Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

LUẬN VĂN: Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.79 KB, 38 trang )

LUẬN VĂN:
Những nhân tố bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở Việt nam


Lời mở đầu

Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, nước ta đã áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này trong điều kiện chiến tranh đã góp phần đắc
lực trong việc động viên nhân tàI vật lực phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, hồn
thành thắng lợi cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc,đánh đuổi quân xâm lược,dành lạI độc lập,
tự do cho nhân dân.
Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc, nước ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế Việt nam lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng: sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan
hiếm, giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân lao động ngày
càng đói khổ. Đứng trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực tìm tịi giảI
pháp đưa đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng, nâng cao đời sống của nhân dân.Sau
giai đoạn thử nghiệm đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của kinh tế tị trường đạt được
những kết quả khả quan, tạI đạI hội VI, Đảng ta đã chính thức khẳng định chủ trương
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường. Sau một thời
gian đổi mới, thực tiễn phát triển của nước ta đã chứng minh quyết định trên của
Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế Việt Nam thốt khỏi tình trạng bế tắc, khủng
hoảng, lạm phát giảm xuống, đới sống nhân dân đựoc cảI thiện. Tuy nhiên chủ nghiã
xã hội là mục tiêu cao nhất của trong sự nghiệp đấu tranh Cách mạng của Đảng và
nhân dân ta. Đổi mới kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường khơng có một mục tiêu
nào khác ngồI mục tiêu đó. Vì vậy Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị
trường không phảI là kinh tế thị trường như các nước khác mà là kinh tế thị trường
định hướng xà hội chủ nghĩa, tức là cơ chế thị trường nhằm đưa nước ta đI đến cáI
đích xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội


chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loàI người vừa gắn liền với đặc đIểm và
mục tiêu chính trị, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Cơ chế thị trường tuy có nhiều đIểm mạnh nhưng bản thân nó có nhiều khuyết tật
và những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội như xu thế phân


hố giàu nghèo q mức, vì lợi nhuận mà con người không từ mọi thủ đoạn chà đạp
lên đạo đức nhân phẩm..., và cơ chế thị trường có tính tự phát chuyển đổi lên tư bản
chủ nghĩa.Chính vì vậy để đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường ở Việt nam, cần xác định những nhân tố quan trọng đóng vai trị
đIều chỉnh nền kinh tế phát triển theo định hướng đã chọn. Từ đó đánh giá thực trạng
vai trị của những nhân tố đó để đưa ra những giảI pháp đúng đắn nhằm tăng cường
chức năng của các nhân tố đó nhằm phát triển kinh tế Việt Nam bền vững theo định
hưỡng xã hội chủ nghĩa.
Tơi xin trình bày đề án: “Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam” nhằm đưa ra một số ý kiến về vấn đề
này


I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN.
1. Kinh tế thị trường.
1.1. Khái niệm KTTT.
Trong lịch sử phát triển, nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức
kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người
sản xuất. Hình thức kinh tế này phổ biến trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ. Trong xã hội phong kiến nó tồn tại dưới hình thức kinh tế nơng dân gia trưởng và
các điền trang, thái ấp của địa chủ. Hình thức kinh tế này khép kín qua các q trình
kinh tế trong phạm vi một đơn vị sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, không mở rộng với các
đơn vị khác. Vì vậy nó mang tính chất bảo thủ, trì trệ.
Kinh tế hàng hố là sự phát triển kế tiếp của kinh tế tự nhiên trên cơ sở phát triển

của phân công lao động của kinh tế tự nhiên. Đó là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở
đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường. Hình thức đầu
tiên của nó là kinh tế hàng hố giản đơn. Đó là kiểu sản xuất mà sản phẩm do sản xuất
và sức lao đọng của bản thân, được bán, trao đổi trên thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời rất sớm, từ hình thức kinh tế hàng hố giản đơn và được
tồn tại nhiều phương thức sản xuất. Với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hoá phát triển hay kinh tế thị
trường. Như vậy, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hố, trong
đó tồn bộ các yếu tố “đầu vào” và “ đầu ra” của sản phẩm đều thông qua thị trường.
Ngày nay khơng ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường
trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội,
không ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trong trong
nhiều chế độ xã hội khác nhau.
1.2. Cơ chế thị trường:
Trong nền kinh tế trị trường, mọi yếu tố sản xuất, mọi hàng hoá đều có thị trường
của nó: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng tiêu dùng. Thị trường gắn
với lĩnh vực lưu thơng hàng hố, thị trường hình thành ở đâu có cung- cầu hàng hố, nói
đến thị trường là nói đến hàng hố, giá cả, tiền tệ, người bán, người mua.


Trên thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm. Các quy luật kinh tế vốn có
của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh... đều biểu hiện sự hoạt động của mình thơng qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận
động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và
cơ cấu nhu cầu của sản xuất ( tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (
tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Như
vậy, nền kinh tế thị trường có khả năng tự điều tiết do sự tác động của các quy luật vốn
có của nó. Người ta gọi cơ chế tự điều tiết đó là cơ chế thị trường. Nói một cách cụ thể
hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn
nhau của các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh... Trực tiếp phát huy tác dụng trên thị

trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường có những ưu đIểm và tác dụng mà khơng có một cơ chế nào
hồn tồn thay thế được: thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể
kinh tế, tạo đIều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế
phát triẻn năng động có hiệu quả. Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến
sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu
nhu cầu của xã hội. Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân nhiều sản
phẩm khác nhau. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hố sản
xuất. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối
ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển phân phối các yếu tố sản
xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của htị trường, chúng sẽ chuyển đến nơi được sử
dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà
nước và có khả năng thích nghi cao trước những điều kiện kinh tế biến đổi.
Tuy nhiên cơ chế thị trường khơng phải là cơ chế hồn hảo nên cũng có những
khuyết tật vốn có của nó: Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện sự cạnh tranh khơng
hồn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Thứ hai, do mục đích hoạt động của
các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội
gây ra ô nhiễm mơi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không
được đảm bảo. Thứ ba, phân phối thu nhập khơng cơng bằng, có những mục tiêu xã hội


dù cơ chế thị trường có hoạt động trơi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của
cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải tác động xấu
đến đạo đức và tình người. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều
tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất
nghiệp. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế
không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để
sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó người ta gọi là nền kinh tế hỗn
hợp.

