc thượng tầng kiến trúc nghiên cứu các hình thức thực
thi quyền lực xã hội chủ yếu của giai cấp cầm quyền để điều hành quản lí xã hội
nhằm bảo đảm ổn định, hồ bình xã hội. Trong q trình thực hành cắc phương
thức thực thi quyền lực chính trị, các chế độ khác nhau, các nhà nước khác nhau
luôn luôn luận tìm các phương thức thực thi quyền lực chính trị áp dụng xây
dựng chế độ chính trị của nước mình. Trong các học thuyết về quyền lực chính
trị ấy, Nhân quyền là học thuyết chính trị quan trọng bậc nhất, bất kì thể chế
chính trị đương đại nào cũng khơng thể bỏ qua.
Trong q trình nghiên cứu về quyền lực chính trị em thấy vấn đề nhân
quyền ln là vấn đề của các cuộc tranh cãi trên diễn đàn chính trị thế giới
đương đại. Thực chất của vấn đề này là gì? Lồi người ghi nhận nó đến đâu? Là
vấn đề luôn được mọi người quan tâm nhất là sinh viên nghiên cứu quyền lực
chính trị.Ở Việt Nam nhân quyền là vấn đề hàng đầu trong quá trình đấu tranh,
giải phóng xây dựng đất nước. Mục đích cuối cùng của chế độ xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta xây dựng là giải phóng con người, đem quyền làm chủ thực sự đến
cho từng người lao động. Nhưng hiện tại các thế lực thù địch, các nước tư bản
phương Tây dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, vị thế nước lớn luôn muốn áp
đặt thứ nhân quyền xa vời, giả tạo với các nước khác, luôn xuyên tạc bôi nhọ, vu
khống phủ nhận những thành tựu của các nước, muốn can thiệp vào cơng việc
nội bộ các nước hịng thực hiện mưu đồ bất chính. Từ những suy nghĩ trên em

1



chọn “Những thành tựu nhân quyền ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng
Tám đến nay” để làm đề tài nghiên cứu trong bài tiểu luận này.Nhăm đưa ra
những luận cứ sắc đáng khẳng định những thành quả về nhân quyền mà nhân
dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, góp phần bác bỏ
những luận đIửu xuyên tạc của kẻ thù.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong q trình phát triển kinh tế- chính trị- xã hội- văn hoá hơn sáu mươi
năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu đặc sắc “diện mạo đất nước, con
người đều đổi mới”. Trong những thành tựu đó quyền con người đạt được nhiều
thành cơng, được đánh giá là thành tựu vượt bậc, quan trọng nhất trong q trình
giải phóng con người của cách mạng nước ta.
Trong những năm qua, các học giả nước ta nghiên cứu rất nhiều về vấn đề
này với các khía cạnh khác nhau như:
Trần Ngọc Đường- Bàn về quyền con người, quyền cơng dân .Nxb Chính
trị quốc gia, Hn 2004. Tác phẩm bàn luận rất sâu sắc các quyền con người trong
quá trình hình thành và quá trình nhà nước ta ghi nhận trong các Hiến pháp.
Đánh giá ghi nhận nhân quyền trong Hiến pháp là thể hiện sự quan tâm đúng
đắn vấn đề này của Đảng và Nhà nước ta.
Trần Quang Thiệp- Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hn 2004. Sách đã chỉ rõ quá
trình xây dựng và hoàn thiện nhân quyền trong pháp luật cũng như chỉ rõ điểm
tiến bộ về quá trình xây dựng nhân quyền ở Việt Nam…
Những vấn đề về Quyền con người - Kinh nghiệm ở Việt Nam và Trung
Quốc.Sách đã tập hợp nhiều bài viết về nhân quyền trên những góc cạnh khác
nhau của học giả hai nước, đã cung cấp cho độc giả những kiến thức về nhân
quyền từ những góc nhìn khác nhau của các lĩnh vực của đời sống xã hội. Và
nhiều bài báo, tạp chí, bài bình luận, diễn đàn bàn luận thành tựu nhân quyền
trong các lĩnh vực khác…Các cơng trình đều bàn luận, đánh giá, ghi nhận thành
tựu nhân quyền ở Việt Nam trong những lĩnh vực khác nhau. Nhưng chưa có

2


cơng trình nào đánh giá hệ thống hồn thiện nhất ghi nhận thanh tựu nhân quyền
ơ Việt Nam xứng đáng vơi tầm vóc vấn đề mà Đảng nhà nước ta sáu mươi năm
qua đã gặt hái được . Do vậy đề tài “Những thành tựu cơ bản về nhân quyền ở
Việt Nam từ cách mạng tháng Tám đến nay”góp phần làm sáng tỏ hơn hữa vấn
đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu đề tài.
Quyền con người ở Việt Nam và những thành tựu về nhân quyền ở nước
ta său cánh mạng tháng Tám 1495
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Giải phóng con người, đem tự do bình đẳng bác ái đến cho toàn thể nhjân
dân là mục tiêu lý tưởngcánh mạng của Đảng nhà nước ta. Sáu mươi năm qua
Đảng nhà nước ta khơng ngừng thực hiện mục đích trên nên đã đạt được những
thành tựu hết sức to lớn .Trong đó việc thực thi nhân quyền và những thành tựu
của nó là thước đo khẳng định những già trị giải phóng con người. Nhân quyền
là vấn đề rộng lớn nó bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau từ lịch sử phát triển,
nội dung học thuyết thành tựu đạt đượcvà tương lai của nó … nhưng vì năng lực
bản thân có hạn nên khơng thể nghiên cứu tồn bộ học thuyết này được mà chỉ
tập trung nghiên cứu ở một khía cạnh cụ thể là: Thành tựu nhân quyền ở Việt
Nam sau cách mạng tháng Tám để làm rõ vấn đề này.
5. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài.
Mục tiêu : Đề tài tập trung luận giải và làm rõ nội dung thành tựu nhan
quyền ở Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị kinh tế văn hố … chỉ ra những
thành tựu dặc sắc nhất quan trọng nhất tích cực nhất. Đồng thời cũng chỉ ra
những hạn chế còn thiếu sót từ đó đưa ra một số giải pháp tham khảo để nâng
cao hơn nữa việc thực thi nhân quyền ở nước ta.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau.
- Thực trạng nhân quyền Việt Nam trước năm 1945.

