Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tieu luan cao học, cách mạng khoa học công nghệ – vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.48 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang
diễn ra mạnh mẽ. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, tốc độ đổi mới nhanh
trong khoa học và công nghệ cùng với lượng tri thức tăng nhanh trở thành
nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội. Những thành tựu to lớn
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy
nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi
sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Tại Đại hội lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta
khẳng định: “Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cùng với xu
thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là thời cơ thuận lợi để phát triển,
đồng thời cũng là thách thức gay gắt đối với các nước nhất là những nước
còn chậm phát triển về kinh tế như nước ta”. Đồng thời Đảng ta cũng
khẳng định: “Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nước ta nhất thiết phải dựa
vào và bằng khoa học và công nghệ”. Tuy nhiên nền khoa học và công
nghệ ở nước ta phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có,
chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, chưa
gắn chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, còn thua kém so với
nhiều nước trong khu vực.
Chính vì vậy mà thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng
xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển khoa học và công nghệ nhằm
đẩy mạnh tốc độ phát triển khoa học và công nghệ, tạo ra những tiền đề
vững chắc để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta đến năm
2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Đại
hội IX của Đảng đã đề ra.
Do đó để thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp vào
1



khoảng năm 2020 thì địi hỏi phải đẩy mạnh việc áp dụng những thành tựu
khoa học và công nghệ vào sản xuất và đồng thời phát triển khoa học và
công nghệ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

2


I. CÁCH MẠNG KHOA HỌC CƠNG NGHỆ – VAI TRỊ CỦA NÓ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI.

1. Cách mạng khoa học và công nghệ.
Trong nhiều thế kỷ trước đây, khoa học phát triển một cách độc lập
so với kỹ thuật và cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chúng mới có
quan hệ mật thiết với nhau. Vào nửa thế kỷ XX, khoa học đã vượt lên và
giữ vị trí chủ đạo trong dây truyền “Khoa học – kỹ thuật – công nghệ –
sản xuất”. Từ đó trong nền kinh tế – xã hội đã diễn ra quá trình biến khoa
học thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thể hiện không chỉ ở vai trò của
khoa học ngày càng được tăng cường trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội tiến lên một bước phát triển mới. Người ta gọi đây là cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ ba hay là cách mạng khoa học và công
nghệ.
Cuộc cách mạng này là một quá trình đột biến diễn ra dưới tác động
nhảy vọt có tính dây chuyền trong tất cả các yếu tố của lực lượng sản
xuất.
Từ đối tượng lao động công cụ lao động hệ thống các kết cấu hạ
tầng vật chất cho nền sản xuất đến người lao động đều diễn ra sự biến đổi
có tính bùng nổ. Cách mạng khoa học và cơng nghệ đang làm biến đổi có
tính căn bản toàn bộ nền sản xuất – xã hội dựa trên bốn ngành trụ cột:
1. Công nghệ sinh học, môn khoa học về sự sống với ba thành tựu
khoa học và công nghệ: giải 3.3 tỷ mã di truyền để hồn thành bản đồ gen

con người nhân bản vơ tính thành công ở cừu đôli. Kết hợp thành công
sinh học và tin học tạo ra ngành liên kết – tin học.
2. Công nghệ vật liệu với thành công lớn trong việc tạo ra các dạng
vật liệu có tính năng vượt trội những tính năng sẵn có trong các vật liệu tự
nhiên như: gốm công nghiệp, siêu dẫn Nano…

3


3. Công nghệ năng lượng với những tiến bộ to lớn trong lĩnh vực an
tồn để sử dụng có hiệu quả năng lượng nguyên tử, năng lượng nhẹ, năng
lượng sạch lấy từ mặt trời và các sản phẩm sinh học.
4. Cơng nghệ thơng tin với sự bùng nổ nhanh chóng trong cơng
nghệ người máy, vi tính, Internet… tạo điều kiện vật chất để chuyển nền
sản xuất công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Những cuộc cách mạng
này trước hết làm thay đổi cơ bản những yếu tố vật chất có tính truyền
thống của lực lượng sản xuất, tạo ra các yếu tố mới về nguyên tắc dẫn tới
những dịch chuyển sâu sắc trong cơ cấu kinh tế của nền sản xuất vật chất,
trong tổ chức và quản lý nền kinh tế – xã hội, tạ nên một hệ thống công
nghệ mới về chất so với những hệ thống sản xuất và công nghệ của hai
cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
1.1. Về nội dung thuật ngữ “khoa học” và “cơng nghệ” tuy cịn
nhiều ý kiến khác nhau về chi tiết, nhưng đều giống nhau ở nội dung
cơ bản. hầu hết các nhà khoa học đều nhất trí rằng: thuật ngữ “khoa
học” và “công nghệ” gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Khoa học là hệ thống các tri thức của nhân loại về các quy luật vận
động và phát triển khách quan của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy của
con người. Đó là một loại hình hoạt động tư đặc thù nhằm đạt tới những
loại hình hoạt động tư duy nhằm đạt tới những hiểu biết mới và vận dụng
những hiểu biết đó vào sản xuất và đời sống trong những điều kiện kinh