2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN.
2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN.
Sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và phát triển cơ chế
kinh tế kế hoạch hố tập trung trong tồn quốc. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này cả
trong thời bình khơng những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ như mong
muốn mà trái lại, đưa Việt Nam tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái, khủng
hoảng. Tại đại hội lần thứ VI ( tháng 12 năm 1986) , Đảng CSVN đã đề xuất đường lối
đổi mới nền kinh tế với tinh thần cơ bản là: chính thức tuyên bố chuyển nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN mà sau này
tại đại hội IX của Đảng CSVN được gọi dưới tên” nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường khơng phải là sản phẩm riêng có của TBCN, nền kinh tế
thị trường vận động, tồn tại ở các nước XHCN và những nước đang trong thời kỳ quá
độ lên XHCN. Tuy nhiên KTTT định hướng XHCN có những điểm khác biệt căn bản
so với nền KTTT tư bản chủ nghĩa.


Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các cơng ty tư bản độc
quyền giữ vai trị chi phối sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong
nền kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN lại hoạt động trong sự đa dạng các quan
hệ sở hữu, trong đó chế độ cơng hữu giữ vai trị là nền tảng của nền kinh tế quốc dân,
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN địi hỏi trong
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước
và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn

sự phát triển kinh tế hàng hóa nhỏ và TBCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và
phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các
lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc
khơng muốn đầu tư vì khơng có hoặc ít lãi.
Thứ hai, về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước.
Trong cớ chế thị trường TBCN sự can thiệp của nhà nước ln mang tính chất tư sản và
trong khn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm đảm bảo môi trường kinh tế xã
hội thuận lợi cho sự thống trị của gia cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột
TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì
sự can thiếp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng
của toàn thể nhân dân lao động thực hiện mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quảnlý của nhà nước XHXN. Cơ chế đó bảo
đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới mục đích XHXN theo phương
châm nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường điều tiết doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở
cả hai mặt cơ bản: một là nhà nước XHXN là nhân tố đóng vai trị trung tâm và điều tiết
vĩ mơ nền kinh tế, hai là, cơ chế trị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng
vai trị trùng gian giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Thứ tư, là về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã
hôịi. Trong sự phát triển của kinh tế TBCN, vấn đề công bằng xã hội không bao giờ
được giả quyết triệt để. Mục đích của giải quyết các vấn đề xã hội chỉ là phương tiện để


chính phủ tư sản duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nhà nước chủ động giảI quyết ngay tư đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế
thị trường mà còn là mục tieu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị
trường định hướng XHXN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà còn
ở mức sống thực tế của mọi người đêù được nâng lên, y tế, giáo dục phát triển, đạo đức,

văn hố dân tộc được giữ gìn, mơi trường sinh thái được bảo vệ.
3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
Từ những đIểm khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng
XHCN đã nêu ở trên, ta thấy rằng đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là nền kinh tế thị trường vừa dựa vào những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên ngững nguyêt tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội
nhằm mục đích hướng tới chế độ XHCN. Việt Nam ta cũng chọn con đường đi lên
XHCN và thực hiện nền kinh tê thị trường, do đó cần phải tìm cách quản lý tốt nền
kinh tế đảm bảo cho nó đi đúng định hướng XHCN. Những nhân tố bảo đảm tính định
hướng XHXN của nền KTTT ở VN bao gồm: vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước và
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước.
3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước.
3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của
những quy luật vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh.., giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trị quuyết định đối với việc
phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Mặc dù cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng
nó vẫn có nhiều khuyết tật như đã trình bầy ở phần trước, cho nên hầu như tất cả các
nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa ở
một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”.Tức là cơ chế vận hành của nền
kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế trị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều
khác biệt trong cơ chế vận hành của nền kinh tế của nước ta là nhà nước quản lý nền


kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân
và vi dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Do đó chức năng của nhà nước ta trong
quản lý kinh tế bao gồm sửa chữa những thất bại của thị trường và đồng thời bảo đảm
cho nền kinh tế đi đúng quỹ đạo XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN. Cụ

thể bao gồm những chức năng sau:
*

Nhà nước phải có vai trị quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế đất

nước. Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế xã hội bao gồm nhiều loại trong
đó chủ yếu là: hoạch định chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát
triển. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống quan điểm cơ bản, các mục
tiêu dài hạn phát triển kinh tế xã hội và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách
có căn cứ khoa học trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực và lợi thế phát
triển của đất nước để đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình phát triển Đảng ta đã
xác định một hệ thống quan điểm bao gồm: 1. Phát triển nhanh và bền vững, 2. Xây
dựng nền tảng của một nước công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến
lược; 3. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động thực hiện hội nhập kinh tế song
phương và đa phương; 4. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách sâu rộng và đồng bộ cả
về kinh tế, xã hội và bộ máy hành chính nhà nước hướng vào giải phóng triệt để lực
lượng sản xuất, phát huy tới mức cao nhất sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc,
tạo động lực và nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh, bền vững, đảm bảo thắng
lợi trong hội nhập quốc tế; 5. Kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng an ninh, nhằm
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền an ninh của Tổ quốc. Sau đó nhà nước đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của
chiến lược. Các hoạt động khác bao gồm: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã
hội; Lập kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội 5 năm; Lập kế hoạch kế hoạch kinh tễ xã
hội hàng năm; xây dựng các chương trình quốc gia.
*