- Những thành tựu nhân quyền từ 1945 đến nay.

3


- Hạn chế và giải pháp nâng cao thành tựu nhân quyền ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận macxit là chủ
nghĩa đuy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: logich- lịch sử, phân tích hệ thống.
- Ngồi ra còn sử dụng phương pháp đặc thù: Khảo sát quan sát thực
nghiệm, nghiên cứu tài liệu đưa ra đánh giá kết luận, phân tích tổng hợp đánh
giá so sánh.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề
tài gồm hai mục lớn và năm tiết cụ thể.

B - NỘI DUNG
I. QUYỀN CON NGƯỜI – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN.
1. Lịch sử phát triển tư tưởng nhân quyền.
Trong lịch sử phát triển các học thuyết chính trị của lồi người nhân
quyềnln ln được các học giả các nhà nước tìm hiểu và xây dựng. Tuỳ từng
thời kỳ lịch sử khác nhau học thuyết này cũng có những biến đổi và hồn thiện.
Nhân quyền là vấn đề khơng bao giờ cũ, nó ln ln mới xét theo ý
nghĩa tến bộ lịch sử và phát triển của cá nhân xã hội. Trong mỗi thời kỳ lịch sử
ấy các học giả các trường phái đều có những quan niệm riêng về vấn đề này.
Thời cổ đại. Khi đề cập đến vấn đề nhân quyền các triết gia đã nêu lên
nguyên tắc “các quyền con người(quyền tự nhiên ) là tài sản của tất cả mọi
người ở mọi thời đại”. Ở thời kỳ này thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử

dụng các quyền như tự do ngơn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người
trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng các quyền tự nhiên thuộc sở hữu
của tất cả mọi người.

4


Hamurabi (Lưỡng Hà cổ đại) cho rằng “công lý bùng nổ để ngăn chặn
kẻ mạnh làm hại kẻ yếu”.Ông coi trọng công lý xã hội , bảo vệ kẻ yếu , quan
tâm đúng đên mọi người trong xã hội.
Mạnh Tử (Trung Quốc cổ đại) cho rằng “cá nhân con người là vơ cùng
quan trọng cịn nhân cách của vua chúa thì ít quan trọng hơn”.Mạnh Tử đề cao
cá nhân con người trong xã hội , nâng cao vai trò xã hội của con người, cho ta
thây ông rât quan tâm đến con người trong phát triển xã hội còn vua chúaông
xêp său cá nhân con người .
Trong thời kỳ cổ đại mặc dù trình độ sản xuất cịn đơn giản, trình độ tư
duy lý luận cịn nhiều hạn chế, các triết gia cổ đại đã đề cập rất sớm đến quyền
tự do ngơn luận, bình đẳng, bảo vệ kẻ yếu, đề cao nhân cách cá nhân. Những
luận điểm tiến bộ này chỉ có được khi lồi người tồn tại trong một nền văn minh
nhất định, khi xã hội được tổ chức chặt chẽ. Nhưng các quan điểm trên thiên về
các quyền tự nhiên chưa ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật.
Thời trung đại. thời kỳ của nhà thờ và giáo lý, thần quyền và thế quyền
bóp nghẹt cuộc sống của nhân loại. Những giá trị tiến bộ buổi ban sơ con người
đạt được về nhân quyền bị giai cấp thống trị bóp nghẹt và thay vào đó là cường
quyền và thiên quyền, con người phải sống với những tín điều, niềm tin vào thế
lực siêu nhiên thần bí ngột ngạt và đầy bất cơng. Nhưng chính trong vịng kìm
hãm đó đã tiềm ẩn mầm mống của đấu tranh, con người vùng lên để đòi lại
những quyền của con người. Nhà nước vi phạm quyền con người thì vấn đề
quyền con người được đặt ra trên hết.
Thời cận đại. Đến thế kỷ XVI trở đi, quan hệ sản xuất TBCN ra đời và

phát triển. Sự tồn tại của nhà thờ và chế độ phong kiến trở thành vật cản cho tiến
trình tự do phát triển kinh tế TBCN. Giai cấp tư sản có sứ mệnh tuyên chiến với
nhà thờ và vương triều phong kiến để mở đường cho lịch sử tiến lên. Đến thế kỷ
XVII-XVIII, quyền con người được các học giả tư sản bàn đến như một học
thuyết. Các trường phái , các quan điểm của các học giả tư sản thời kỳ này có

5


những điểm tương đồng hoặc khác biệt nhau nên ta có thể chia ra các trường
phái sau:
Trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện tiêu biểu:
Spinoda(1632-1670)
G.Locke(1632-1704)
Kantơ(1724-1804)
Các ông quan niệm rằng:”Quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Đặc
quyền tự nhiên này do có pháp luật tự nhiên đứng trên cao hơn pháp luật thực
định”.
G.Locke đã nêu ra và lập luận các quyền cơ bản, quyền tự nhiên của con
người bao gồm quyền sống, quyền được tự do và quyền có tài sản. Thuyết pháp
luật tự nhiên ra đời trong điều kiện xã hội châu Âu phong kiến khi mà thần
quyền và thế quyền ở đỉnh cao của sự thống trị, nhân dân lao động đang trong
thế tận cùng của sự nô dịch cho nên họ bị liên minh thần quyền và thế quyền chà
đạp vi phạm quyền con người. Vì vậy, trong ý nghĩ ban đầu Thuyết pháp luật tự
nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người khẳng định quyền con
người là tự nhiên , vốn có nhằm đối lập và phủ nhận quan niệm quyền con người
do vương quyền và thần quyền ban phát. Quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên
một mặt nhằm đói lập và phủ nhận quyền lực nhà nước phong kiến và mặt khác
nó đối lập và phủ nhận quyền lực, luật lệ của nhà thờ Thiên chúa
Trường phái pháp luật tự nhiên đã xây dựng được một cách vững chắc