tế, văn hố và xã hội nhất định.
- Cơng nghệ là tổng thể các kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương
pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ
quản lý. Trước đây, người ta thường dùng khái niệm kỹ thuật với ý nghĩa
là công cụ, giải pháp, kiến thức được sử dụng trong sản xuất. Qua hoạt
động thực tiễn đã xuất hiện khái niệm công nghệ đầu tiên với ý nghĩa rất
hẹp. đó là tuần tự các giải pháp kỹ thuật trong một dây truyền sản xuất.
4


Khi việc vận dụng các tri thức khoa học càng phổ biến thì ý nghĩa của
khái niệm cơng nghệ được mở rộng và hoàn thiện. Các tổ chức quốc tế và
đa số các quốc gia chấp nhận các khái niệm về công nghệ là sự tổ hợp bốn
nhân tố cơ bản: TIHO gồm: bộ máy máy móc thiết bị (gọi tắt là T Technoware): bộ phận thong tin (gọi tắt là I – Tnfoware) và bộ phận tổ
chức (gọi tắt là O – Organware), Mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ bất kỳ
đều đòi hỏi phải sử dụng đồng thời bốn thành tố trên, vì mỗi thành tố có
vai trị và chức năng riêng của mình trong hoạt động tác nghiệp. Những số
liệu thống kê cho thấy, nếu áp dụng riêng rẽ một trong bốn thành tố trên
thì xác xuất thành cơng chỉ đạt 20%-30% cịn kết hợp cả bốn thành tố
trong tác nghiệp, xác suất thành cơng có thể đạt 70-75% hoặc cao hơn.
Tuy nhiên, khi xét khoa học, cơng nghệ trong một q trình vận đọng biến
đổi và tác động như một nhân tố năng động nhất trong lực lượng sản xuất
thì nó có vai trị như một cuộc cách mạng thúc đẩy xã hội phát triển.
- Cách mạng khoa học và cơng nghệ là q trình biến đổi những yếu
tố trong lực lượng sản xuất của xã hội được thực hiện nhờ vai trò dẫn
đường của khoa học trong chu trình khép kín: “Khoa học – công nghệ –
sản xuất xã hội – con người - môi trường”.
1.2. Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ.
Thứ nhất, sự vượt lên trước cả khoa học so với kỹ thuật và công

nghệ. Trong quá trình này sự đột phá bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học
và sau đó là cách mạng cơng nghệ, từ đó đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật –
cơng nghệ. Đến lượt đó, sự tiến bộ của cách mạng cơng nghệ lại thúc đẩy
khoa học phát triển nhanh hơn nữa và dựa vào khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, các thành tố riêng biệt TIHO tác động trong quá trình sản
xuất trực tiếp được kết hợp lại một cách hữu cơ với nhau thành một hệ
5