Nhà nước cung ứng hàng hố cơng cộng, những hàng hố và dịch vụ mà thị

trường không cung ứng hay cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội.Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế và các dịch vụ cơ sở hạ tầng xuất phát từ 3 lý

do:


-

Dịch vụ kết cấu hạ tầng có vai trị to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Cơ sở hạ tầng được xem là đIều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Sản xuất không thể
phát triển được nếu không được đảm bảo về nguồn nhân lực, giao thông, điện nước và
thông tin
-

Dịch vụ cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, thời gian thu hịi vốn dàI và

việc thu hịi vốn khó khăn, thường thu hồi gián tiếp mà ít thu hồi trực tiếp.
-

Dịch vụ cơ sở hạ tầng phần lớn là những hàng hố cơng cộng. Những hàng hố

này khơng được các nhà sản xuất tư nhân quan tâm vì lợi ích của người sản xuất ra nó ít
hơn nhiều sơ với lợi ích xã hội và vấn đề sử dụng khơng phải trả tiền của hàng hố cơng
cộng. Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển thuận lợi, Nhà nước tất yếu phải có trách
nhiệm cung cấp các dịch vụ hạng tầng cho xã hội.
-

Ngoài ra cung cấp các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, và các dịch vụ khác là

một trách nhiệm tối cao khác của Nhà nước. Nhà nước có thể cung cấp các dịch vụ này
bằng một trong hai cách: Một là cung cấp trực tiếp thông qua các doanh nghiệp hoặc cơ
quan sự nghiệp của nhà nước. Hai là nhà nước tạo điều kiện khuyến khích tư nhân trong

việc cung cấp kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội như trợ cấp cho các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ hạ tầng, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạn tầng,
dịch vụ xã hội. Tuỳ thuộc vào hiệu quả hoạt động mà nhà nước sẽ lựa chọn cách thức
nào.
*

Nhà nước cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và

vững chắc, không chỉ là hệ thống luật lệ và quy định mà còn bao hàm các định chế cần
thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao
gồm toà án và các cơ quan vưỡng chế thi hành luật. Trong các nền kinh tế thị trường,
phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Khi những luật lệ quy định quyền sở hữu
được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt động kinh
doanh thấp hơn và thị trường vận hành tốt hơn. Cụ thể, hệ thống pháp luật kinh tế do
nhà nước ban hành có những vai trị sau:
+

Pháp luật kinh tế xác định vị trí pháp lý của các tổ chức và đơn vị kinh tế. ở nước

ta pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng thể hiện đường lối, chính sách phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn theo đường lối phát triển kinh


tế thị trường định hướng XHCN. Bằng việc ban hành và thực thi một hệ thống pháp luật
về các loại hình doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật
hợp tác xã, địa vị pháp lý của các chủ thể kinh tế được xác định.
+

Bằng pháp luật kinh tế, Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh tế trên thị trường: xác


định hành vi nào là hợp lý, hành vi nào là phi pháp. Thông qua pháp luật kinh tế, nhà
nước khẳng định chức năng của mình đối với phát triẻn kinh tế trên cơ sở páht huy tính
tích cực của htị trường và hạn chế những tiêu cực có hại của nền kinh tế: hàng giả, hàng
lậu, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, huỷ hoại môi trường, tham nhũng...
+

Luật pháp về kinh tế là công cụ của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng là q trình hồn thiện quản lý nhà
nước về kinh tế. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
thì nhiệm vụ xây dựng, hồn thiện và thực thi pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quyết
định đến sự thành công của sự đổi mới kinh tế đất nước.
*

Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo

ra mơi trường khuyến khích cạnh tranh và một sân chơi bình đẳng cho mọi cá nhân, tổ
chức khơng phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu trong việc sử dụng các
nguồn lực phát triển, lựa chọn việc làm và tham gia vào các hoạt động kinh doanh là
một chức năng quan trọng khác của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ở tất cả các nước, khu vực tư nhân ln là động
lực chủ yếu của q trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một đặc điểm nổi bật của
nền kinh tế trong giai đoạn đầu của q trình chuyển đổi từ mơ hình kế hoạch hố tập
trung sang nền kinh tế thỉtường là tình trạng độc quyền, phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Vị trí độc quyền
của doanh nghiệp hầu hết do nhà nước quyết định theo phương thức hành chính như
cấm hoặc hạn chế các doanh nghiệp khác không được kinh doanh chứ khơng hình thành
nhờ hiệu quả kinh doanh thơng qua con đường tập trung, tích tụ vốn. Trong bối cảnh đó,
tự do hố thương mại và tự do gia nhập ngành, bãi bỏ hàng rào bảo hộ là những biện
pháp hữu hiệu để hạn chế sự bất công và phi hiệu quả gắn liền với độc quyền. Trong

thời kỳ quá độ lên CNXH, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu. Do đó
khơng chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là nền


tangr của chế độ xã hội mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế
độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị
kinh tế thuộc chế độ tư hữu, các đơn vị kinh tế thuộc chế độ cơng hữu, các hình thức
hợp tác liên doanh giữa trong và ngoàI nước... Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần
đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát
triển.
*