nguyên tắc bảo vệ quyền cá nhân con người trước quyền lực. Học thuyết này đã
được các cuộc cách mạng tiến bộ ghi nhận như sự hoàn thiện học thuyết nhân
quyền. Đó là năm 1629, Nghị viện Anh đưa ra yêu sách “về các quyền”, đến
năm 1689 sau cách mạng tư sản, yêu sách đó được ghi nhận vào pháp luật về các
quyền.
Năm 1776, “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ khẳng định bảo vệ các quyền
con người. “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ây có quyền
6


được sống quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Năm 1789 “Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp khẳng định các quyền con người.
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln ln tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.Phải đến năm 1948 khi công ức quốc tế về nhân quyên
của Liên hợp quốc ra đời đánh dấu sự hoàn thiện cũng như mức độ phổ biến của
học thuyết nhân quyền.
Đến đây thuyết pháp luật tự nhiên đã hoàn thành vai trị lịch sử của nó là
xác lập về mặt tư tưởng nguyên tắc bảo vệ con người trước quyền lực.
Trường phái quyền lực tổng hoà xã hội với các đại biểu như:
G.Locke
Hobbes
Trường phái này xem con người cũng như quyền con người trong tổng
hoà các mối quan hệ xã hội.
Các học giả trường phái này cho rằng: nhân quyền là một giá trị nhân
loại, nó được hình thành trong lịch sử với cuộc đấu tranh giai cấp. Qua các thời
đại khác nhau nhân quyền được bổ sung dần đầy đủ.
Nhân quyền không phải là quyền cá nhân con người mang tính bẩm sinh
tự nhiên mà ln gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất
cơng xã hội, chịu sự chi phối của chế độ kinh tế, chính trị của nhà nước nhất

định. Như vậy là khi chưa có nhà nước, khi nhà nước chưa ra đời thì nhân quyền
chưa bàn đến. Chỉ khi nào xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời và có sự vi phạm
quyền con người thì vấn đề nhân quyền mới được đặt ra.Ở đây có một nghịch lý
rằng nhà nước là công cụ trấn áp giai cấp này với giai cấp khác thì nó ln ln
có thể vi phạm đến các quyền con người. Mặt khác nhà nước đóng vai trò là
người đại diện xã hội đẻ ghi nhận, xử lý các vi phạm quyền con người trong xã
hội. Nhưng “con người là động vật chính trị”1, con người cần đến xã hội để tồn
tại và phát triển. Xã hội cần có quền lực để điều hồ, trấn áp các mối quan hệ xã
hội. Trong xã hội luôn tồn tại giai cấp, tập đồn nhưng mâu thuẫn, đối kháng
11

1 Arĩttơt

7


nhau về lợi ích nhất định. Quyền lực dẫn đến xung đột khi giải quyết các xung
dột thì phải cần đến quyền lực. Như vậy là quyền lực giúp con người giải quyết
các mâu thuẫn phức tạp, bảo vệ con người để con người được tồn tại, được cứu
trợ…
Từ những nghịch lý mâu thuẫn trên các nhà tư tưởng cận đại đưa ra hai
khuynh hướng giải quyết sau:
- Khuynh hướng thu hẹp: “quyền lực nhà nước cần phải thu hẹp
lại”.Đây là điều kiện để thoả mãn yêu sách của từng cá nhân nhằm bảo đảm sự
an toàn của từng cá nhân tự do tư tưởng.
- Khuynh hướng mở rộng:“tăng cường hơn nữa quyền lực nhà nước”,
thiết lập quyền lực dân chủ chống cực quyền để đảm bảo thoả mãn yêu sách về
các quyền của con người.
Nhưng dù mở rộng hay thu hẹp các quyền con người trong xã hội tư
bảnmới chỉ bàn trên lý thuyết và ghi nhận thành văn trong tuyên ngôn của cac

cuộc cách mạng như Anh, Mỹ(1776), Pháp(1789) của giai cấp tư sản. Thực chất
nhân quyền và sự bình đẳng nhân quyền đó chỉ có trong giai cấp tư sản bởi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chấp nhận có sự bóc lột, có giai cấp bóc
lột ,có giai cấp bị bóc lột. Có bóc lột thì có áp bức giai cấp các quyền tự do bình
đẳng. Trong xã hội có áp bức giai cấp hiển nhiên sẽ bị vi phạm và khơng có nếu
có thì có chăng chỉ trong nội bộ giai cấp có chung quyền lợi. Giai cấp tư sản
trong xã hội tư bản chiếm một số ít và tập trung trong tay mình toàn bộ tư liệu
sản xuất và như vậy đặc quyền sẽ tập trung vào tay thiểu số tư bản- giai cấp
thống trị , còn đa số nhân dân lao động không hề được đảm bảo các quyền cơ
bản. Những tuyên ngơn hoa mỹ kia có ghi nhận quyền con người đầy đủ đến đâu
thì nhân quyền vẫn bị chà đạp. Đại đa số quần chúng nhân dân lao động vẫn rên
xiết dưới ách kìm kẹp của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nhĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng muốn xoá bỏ vi phạm nhân quyền đó
thì phải xố bỏ chế độ đặc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thì mới biến quyền con
người từ lý thuyết thành hiện thực, để quyền con người thực thi đầy đủ cân bằng
8