Nhà nước tạo mơi trường thuận lợi cho sự hình thành và páht triển đồng bộ các

loại thị trường như thị trường tài chính, thị trường hàng hố,dịch vụ, thị trường lao
động, thị trường bất động sản..nhằm giải phóng lực lượng sản xuất và thực hiện vai trò
tổ chức, quả lý để cho các loại thị trường này hoạt động theo quy luật vốn có. Trong
trường hợp một nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị
trường như Việt Nam, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các rào cản do
các chính sách của chính phủ tạo ra. Cần loại bỏ những méo mó của thị trường và xây
dựng nền tảng thể chế và pháp lý cho các thị trường ra đời và vận hành hiệu quả.
*

Nhà nước gắn phát triển kinh tế với giữ vững mơi trường văn hố xã hội ổn định,

nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ
tài nguyên môi trường sinh thái, thực hiện mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữa
tổ chức kinh doanh và mơi trường văn hố xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc
tạo ra môi trường văn hoá xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả hơn.

Thứ nhất là vấn đề việc làm,để giải quyết vấn đề việc làm , nhà nước cần có các
chương trình, chính sách nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập. Ví dụ như
khuyến khích phát triển nơng nghiệp và nơng thơn, phân phối lại thu nhập cho người
nghèo, tăng sức mua của chính phủ với hàng hố của các doanh nghiệp quy mô nhỏ, sử
dụng nhiều lao động, cải thiện sự linh hoạt về lương ở mức cao.Thứ hai là vấn đề công
bằng xã hội: công bằng xã hội là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa đồng thời là
động lực của phát triển kinh tế. Công bằng không thể dựa vào thị trường nên nhà nước
cần phải can thiệp nhằm tăng thu nhập làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng
hoặc giảm đi, đảm bảo cho mọi người chứ không phải là một số người được hưởng lợi
từ thành quả tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Nhà nước thực hiện vai trò đảm


bảo công bằng xã hội thông qua các giải pháp như: Phân phối lại thu nhập thông qua
thuế, đánh thuê thu nhapạ, tăng phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội, trợ giá cho hàng háo và
dịch vụ có ngoại ứng tích cực, đánh thúe đối với hàng hố dịch vụ có ngoại ứng tiêu
cực, điều tiết giá cả ( lương tối thiểu, lãi suất..), khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực...
Thứ ba, là vấn đề xố đói giảm ngheo: Đây cũng là mục tiêu và động lực của phát
triển kinh tế. Song thị trường không thể giải quyết tận gốc vấn đề này bởi lẽ phân phối
nguồn lực hiệu quả khơng có nghĩa là phân phối cơng bằng Do đó cần có sự can thiệp
của nhà nước nhằm giảm đói nghèo được thực hiện theo các hướng: phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, tín dụng cho người nghèo, giáo dục tiểu học phổ cập, thực hiện các
chương trình về cơng ăn việc làm, chương trình xố đói giảm nghèo, trợ cấp cho người
nghèo...
Thứ tư là củng cố và phát triển văn hoá, khắc phục những tiêu cực của xã hội. Nền
kinh tế thị trường phát triển, sự mở rộng hội nhập kinh tế vớic các nước đI liền với
những tệ nạn xã hội, sự tha hoá về nhân cách con người. Do đó nhà nước có nhịêm vụ
củng cố và phát triển nền văn hoá truyền thống, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn
định theo định hướng XHCN.
Cuối cùng là vấn đề bảo vệ môI trường sinh thái. Lý thuyết hiện đại đã khẳng định
thất bại của thị trường trong việc bảo vệ môi trường bắt nguồn từ thực tế là sản xuất tư

nhân gây ra tác động tiêu cực đối với môi trường và chi phí xã hội khơng được phản ánh
đầy đủ vào chi phí sản xuất nếu chỉ thơng qua các lực lượng thị trường. Do đó lượng ơ
nhiễm có khuynh hướng vượt quá mức “ tối ưu” hoặc các nguồn tài nguyên thiên nhiên
có thể bị khai thác qua mức, làm giảm tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Nhà nước
có thể can thiệp bằng cách đánh thuế mơi trường đói với các loại hàng hố, dịch vụ gây
ơ nhiễm mội trường, hoặc đặt ra mức xả thỉa và trừng phạt các doanh nghiệp vi phạm
bằng các biện pháp hành chính hoặc kinh tế. NgồI ra nhà nước cịn bỏ vốn đầu tư cho
các dự án cải tạo môi trường như trồng rừng, nạo vét sơng ngịi, hình thành các khu sinh
thái, xây dựng các hệ thống xử lý chất thải ..
*

Đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, giữ vững ổn định chính trị tạo thuận

lợi cho các hoạt động kinh doanh. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô làm giảm những biến
động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyển khích tăng trưởng bền vững lâu dài. ổn định


kinh tế vĩ mơ có ý nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng và phát triẻn kinh tế. Nó củng cố
lòng tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinht ế, nó tránh cho nền kinh tế
khỏi những cuộc khủng hoảng, suy thoái. Để ổn định kinh tế vĩ mơ, nhà nước có thể sử
dụng các biện pháp như: gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển, duy trì sự
cân đối giữa thu chi ngân sách nhà nước nhằm giữ cho lạm phát ở mức kiểm sốt được,
duy trì sự cân đối trong cán cân thương mại bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý,
tăng, giảm cung tiền để giảm hoặc tăng mức giá..
Ngoài chức năng ổn định kinh tế vĩ mơ, nhà nước cịn có chức năng giữ vững ổn
định chính trị, tạo mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển kinh tế. Muốn như thế
Đảng CSVN phải tăng cường vai trị lãnh đạo của mình, đồn kết tồn dân cùng tham
gia vào q trình phát triển kinh tế, xây dựng chế độ XHCN.
3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.

Những nội dung chủ yếu quản lý kinh tế của Nhà nước ta bao gồm:
-

Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Toàn bộ sự phát triển của nền kinh

tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triẻn kinh tế. Để xây dựng chiến
lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế -xã hội, xác định
rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ
hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
-

Kế hoạch: Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến

lựơc, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục
tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các
mục tiêu đó.
-

Tổ chức: Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch

đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách
nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí
cán bộ thích hợp.
-

Chỉ huy và phối hợp: nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể

khác nhau vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ
huy thống nhất ( điều chỉnh từ một trung tâm). Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ



quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thơng tin về các mặt để
điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuát xã hội , giải quyết kịp thời các
vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
-

Khuyến khích và trừng phạt: bằng các địn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần,

khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền
kinh tế thì được khuyến khích, ngược lại, khơng làm theo định hướng của kế hoạch, làm
hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam.
Để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế đã nêu ở trên, nhà nước Việt nam đã
sửa dụng những công cụ sau:
-

Hệ thông pháp luật: pháp luật thường được hiểu là hệ thóng các quy tắc xử sự có

tính chát bắt buộc chung ( quy phạm pháp luật) thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và
cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ nhằm mục tiêu bảo toàn và
phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. Trong thực tế có 2 loại văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế là văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh,
bảo vệ và giáo dục đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương pháp nhất
định. Thông qua việc thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trị quan trọng trong
quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được thể hiện ở các mặt cơ bản sau: Pháp luật tạo tiền đề pháp lý
vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế
quốc dân nhằm thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết

hợp hài hoà phát triển kinh tế với phát triển xã hôị và bảo vệ môi trường.
-

Kế hoạch: Kế hoạch là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm

tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch bao gồm các nội
dung: chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch dự án, ngân sách. Trong đó chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội là đường lối chung trong một thời gian dài ( ở nước ta
thường là 10 năm), quy hoạch phát triển kinh tế tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp
xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu không gian và thời gian, kế


hoạch trung hạn ( kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể
hoá các mục tiêu và các giảI pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Trong cơ chế vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì kế hoạch kết hợp với thị trường là hai
công cụ quản lý của nhà nước. Sự đIều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn
lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển
theo định hướng của kế hoạch.
-

Lực lượng kinh tế của nhà nước: Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các

công cụ pháp luật, kế hoạch hố, mà cịn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển
theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững. Nờ đó nhà
nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế, xã
hội do kế hoạch đặt ra.
-

Chính sách: Chính sách là một trong các cơng cụ chủ yếu mà nhà nước sử dụng để


quản lý nền kinh tế. Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện
các mục tiêu quan trọng trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển
kinh tế xã hội. Có hai nhóm: Chính sách kinh tế , chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách
tàI chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả..., và chính sách xã hội: chính sách dân
số, chính sách lao động và việc làm, chính sách giáo dục, chính sách bảo vệ mội
trường...Trong đó có hai loại chính sách quan trọng tác động trực tiếp đến nền kinh tế
được nhà nước sử dụng thường xuyên để điều tiết vĩ mơ nền kinh tế đó là chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh
hưởng quyết định đến sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước đIều chỉnh phân bố các
nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và
thực hiện các chức năng của mình. Nộ dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản
thu và khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn
khơng chỉ tạo thu cho ngân sách mà cịn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiều dùng.
Chính sách tiền tệ: là một cơng cụ quản lý vĩ mơ trọng yếu, vai trị của nó trong điều tiết
vĩ mơ ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chính sách tiền tệ phảI khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mơ cho tín
dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện đIều tiết


cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông
qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
-

Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế

đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu.
Thơng qua các cơng cụ đó, nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu , bảo hộ hợp lý sản
xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững được
độc lập , chủ quyền , bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.

3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước
Việc đề ra quan đIểm” thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng
với các thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”
là một trong những thành tự to lớn của đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII của Đảng
CSVN, nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà
nước ta về con đường đI lên CNXH cũng như các yếu tố cơ bản cấu thành nên nền kinh
tế đó. Tuy nhiên, hiện nay, trong giới hạn lý luận cũng như trong một số cán bộ Đảng
viên và quân chúng nhân dân, nhận thức về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nước vẫn chưa được thấu đáo, thậm chí một số người cịn chưa rõ thành phần kinh tế
nhà nước là gì, nó có giống với kinh tế quốc doanh trước đây khơng.
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất. Một số người cũng nhất trí cho rằng thành phần kinh tế nhà nước phảI dựa
trên sở hữu nhà nước, nhưng họ coi mọi sở hữu nhà nước, kể cả sở hữu trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp là thành phần kinh tế nhà nước. Quan niệm như thế là sai
lầm. PhảI phân biệt nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, kiểm soát nền kinh tế
theo các nguyên tắc của thị trường với Nhà nước là một lực lượng chính trị với các
phương tiẹn vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó. Chỉ có sở hữu nhà nước với
tư cách một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở
hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như thế, thành phần kinh tế nhà
nước bao gồm các yếu tố cấu thành:
-

Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN): Đây là các tổ

chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn đIều lệ hoặc cổ phần vốn góp chi phối,


được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty cổ phần, cơng ty TNHH. DNNN
có hai loại: Loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động cơng ích

khơng vì mục tiêu lợi nhuận . NgồI ra cịn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ
chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế: cầu,
đường, sân bay, bến cảng... loại này có xu hường chuyển hoá từng phần sang một hoặc
hai loại trên.
-