phải xây dựng một nhà nước chung giai cấp, điều hoà giai cấp. Học thuyết MácLênin về nhân quyền ra đời đã đánh dấu sự hoàn thiện học thuyết nhân quyền.
Học thuyết Mác-Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư
tưởng nhân văn chân chính nhất của lồi người. Học thuyết ấy là sự kế thừa một
cách biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân loại về con người và quyền con
người.
C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể thông nhất, một “sinh
vật xã hội”. Do đó quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự
nhiên”-những đặc quyền vốn chỉ có con người mới có và “quyền xã hội” tức là
sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Sự thống nhất giữa hai yếu tố đó có thể thấy trong lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về quyền con người. C.Mác cho rằng, con người là sản phẩm cao
nhất của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, một mặt là sản phẩm của

những điều kiện tự nhiên xung quanh trong suốt cuộc đời, và do đó lại chính xã
hội sản sinh ra con người. Vì vậy bản thân con người là sự thống nhất giữa mặt
tự nhiên và mặt xã hội. Trong mọi trường hợp con người luôn luôn là động vật
xã hội. Từ đó việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể đúng khi đặt nó
trong quan hệ xã hội, bởi vì chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có
những điều kiện, phương tiện để phát triển toàn diện những khẳ năng của mình,
chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân.
Phải giải phóng con người, giải phóng khỏi sự ràng buộc của tư bản bất
cơng, trói buộc con người trong những guồng quay máy móc, xây dựng một xã
hội mới khơng cịn bất cơng, xã hội đó phải đảm bảo cho các quyền con người
thực hiện đầy đủ nhất.
Sự phát triển học thuyết nhân quyền của Mác-Ănghen sau này được V.I.
Lênin- nhà cách mạng thiên tài đã kế thừa và phát triển học thuyết, tư tưởng của
Mác về quyền con người và khẳng định rằng “giai cấp vô sản khơng thể tự giải
phóng bản thân mình nếu khơng tiêu diệt tất cả các điều kiện phi nhân quyền của
đời sống trong xã hội hiện nay”. Nghiên cứu các quyền tự nhiên mà chủ nghĩa tư
9


bản khẳng định trong các Tuyên ngôn ,các văn bản pháp lý… Lênin chỉ ra rằng:
“quyền con người là những đặc quyền tự nhiên mà con người có chưa phải đã là
quyền con người”. Để đạt tới quyền thì phải có quy chế pháp lý thực hiện các
đặc quyền tự nhiên, chỉ khi nào được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh thì đó
mới là quyền con người, khơng có pháp luật thì khơng có quyền. Quan điểm trên
của Lênin đã chỉ ra rằng quan niệm của thuyết pháp luật tự nhiên về quyền con
người gắn với thiết chế quyền lực nhà nước và pháp luật. Đồng thời Lênin cho
rằng phải xây dựng một chế độ nhà nước chung của giai cấp, điều hồ mọi lợi
ích xã hội. Ở đó mỗi người lao động được hưởng đầy đủ các quyền như nhau,
bình đẳng như nhau.Và sự thực cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã làm được
điều đó. Cuộc cách mạng này đã xố bỏ được mọi áp bức bất cơng của xã hội

phong kiến, tư bản, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, làm chủ bản
thân mình.Một cuộc cách mạng thực sự chuyển đổ về chất bước từ một xã hội cũ
tiến lên một xã hội mới tiến bộ nhất. Ở đó các quyền tự nhiên của con người
được thực hiên đầy đủ trong hiến pháp và pháp luật. Thành tựu bảy mươi năm
xây dựng chế độ mới chế độ xã hội chủ nghĩa đã khẳng định thành tựu nhân
quyền đích thực xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống con người được tự do phát triển và
quan tâm đúng mức. Thành công trong xây dựng nhân quyền các nước xã hội
chủ nghĩa Liên Xô, Đông Âu là bài học cho chúng ta hơm nay xây dựng và hồn
thiện học thuyết này ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế
giới.
2. Khái niệm nhân quyền.
Nhân quyền được các học giả nghiên cứu từ rất sớm, mỗi một giai đoạn
khái niệm về nhân quyền có thay đổi rất nhiều. Sự thay đổi ấy do điều kiện kinh
tế xã hội giai đoạn lịch sử đó quy định. Để xây dựng khái niện nhân quyền đúng
nhất, ta nghiên cứu thuộc tính cơ bản nhất của quyền con người trên quan điểm
chủ nghĩa Mác-Lênin.
-Tính lịch sử của quyền con người. Khi xã hội có áp bức, có vi phạm
nhân quyền ắt có đấu tranh nhân quyền. Như vậy nhân quyền ra đời trong cuộc
10


đấu tranh chống áp bức bóc lột, C.Mác chỉ ra rằng “quyền con người không phải
là khái niệm trừu tượng và cũng không chỉ là quyền tự nhiên mà luôn gắn với
đấu tranh giai cấp”. Tuỳ vào tính chất, phạm vi nhân quyền trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau là khác nhau nghĩa là quyền con người phụ thuộc vào phương
thức sản xuất với quan hệ sản xuất quy định nên chế độ chính trị xã hội ấy.
-Tính giai cấp của quyền con người. Trong xã hội có giai cấp, có áp bức
giai cấp thì tự do cho giai cấp này là sự mất tự do của giai cấp đối lập. Trong xã
hội có giai cấp đối kháng thì nhất định khơng có sự bình đẳng. Sự bình đẳng chỉ
có trong nội bộ giai cấp cùng quyền lợi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa có sự đối