Yếu tố thứ hai là hệ thống tàI chính của Nhà nước. Ngày nay khi mà xu hướng mở

rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia, thì ở nước
ta do nhà nước có vai trị to lớn trong đảm bảo cơng bằng, nên tàI chính nhà nước trở
thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tàI
chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phảI doanh nghiệp nhà nước
để sinh lãI, cho vay tín dụng... Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi vốn
trở thành một trong những ngồn lực sản xuất chủ yếu thì một phần tàI chính nhà nước,
kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn.
-

Yếu tố thứ ba: là hệ thống dự trữ, tàI nguyên đất đai, vùng biển thuộc sở hữu nhà

nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển không phận
đều thuộc sở hữu nhà nước. Các bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dài.
Cũng có bộ phận đất đai, mặt biển, tàI nguyên, không phận.. Nhà nước cho thuê và có
thu nhập. Thu nhập đó có thể táI đầu tư, củng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho cơng
dân dưới hình thức nào đó. Dù mục đích sử dụng có thể khác nhau, song khơng phủ
nhận rằng sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà
nước thực sử là chủ thể kinh tế mạnh khơng chỉ có khả năng tham gia vào các q trình
kinh tế mà cịn có thể đóng vai trị đIều tiết, định hướng và kiểm sốt các q trình kinh
tế đó.
-


Yếu tố thứ tư: là hệ thống dịch vụ nhà nước.kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ

khơng thu phí. Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cảI chỉ tồn tại dưới
dạng vật chất hữu hình, ngày nay kinh tế học hiện đại cho rằng của cảI còn là những
dịch vụ với tư cách là hàng hố vơ hình nhưng có vai trị thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và làm tăng chất lượng của cuộc sống và cũng được tính vào GDP. Những
dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ hảI quan, dịch vụ thủ tục


hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm sốt, thị trường tiền, thị trường chứng
khoán, thị trường vốn. Với việc cung cấp các dịch vụ này, nhà nước có thể tác động vào
thị trường và qua thị trường tác động vào nền kinh tế. nhân tố này góp phầnlàm cho
tiềm lực kinh tế của nhà nước được nhân bội lên.
Tóm lại: Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước(DNNN), các sở hữu
nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của nhà nước
đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là hệ thống kinh tế
nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành : DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp.
3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam, mỗi thành phần đều có vai trị vị
trí và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế đất nước song do tính chất của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh thành phần kinh tế
nhà nước ( KTNN), KTNN làm chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần KTNN là vấn đề
có tính ngun tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN
với KTTT tư bản CN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định
KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một
chế độ xã hội đều có một sơ sở kinh tế tương ứng với nó, KTNN cùng với Kinh tế tập
thể tạo nên nền tảng cho chế độ XH mới – XHCN ở nước ta. Cụ thể, KTNN phảI giữ
vai trị chủ đạo trong nền kinh tế vì những lý do sau:
Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất,

là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây cần
phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hứu. Nhà nước - đạI diện cho toàn dân - là chủ sở
hữu tư liệu sản xuất, tàI sản cơng cộng cảu tồn dân.
Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống ccủa nền
kinh tế , do đó nó có khả năng, đIều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế
khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo huớng đã định.
Thứ ba, KTNN là lực lượng bảo đảm cho sựphát triển ổn định của nền kinh tế, là
lực lượng có khả năng can thiệp, đIều tiết hướng dẫn, giúp đỡ, và liên kết tạo đIều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.


Thứ tư, KTNN có thể tác động tới các thnàh phần kinh tế khác không chỉ bằng các
công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp thông qua những thiết chế
và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đạI tiên
tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước
và tự tích tụ để không ngừng táI sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, KTNN là lực lượng nịng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đơ thị
mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sỗng cịn
nhưng ít ai dám đầu tư vì địi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm.
3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
TạI đạI hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, nội dung vai trò chu đạo của thành
phần kinh tế nhà nước đã được khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả
KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI
quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng
phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện các chức năng đIều tiết và quản
lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Như vậy vai trò chủ đạo của thành phần
KTNN gồm những nội dung sau:
_


KTNN là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác

phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. KTNN có khả năng, đIều kiện về
mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các kế hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng,
cảI tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thơng, đIện, các cơng trình
cơng cộng khác phục vụ cho sản xuất và đời sống trong suốt quá trình cơng nghiệp hố,
hiện đạI hố đất nước, theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. KTNN có đIều kiện để đI đầu
trong việc tập trung nghiên cứu xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản
xuất những hàng hố mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có
nhu cầu và đem lạI lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng được nhiều lao động tạo đà cho
kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; đI đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật về nghiên cứu chế tạo, triển khai cơng nghệ mới, chuyển giao cơng nghệ truyền
thống đóng vai trò quyết định trong việc thăm dò và các thành phần kinh tế khác khai
thác tàI nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác


có hiệu quả tàI ngun , vừa bảo vệ mơI trường sinh thái. Kinh tế nhà nước còn là lực
lượng đI đầu trong việc đổi mới và nâng cao trình độn nănglực quản lý kinh tế, cả về
dổi mới trang thiết bị, cũng như cách tổ chức và phân phối, là tấm gương tiêu biểu cho
các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giảI quyết việc làm, thực hiện luật
Luật lao dộng, xố địi giảm nghèo...đI đầu trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia.
KTNN là lực lượng xung kích của nhà nước trong việc hìnhthành , xây dựng các trung
tâm kinh tế,văn hoá, xã hội và phân bố dân cư. Những trách nhiệm trên đây của KTNN
về thực chất là tạo nền tảng kinh tế - xã hội, định hướng nền kinh tế phát triển đúng
hưóng, hợp quy luật, nhanh và bền vững.
_