kháng bóc lột giai cấp thì tất nhiên quần chúng bị bóc lột khơng có nhân quyền.
Chỉ khi nào xã hội tiến bộ, ở xã hội ấy khơng cịn áp bức mọi người làm chủ tư
liệu sản xuất , xoá bỏ giai cấp thì tất yếu nhân quyền được thực thi đầy đủ.
Nhân quyền mang tính nhân loại sâu sắc.Bởi nhân quyền là cuộc đấu
tranh của toàn thể nhân dân lao động đập tan ách thông trị của phong kiến đế
quốc giành lại tự do cho chính mình, là giá trị nhân văn cao quý mà xã hội
hướng tới, giải phóng cá nhân con người để con người có điều kiện phát triển
nhân cách của mình. Điều đó khơng chỉ thực hiện ở một quốc gia, dân tộc mà
phải thực hiện trên toàn thế giới ở tất cả các quốc gia.
Từ những thuộc tính trên từ điển tiếng việt đã nêu nên định nghĩa nhân
quyền như sau: “quyền là lợi lộc được hưởng do điạ vị đem lại” quyền con
người là nhưng đặc quyền mà chỉ con người mới có mới được hưởng . Nhân
quyền là những giá trị gắn với mỗi con người với tư cách là cá nhân trong xã hội
nhất định Quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích
quốc gia dân tộc cộng đồng. Quyền con người đươc xã hội hoá bằng pháp luật
cụ thể, pháp luật ghi nhận các quyền của con người không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, giai cấp và phái phù hợp với chế độ chính trị, lịch sử , xã hội cụ thể. Chỉ
thơng qua pháp luật thì các quyền con người mới được khăng định và đảm bảo
thành hiện thực trong thưc tiễn.

11


Từ những phân tích trên ta có thể ghi nhận rằng: quyền con người là
những đặc lợi vốn có tự nhiên đạt được trong các quan hệ xã hội, đươc
pháp luật thừa nhận, mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều
kiện chính trị , kinh tê, văn hố nhất định.
II. NHỮNGTHÀNH TỰU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1.Thực trạng nhân quyền ở Việt Nam trước năm 1945.
Khi giai cấp ra đời, nhà nước ra đời, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị

thống trị. Giai cấp thống trị ln tìm cách bóc lột giai cấp bị trị đem lại lợi ích
phục vụ cho mình. Trong chừng mực nhất định có sự dung hồ giai cấp trong xã
hội thì khơng có đấu tranh giai cấp. Chỉ đến khi giai cấp thống trị bóc lột quá
mức nẩy sinh mâu thuẫn xã hội vi phạm quyền tối thiểu của con người khi đó sẽ
có đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho chính quyền sống của mình. Ở Việt Nam
trong xã hội phong kiến có phân tầng xã hội tuy không rõ ràng như ở các nước
phương tây nhưng trong xã hội có giai cấp ắt có đấu tranh giai cấp. Xã hội
phong kiến Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược 1858 chế độ phong kiến
trừ giai đoạn đầu thời Lý ,Trần, Lê phát triển thịnh đạt thì nhìn chung nhân đân
đựơc sống trong yên ấm. Xét trong một số văn ban pháp luật chiếu thư có đề cập
dến các quyền con người như:
Chiếu cấm mua bán nô tỳ năm 1499 của Lê Hiến Tông “từ nay trở đi cấm
dân không được cướp mua người Man và bn bán nơ tỳ. Ai vi phạm thì cho
phép hữu ty hoăc xét trị tội”1 quy định này ra đời trong khi nạn mua bán cướp
bóc nơ tỳ đang diễn ra có thể nói quy định này rất tiến bộ đã đề cập đến quyền
của con người – quyền tự do bình đẳng con người khơng phải là đồ vật mua bán
trao đổi ngoài xã hội . Nếu so sánh với điều 4 tun ngơn thế giới về nhân quyền
thì điêu quy định trên rất tương xứng “không ai bị giữ làm nô lệ hoặc bị nô
dịch, chế độ nô lệ hoặc bn bán nơ lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm”2
Văn kiện quốc tế về quyền con người.Trung tâm nghiên cưu vê quyền con ngươi.Nxb.Chinh tri quốc gia,HN
2004
22 3.
. Đại việt sử kí toần thư. Ngơ Sĩ Liên .t3. tr20.tr61.NXBKHXHNV.Hn
11

12


Năm 1511 chiếu về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền sở
hữu tài sản, nhân phẩm, danh dự của con người được ban hành quy định rõ: “…

trong thiên hạ có bọn gian phi, ác đảng vẫn mua bán tỳ thiếp xâm chiếm ruộng
đất của dân, cướp doạt tiền tài của dân, dánh đập lương dân, trêu ghẹo đàn bà
con gái ngang ngược hung bạo quấy nhiễu dân mọi. Những kẻ ấy thì cho người
bị hại và các xã phường, thôn trửơng áp giải đến tố cáo với các quan thừa hiến,
châu, huyện để tấu lên trị tội theo pháp luật nếu các quan không chịu xét hỏi thì
tấu lên bộ hình xét hỏi cả hai”3. Ngồi ra cịn một số chiếu chỉ, sắc lệnh về việc
cấm đánh đập người làm cơng, lính, thợ, chiếu chỉ đối đãi tù nhân. Những quy
định tiến bộ của chế độ phong kiến Việt Nam thời hưng thịnh đánh dấu bước
phát triển vượt bậc về vấn đề nhân quyền, quyền cơ bản nhất của con người
được chế độ phong kiến quan tâm quy định đúng đắn. Đó là điểm tiến bộ của
pháp luật phong kiến Việt Nam được thế giới đánh giá cao. Việc bảo vệ các
quyền cơ bản của con người được cha ông ta quan tâm thể hiện truyền thống
nhân văn trong việc đối xử với con người của dân tộc ta.
Quyền của con người được chế độ phong kiến Việt Nam đề cập sớm và
bước đầu thực hiện song nhìn chung chưa được phổ biến rộng rãi và kết quả đạt
được chưa cao do đó cịn hạn chế. Nhưng nhìn chung trong điều kiện lịch sử
thơìư bấy giờ có được tư tưỏng tiến bộ đó thật đáng trân trọng.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà
Nguyễn đã đầu hàng nhanh chóng dâng nước ta cho giặc. Chế độ phong kiến
Việt Nam xuống dốc, mâu thuẫn giai cấp nông dân- phong kiến thực dân đã ở
vào đỉnh điểm. Thực dân Pháp là kẻ thù xâm lược mới, là một nước tư bản chủ
nghĩa có quân đội mạnh nhà nghề, lại được trang bị vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại, có tiềm lực kinh tế mạnh. Bám lấy quyền lợi ích kỉ giai cấp
phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lại lợi ích của quốc
gia dân tộc bán nước ta cho Pháp.
Về kinh tế: Sau khi xâm chiếm hầu hết các tỉnh ổn định tình hình chính