KTNN là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà nước đIều tiết và


quản lý vĩ mô nền kinh tế.Nhà nước cỉ có thể đIều tiết được nền kinh tế khi có trong tay
một tiềm lực kinh tếmạnh. KTNN chính là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra Iềm lực kinh
tế mạnh để nhà nước thực hiện yêu cầu đó. Trong KTNN, hệ thống, hệ thống doanh
nghiệp nhà nước là lực lượng chủ lực tạo ra tiềm lực vật chất của kinh tế nhà nước, có ở
những khâu trọng yếu cảu nền kih tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ
yếuvà tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố , phát triển
các bộ phận cấu thành hệ thống KTNN, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao
và bền vững. Bên cạnh hệ thống DNNN, kinh tế nhà nước còn có tiềm lực mạnh về
nguồn vốn từ ngân sách, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, đủ năng lực đầu tư vào kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp,
thực hiện các dự án phát triển khu dân cư... KTNN là lực lượng vật chất quan trọng nhất
để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát tiển ổn định,
bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong
nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường.
_ KTNN là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
Nhà nước sử dụng lực lượng kinh tế của nhà nước để đầu tư cho những ngành, những
khu vực, những cơng trình kinh tế trọng đIểm, tạo “đầu tàu” kéo nền kinh tế của từng
ngành, vùng phát triển đI lên; tập trung xây dựng các khu vực kinh tế trọng đIểm, cá
khu công nghiệp với vự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế,


khả năng về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng địa bàn, vùng, miền cả nước.
KTNN còn được sử dụng chủ yếu vào thực hiện các chương trình giảI quyết việc làm,
vay vốn xố đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi trọc...góp phần giảI quyết cơng ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân tầng xã hội do cơ chế thị
trường gây ra.
II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở
nước ta
1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta

ĐạI hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt lớn trong lịch sử kinh
tế nước ta, lần đầu tiên chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung kế hoạch hoá
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đề ra. Sau khi đề ra chủ
trương đúng đắn, nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khơng ngừng tìm tịi học
hỏi cách quản lý kinh tế thị trường ở các nước khác đồng thời vận dụng một cách sáng
tạo vào nền kinh tế của trong nước nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nó. Nhờ đó Kinh tế Việt Nam vượt qua được một giai đoạn thử thách gay go, thu được
những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. GDP liên tục tăng với tốc độ cao, xuất khẩu
tăng, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng lên, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Nhà nước ta đã nhận thức rõ các công cụ quản lý kinh tế và vận dụng chúng một
cách linh hoạt trong từng hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời khơng ngừng bổ sung hồn
chỉnh hệ thống pháp luật, và liên tục sửa đổi cho phù hợp với đIều kiện hoàn cảnh mới.
Nhiều bộ luật mới được ra đời như Luật doanh nghiệp, luật thương mạI, luật đầu tư,vv..
làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Để phát triển kinh tế trong đIều kiện nguồn vốn trong nước thiếu, nhà nước ta thực
hiện chiến lược kinh tế mở nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cụ thể là
vốn ODA và vốn FDI. Những hoạt động cụ thể là cho ra đời các chính sách thu hút đầu
tư, tạo mơI trường đầu tư thơng thống, đơn giản hố thủ tục đầu tư, xây dựng Luật đầu
tư nước ngoàI vv..Kết quả là vốn đầu tư vào Việt Nam liên tục tăng, nhiều khu cơng
nghiệp được xây dựng góp phần tăng GDP và tạo công ăn việc làm cho nhiều lao


động.Hiện nay có hơn 4500 doanh nghiệp đầu tư nước ngồi đã thành lập và hoạt động
tại Việt Nam, ln có tốc độ tăng trưởng cao, năm 2004 đóng góp khoảng 16% vốn đầu
tư phát triển của xã hội, gần 10% GDP và ngân sách nhà nước.
NgoàI ra trong những năm qua, nhà nước ta đã hoàn thành tốt chức năng bảo đảm
ổn định chính trị xã hội, tạo mơI trường hồ bình để nền kinh tế phát triển bền vững.
1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng quản lý kinh tế của nhà nước ta vẫn

còn tồn tạI nhiều yếu kém.
Trước hết là hệ thống pháp luật tuy đã liên tục được sửa đổi và hồn chỉnh nhưng
vẫn chưa đầy đủ và cịn nhiều sai sót. Tình trạng gian lận thương mạI, cạnh tranh bất
bình đẳng có xu hướng gia tăng và tinh vi phức tạp hơn vì quy định của pháp luật chưa
đầy đủ và việc thực thi pháp luật chưa nghiêm. Hiện nay chúng ta có 4 luật là luật doanh
nghiệp nhà nước(sửa đổi), luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật hợp tác xã (sửa đổi) trong
đó vẫn thể hiện sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Các chính sách đầu tư,
vốn vay chưa khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn dành sự ưu ái đặc biệt cho
doanh ngiệp nhà nước. Một số lĩnh vực kinh tế còn thiếu các quy định cụ thể của pháp
luật nên hoạt động thiếu hiệu quả.
Chức năng quản lý các thị trường đặc biệt là thị trường hàng hoá dịch vụ cịn nhiều
khiếm khuyết. Danh mục hàng hố, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá, quản lý bằng hạn
ngạch hoặac giấy phép tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều so với các nước khác. Hơn thế
nữa, trong khơng ít trường hợp độc quyền nhà nước đã trở thành độc quyền doanh
nghiệp nhà nước. Nguyên tắc doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
được tự do kinh doanh theo pháp luật trong tất cả các ngành nghề má pháp luật không
cấm tuy đã được xác lập bằng các quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, luật
thương mạI), nhưng thực tế vẫn tồn tạI khơng ít những trở ngạI do cơ chế xin cho và và
do cách nghĩ, cách làm cũ vẫn còn tồn tạI ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức
trong cơ quan công quyền. Hiện tượng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa
phương, theo ngành, theo thành phần kinh tế tuy về cơ bản đã được loạI trừ, nhưng
không phảI đã chấm dứt hồn tồn. Luật Cạnh tranh và kiểm sốt độc quyền có vị trí
quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo cho thị trường phát triển có