13



trị, dẹp các cuộc bạo đọng khởi nghĩa thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai
thác thuộc địa béo bở Đơng Dương. Để bóc lột được lợi nhuận tối đa ở thuộc địa
Pháp thực hẹn chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động “duy trì
phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” 1 1 chính quyền thực dân đặc biệt coi
trọng thủ đoạn bóc lột phi kinh tế thời trung cổ, đó là chế độ thuế khố vơ cùng
nặng nề và hết sức vơ lí: thuế thân, thuế chợ, thuế đị, thuế cư trú, thuế đinh…
hàng trăm thứ thuế “tính bình qn mỗi người Việt Nam trong một năm phải
đóng thuế cho chính quyền thực dân số tiền ngang với số tiền công lao động của
họ từ hai đến ba tháng”2.
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chuyên
chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, chúng tuyệt
đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào. Thực dân Pháop thực
hiện chính sách chia để trị, chúng chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ cai trị
khác nhau, ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, việc đi lại giữa ba kỳ Bắc, Trung,
Nam phải xin giấy phép của chính quyền sở tại.
Về văn hoá: Thực dân pháp ra sức thực hiện văn hố nơ dịch, gây tâm lý
tự ti dân tộc, phát triển tơn giáo, mê tín dị đoan dể nmê hoặc, đem văn hoá phản
động đồi trụy để mê hoặc nhân dân ta. Chúng ngăn chặn mọi ảnh hưởng của văn
hoá dân chủ tiến bộ tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam. Thực hiện chính sách
ngu dân triệt để. Các quyền cơ bản của con người như quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đi lại…bị vi
phạm nghiêm trọng. Công nhân lao động bị đánh đập sa thải bất cứ lúc nào, phụ
nữ trẻ em bị xúc phạm về thân thể danh dự. Các văn bản ấn phẩm xuất bản bị
thực đan Pháp kiểm duyệt gắt gao chặt chẽ. Những tư tưởng tiến bộ, sách báo
nước ngoài bị cấm đoán…
Như vậy các quyền cơ bản nhất của con người bị chính quyền thực dân
vi phạm nghiêm trọng. Qua nghiên cứu các luật các sắc lệnh thời kỳ đó mới thấy
1 1, 2


Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Sự thật Hn 1984 t1tr27,tr32

14


con người Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến trước 1945 bị vi phạm
như sau:
Thứ nhất: Người Việt Nam khơng có quyền được sống trong độc lập tự
do. Những người yêu nước đấu tranh cho độc lập tự do đều bị đàn áp dã man
“những người cầm binh khí chống lại Đại Pháp đều bị tử hình”1.
Thứ hai: Quyền tự do lập hội, tự do hội họp của nhân dân của cá nhân bị
cấm đoán “phàm tụ họp một cách bí mật giấu khơng cho quan trên biết thì phạt
tù giam và tiền bạc. Những người hội trưởng , hay sáng lập bị phạt gấp đôi nặng
nhất là tử hình”2.
Thứ ba: Quyền tự do ngơn luận bị cấm đốn mọi người dân trong xã hội
đều khong có quyền tự do phát ngơn, khơng được nói những điều mình muốn
nói, bàn luận nhất nhất phải phục tùng quan trên. Nghiêm cấm tất cả các văn bản
giấy tờ, hình vẽ, thư từ …cấm các sách báo.
Thứ tư: Một số quyền con người như quyền bất khả xâm phạm thân thể,
quyền sở hữu tài sản đi lại, giao lưu…về mặt hình thức được pháp luật bảo vệ
nhưng trên thực tế quyền ấy của cơng dân khong được thực hiện mà có chăng
chỉ áp dụng trong tầng lớp trên của xã hội cịn quảng đại quần chúng gồng mình
trong nơ lệ đen tối. Điều đó được Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng xã hội Pháp họp tại Tua ngày 25-30/12/1920 : “Chúng tôinhững người dân An Nam khơng có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, ngay
cả quyền tự do hội họp cũng khơng có. Chúng tơi khơng có cả những quyền bất
khả xâm phạm về thân thể hoặc đi du lịch nước ngồi. Chúng tơi phải sống trong
cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”1.
2.Những thành tựu đạt được về nhân quyền ở Việt Nam sau cách
mạng thángTám 1945.
Cách mạng tháng Tám thành công. Một cuộc cách mạng thực sự làm

biến đổi về chất cho xã hội Việt Nam cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi tồn
Bộ hình luật Việt Nam thời Pháp thuộc .Nxb SàI Gịn (cũ)_1962.
Hồ Chí Minh tồn tập .Nxb CTQG. Hn_1995. t1 tr22.