trật tự, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Tuy nhiên đến nay dự án luật này tuy đã được
Quốc hội thơng qua nhưng chưa có hiệu lực thi hành.
Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua tuy đã được tiến hành nhưng kết
quả vẫn chưa được bao nhiêu, thủ tục hành chính vẫn cịn rườm rà, cửa quyền.
Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng nhanh nhưng nhà nước ta

chưa kịp thời chỉ ra phương hướng đổi mới kinh tế hợp tác, quản lý kinh tế hợp tác còn
sơ hở, việc thành lập doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gắn liền với các dự án đầu tư lại
bị giới hạn về thời gian hoạt động và hình thức đầu tư (liên doanh, hợp đồng hợp tác
kinh doanh, 100% vốn nước ngoài), doanh nghiệp đầu tư nước ngồi chỉ được tổ chức
hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn với nhiêù quy định đặc thù trái
với các nguyên tắc của kinh tế thị trường như: về vốn, về nguyên tắc biểu quyết và các
thủ tục khác.
1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước ta còn tồn
tại là do nhiều nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quyền. Nguyên nhân
khách quan là sự phá hoại của các thế lực thù địch và chèn ép về thương mại của các
nước có thế lực kinh tế và chính trị mạnh.Nhưng ngun nhân chính vẫn là nguyên nhân
chủ quan. Thứ nhất là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành chưa lâu, trong khi
đó nền kinh tế kế hoạch hố lại tồn tại một thời gian dài và đã khắc sâu trong tư tưởng
của một thế hệ. Vì vậy đội ngũ quản lý kinh tế trong nhà nước chưa bắt kịp với sự đổi
mới, vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách nghĩ, cách làm cũ. Thứ hai là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thể chế kinh tế xuất hiện lần đầu tiên trong lịch
sử, nó sử dụng cơ chế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa để xây dựng XHCN. Vì vậy
về lý luận cũng như nội dung quản lý kinh tế của nhà nước nhằm giữ cho nền kinh tế
phát triển ổn định theo định hướng XHCN cần được thử nghiệm và tổng kết. Q trình
đó tất yếu phải có nhiều lần thất bại và cần có thời gian. Một nguyên nhân quan trọng
khác là sự suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ,
công chức trong bộ máy nhà nước ta gay nên tệ nạn quan liêu, tham nhũng. Trong đó
nạn tham nhũng đang ở tình trạng đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nước ta vẫn có thể coi là


một nước nghèo nhưng lại là một trong những nước có tỉ lệ tham nhũng cao nhất thế
giới.
2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Như đã trình bày ở phần trước,thành phần KTNN bao gồm 2 bộ phận cấu thành:

DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng
vai trị chủ đạo của KTNN.Vai trị chủ đạo của DNNN thể hiện ở chỗ duy trì tỷ trọng
tương đối lớn trong những cân đối then chốt về sản lượng chủ yếu, cân đối ngoạI tệ, nộp
ngân sách. Vai trò nêu gương dẫn dắt cảu DNNN thể hiện ở hiệu quả kinh tế, tiến bộ
công nghệ, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của DNNN trong từng ngành và
trong q trình hội nhập. Vì vậy trong vai trị chủ đạo của thành phần KTNN, hiệu quả
sản xuất, kinh doanh của DNNN đóng vai trị hết sức quan trọng.
Trong những năm vừa qua, DNNN đã có những bước tiến mới phát triển và ngày
càng hoàn thiện. Những mặt làm được của DNNN như hội nghị TƯ 3 khoá IX đã đánh
giá:” DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của
nền kinh tế, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo ổn định và phát triển
kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước. DNNN chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản
phẩm trong nước, trong tổng thu nngân sách, kim ngạch xuất khẩu và cơng trình hợp
tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã
hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ cơng ích thiết yếu
cho xã hội, quốc phịng, an ninh. “ Theo kết qủa đIều tra doanh nghiệp tính đến ngày
1\1\2004 cho thấy DNNN chiếm 8,5% số lượng doanh nghiệp cả nước và 48,5% lao
động, 62,1% về nguồn vốn, 57,5% về doanh thu và 52,6% về nộp ngân sách. Hệ thống
DNNN đã tạo ra được một lực lượng vật chất cần thiết cho việc tác động chi phối và
hợp tác trong thực hiện cân đối chủ yếu của nền kinh tế, ngày càng khẳng định vai trò
nòng cốt, dẫn dắt, lôI cuốn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác hoạt động hướng vào
mục tiêu chung do nhà nước dề ra .
Tuy nhiên, bên cạnh những kết qủa nêu trên, DNNN hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, yếu kém:
_ Số DNNN kinh doanh bị lỗ còn chiếm tỉ trọng cao, trong khi tỉ trọng vốn đầu tư vào
DNNN là cao nhất (chủ yếu là vốn từ ngân sách nhà nước). Năm 2004, số DNNN có lãI


×