11, 2
11

15


bộ đời sống, chính trị, kinh tế, văn hố cho nhân dân Việt Nam. Từ thân phận nô
lệ, thân phận của người dân mất nước phải sống trong tăm tối kìm kẹp, mất tự
do nay vươn lên làm chủ chính mình, làm chủ q hương đất nước mình. Từ đó
nhân quyền được thực hiện đầy đủ.
Thực tế chứng ming rằng muốn thực hiện được nhân quyền hay nhân
quyền không bị vi phạm chỉ khi nào con người sống trong độc lập tự do. Cách
mạng tháng Tám đã làm được điều đó.
Quyền được sống trong đọc lập tự do là quyền tự nhiên thiêng liêng mà
mỗi dân tộc, mỗi con người đều được bình đẳng và tơn trọng như nhau. Tun
ngơn độc lập của Mỹ 1776, Tuyên ngôn dân quyền và Nhân quyền của Đại cách
mạng tư sản Pháp 1789, Tuyên ngơn độc lập 1945 của Việt Nam do Hồ Chí
Minh soạn thảo đều khẳng định điều đó: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi”. Hồ Chí Minh đã thể hiện ý chí của tồn dân tộc “thà hi sinh tất cả
chứ nhất định không chịu mất nước khơng chịu làm nơ lệ” (1946) và “khơng có
gì quý hơn độc lập tự do”(1966).
Nước độc lập dân tự do nhân dân ta cùng Đảng, nhà nước bắt tay xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở chế độ chính trị đó con người được giải phóng,
nhân quyền được thực hiện đầy đủ đúng đắn nhất. Thực tế sáu mươi năm qua
chúng ta đã gặt hái được những thành tựu đặc sắc về nhân quyền trong các lĩnh
vực cụ thể như sau:

Về chính trị:
Biểu hiện cao nhất của chính trị là chế độ nhà nước. Nhân quyền trong
chính trị được thực hiện đầy đủ khi nhà nước đảm bảo những điều kiện thuận
lợi. Nhân quyền chỉ biểu hiện đầy đủ nhất khi nhà nước thực sự là nhà nước dân
chủ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng trong xã hội có giai cấp, có đối
kháng giai cấp, có đấu tranh giai cấp và chừng nào vấn đề này còn tồn tại thì
thực trạng dân chủ nhân quyền bị vi phạm, xem nhẹ. Bởi khi đó quyền lực của
giai cấp thống trị bao trùm chi phối xã hội. Nhân quyền trong thời điểm này có
16


biểu hiện thì chỉ ở dạng ý thức, ước mơ, khát vọng, lý tưởng của nhân dân lao
động mà thôi.
Nhân quyền muốn đảm bảo thì phải có nhà nước đứng ra can thiệp bảo vệ
lợi ích chung của nhân dân lao động. Bởi nhà nước là một thiết chế một cơ chế
chung để thực thi vấn đề nhân quyền. Nhà nước tồn tại hiện diện với tư cách là
cơ quan quyền lực, một tổ chức quyền lực thực thi chức năng quản lý xã hội.
Thông qua hiến pháp là công cụ là sức mạnh để điều chỉnh kiểm soát, cưỡng chế
hành vi xã hội trong đó thơng qua luật pháp vấn đề nhân quyền được thực thi.
Song không phải chế độ nhà nước nào cũng đảm bảo cho nhân quyền được thực
hiện. Nói cách khác khơng phải chế độ nhà nước nào cũng đảm bảo thực hiện
nhân quyền đầy đủ, cũng tôn trọng và thực hiện nhân quyền. Chỉ khi nào lợi ích
quốc gia dân tộc khơng nằm trong tay một nhóm người, giai cấp thống trị mà
thuộc về liên minh giai cấp thuộc về nhân dân lao động thì vấn đề nhân quyền
trong chính trị mới được thực hiện đầy đủ. Nước ta là nhà nước của liên minh
công- nơng –trí thức bao nhiêu quyền lợi là của dân bao nhiêu lợi ích là của dân.
Nhân dân là người làm lên nhà nước là người xây dựng đất nước. Quyền của
nhân dân tham gia chính trị là biểu hiện cao nhất của nhân quyền.
Sau khi giành lại được độc lập Hồ Chí Minh đã xây dựng nước ta theo

chế độ chính trị dân chủ cộng hồ nay là cộng hồ xã hội chủ nghĩa. Ở đó nhân
dân thực hiện nhân quyền của mình bằng việc đầu tiên là đi bỏ phiếu bầu người
lãnh đạo đất nước mình. Cuộc bầu cử 6/1/1946 đánh đấu mốc son đầu tiên trong
việc thực hiện nhân quyền về chính trị. Nếu trước đây nhân dân chịu sự áp đặt
lãnh đạo của thực dân phong kiến nay nhân dân làm chủ đất nước mình qua việc
bầu cử đại diện của giai cấp mình ra lãnh đạo đất nước. Trong cuộc bầu cử ấy
nhân dân có quyền ra ứng cử tham gia xây dựng đất nước Bác nêu rõ “trong
cuộc tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử,
hễ là người cơng dân thì có quyền đi bầu cử” 1 1 .Và từ đó đến nay quyền tham

11

Hồ Chí Minh toần tập. Nxb sự thật. Hn 1984 t4 tr72

17


gia bầu cử, ứng cử của nhân dân được pháp luật thừa nhận và luôn luôn thực
hiện đầy đủ nhất.
Bên cạnh quyền tham gia bầu cử, ứng cử trong vấn đề nhân quyền về
chính trị thì nhân dân cịn có quyền tham gia thực hiện quản lý xây dựng nhà
nước.Trong những năm qua, thực hiện cơ chế dân chủ nhân dân có quyền tham
gia xây dựng, quản lí nhà nước thơng qua chính sách dân biết, dân bàn, dânkiểm
tra đã phát huy tối đa quyền dân chủ của nhân dân trong chính trị . Nhân dân
đóng góp ý kiến xây dựng các luật, văn bản, đường lối ….được bàn bạc các
công việc chung của nhà nước mang lại quyền lợi thực sự cho nhân dân. Đây là
một bước tiến bộ quan trọng của thể chế chính trị nươc ta so với thời kì thực dân
phong kiến trước đó cũng như thể chế chính trị một số nước đương đại ngày
nay.
Từ sau cách mạng thángTám các quyền tự do hội họp, bàn luận , tham

gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào xây dựng các dự thảo luật, các bộ luật.
Nhân dân có quyền bàn bạc, tham gia, đánh giá…..qua mỗi đại hội Đảng, qua
mỗi kì họp quốc hội ….Đảng nhà nước đều mở những đợt sinh hoạt chính trị sâu
rộng trong quần chúng nhân dân, qua đó thu thập ý kiến nhân dân phát huy rộng
rãi quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao ý thức , quyền lợi của nhân dân.
Về kinh tế:
Cốt lõi của vấn đề nhân quyền trong kinh tế nằm ở lợi ích. Khi lợi ích
kinh tế của các giai cấp được điều hồ thì tức là quyền lợi của con người trong
kinh tế đựơc thoả đáng.
Biểu hiện của lợi ích trong lĩnh vực hoạt động lao động sản xuất qua các
quan hệ sở hữu, phương thức phân phối, hưởng thụ lợi ích ….là mọi người có
quyền như nhau được lao động, được làm việc và có việc làm. Đây là một trong
những quyền cơ bản của con người. Trong phạm vi quyền này con người phải
đươc đảm bảo cả những nhu cầu tồn tại và nhu cầu phát triển mọi năng lực sáng
tạo .

18


Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích và các quan hệ lợi ích kinh tế giữa con
người vời con người trong một chế độ kinh tế và một chế độ chính trị – xã hội là
giải quyết tốt nhân tố động lực của sự phát triển dân chủ kinh tế cũng như dân
chủ xã hội nói chung. Nó cũng đồng thời là điều kiện để thực hiện mặt kinh tế
của quyền con người và quyền cơng dân. Do đó việc xố bỏ áp bức bóc lột giữa
người với người cũng như viêc xoá bỏ cở kinh tế xã hội sâu xa đẻ ra tình trạng
đó (chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất) là q trình giải phóng kinh tế giải phóng
sản xuất, thực chất là giải phóng con người, xác định vị thế tự do của người lao
động trong lao động sản xuất.
Xác định được vị thế của người lao động trong phát triển kinh tế đất
nước giải phóng con người phát huy quyền làm chủ của người lao động là bản

chất tốt đẹp của chế độ ta . Khi cách mạng tháng Tám thành công Đảng nhà
nước ta mau chóng thục hiện đưa tư liệu sản xuất đến tay người lao động, giải
phóng chế độ tư hữu tư liệu sản xuất. Có tư liệu sản xuất trong tay, người lao
động tự do phát triển kinh tế.
Ngay trong cương lĩnh của Đảng, Bác xác định “thủ tiêu hết sản nghiệp
lớn của tư bản đế quốc, tập trung vào trong tay chính phủ cơng – nơng – binh
tịch thu ruộng đất đế quốc địa chủ chia cho dân nghèo” để nhân dân làm chủ tư
liệu sản xuất phát triển kinh tế.
Khi cách mạng thành công, Đảng Nhà nước ta thực hiện phát triển kinh
tế. Qua các cuộc cải cách ruộng đất 1954, 1957, 1965, cải cách công thương
nghiệp cho phép phát triển kinh tế nhiều thanh phần là bước đột phá ban đầu để
nhân dân phát trển kinh tế của chính mình, mang lại lợi ích cho chính mình .
Các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế được nhà nước thực hiện
ngày càng đầy đủ nhất là sau giai đoạn đổi mới 1986 với quan điểm giải phóng
hơn nữa sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa, đa dạng hố các hình thức sở hữu và các hình thức phân phối
lợi ích , gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội … đã là bước ngoặt cho
những chuyển biến thực sự về dân chủ nhân quyền trong phát triển kinh tế. Việc
19


đa đạng hoá các thành phần kinh tế đồng nghĩa với việc tạo thêm nhiều việc làm
mới, nhiều lĩnh vực làm việc, từ đó thực thi quyền có việc làm, quyền được làm
việc, được lựa chọn nghề nghiệp, được tự do sản xuất, kinh doanh trong khuôn
khổ pháp luật cho phép. Liên quan đến nó là các quyền tự do đi lại , tự do cư trú,
quyền có tài sản và được pháp luật bảo vệ có tài sản của cải do thu nhập chính
đáng tạo ra. Cùng với đó là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới mô hình kinh tế, cơ
chế quản lí kinh tế đã tạo ra sự phát triển mới mẻ, tích cực chưa từng thấy của
nền kinh tế hàng hoá. Kết quả sau hai mươi năm đổi mới 1986 – 2005 diện mạo
kinh tế đất nước thay đổi hoàn toàn đã chứng minh cho điền đó .

Trong những năm gân đây, việc cải tổ nền kinh tế quốc gia, tư hữu hoá
nền kinh tế cho phép tư nhân có thể tham gia vào kinh tế nhán nước. Việc coi
trọng phát triển kinh tế tư bản tư nhân (tôn vinh các doanh nhân) la bước tiếp
theo phát huy tính sáng tạo của nhân dân lao động trong phát triển kinh tế phát
huy quyền làm chủ tư liệu sản sản xuất của nhân dân lao động , quyền tham gia
các hoạt động kinh tế của nhân dân .
Những thành tựu về nhân quyền trong kinh tế là bước phát triển tiến bộ
thể hiện bản chất tốt đẹp cả chế độ xã hội chủ nghĩa tôn trọng người lao động
cũng như quyền làm chủ của họ, công bằng và bình đẳng mọi người đều được
hưởng quyền lợi như nhau trong tự do phát triển kinh tế. Những thành tựu ban
đầu cho thấy tính chất tốt đẹp và đúng đắn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đã lựa chọn và xây dựng.
Văn hoá tư tưởng:
Văn hố tư tưởng là mục tiêu quan trọng khơng thể thiếu trong việc thực
thi nhân quyền .
Học vấn và trình độ dân trí phổ biến của xã hội là yếu tố cấu thành trình
độ văn hố xã hội, và trình độ phát triển văn hố của xã hội .
V.I Lênin đã nhấn mạnh rằng “Người mù chữ đứng ngoài chính trị”.
Theo đó sự kém học vấn thiếu hiểu biết về trình độ khoa học kỹ thuật, tư duy
sáng tạo, lí luậncủa người lao động sẽ cản trở họ trong việc tham gia các công
20



×