thống và xuất hiện như một giải pháp công nghệ mới về nguyên tắc tác
động, nhờ đó mà tạo ra một cuộc cách mạng thực sự trong công nghệ sản
xuất.
Thứ ba, các chức năng của người lao động thể hiện trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất từng bước được thay thế, từ lao động cơ bắp là
chủ yếu sang lao động trí tuệ. Trong q trình này vai trị của lao động
sống chuyển từ vị trí trực tiếp sang vị trí gián tiếp là chủ yếu, nhờ đó mà
khơng chỉ đạo lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm được máy móc
thay thế, thậm chí lao động tư duy giản đơn cũng được máy móc đảm
nhận. Chính vì vậy hàm lượng lao động trí tuệ kết tinh trong hàng hoá
chiếm tỷ trọng cao.
Thứ ba, tạo ra một bước ngoặt trong toàn bộ hệ thống các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, mà hạt nhân là máy móc với tư cách là một hệ
thống đầy đủ của bốn yếu tố máy động lực, hệ thống truyền lực, máy cơng
tác và bộ phận tự điều khiển. Nhờ đó đã nâng cao đáng kể năng suất và
hiệu quả của nền sản xuất xã hội, tác động một cách sâu sắc và tồn diện
tới phân cơng lao động trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Đây là giai
đoạn phát triển và biến đổi về chất của nền sản xuất xã hội trên cơ sở
những tư tưởng tiên tiến về khoa học và công nghệ, cũng như của các quy
luật và các hình thái vận động vật chất khác nhau được phát hiện ra.

2. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế – xã hội.
Khoa học và công nghệ là một bộ phận nguồn lực khơng thể thiếu
được trong q trình phát triển kinh tế – xã hội. Có thể khái qt vai trị
của khoa học và công nghệ như sau:
2.1. Mở rộng khả năng sản xuất của nền kinh tế.

6


- Dưới tác động của khoa học và công nghệ, các nguồn lực của sản
xuất được mở rộng.
+ Mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và đưa vào sử dụng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, kể cả tài nguyên tái sinh và khơng tái sinh.
Ví dụ: Những phát hiện về năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời,
năng lượng địa nhiệt có thể thay thế cho năng lượng truyền thống đang bị
cạn kiệt dần.
+ Làm biến đổi chất lượng nguồn lực lao động theo hướng tiến bộ.
Cơ cấu của lao động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang
lao động phức tạp (có kỹ thuật) bằng máy móc với sự phát triển của lao
động trí tuệ là chủ yếu, nhờ đó năng suất lao động tăng lên.
+ Khoa học và cơng nghệ cịn mở rộng khả năng huy động, tập
trung di chuyển các nguồn vốn một cách an tồn, chính xác và kịp thời. Vì
vậy, hiệu quả sử dụng vốn tăng lên, sản xuất phát triển. Khả năng này
được thực hiện thơng qua q trình hiện đại hóa các tổ chức trung gian tài
chính, các hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải…
- Khoa học và công nghệ tạo điều kiện tạo điều kiện chuyển chiến
lược phát triển kinh tế theo chiều mở rộng sang chiều sâu.
Phát triển kinh tế theo chiều rộng là sự tăng trưởng kinh tế nhờ vào
việc gia tăng các yếu tố đầu vào của sản xuất, bao gồm vốn, lao động và

tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác nhanh các yếu tố nguồn lực nói
trên, tất yếu sẽ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thối mơi
trường sinh thái.
Khoa học và cơng nghệ phát triển với sự ra đời của các công nghệ
mới (vật chất mới, công nghệ sinh học, công điện tử, tin học, viễn
thông…) đã làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang
phát triển theo chiều sâu, tức là hiện tăng trưởng kinh tế dựa vào trên cơ
sở nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.
7


Với vai trị này, khoa học và cơng nghệ là phương tiện để chuyển
nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế tri thức, trong đó phát triển nhanh
các ngành cơng nghệ cao và sử dụng nhiều lao động trí tuệ là đặc tính nổi
bật.
2.2. Thúc đẩy qua trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thì khoa học và cơng nghệ có vai trò đặc biệt quan
trọng. Sở dĩ như vậy là vì sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ không chỉ đẩy mạnh tốc độ phát triển của các ngành, mà cịn làm cho
phân cơng lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc và đưa đến sự phân
chia các ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó, làm thay đổi cơ cấu, vị
trí giữa các ngành, hay thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng:
- Tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp cũng biến đổi theo
hướng ngày càng tăng mạnh, quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lượng
kỹ thuật, cơng nghệ cao. Vai trị của lao động trí tuệ trong các ngành kinh
tế ngày càng được coi trọng và trở thành đặc trưng của sự phát triển khoa
học và công nghệ.

2.3. Tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, thúc đẩy phát triển kinh
tế thị trường.
- Đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Trong kinh tế hàng hoá, mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là
tối đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy, họ phải tìm đến sản xuất những mặt hàng
có nhu cầu lớn, tối thiểu hóa chi phí các yếu tố đầu vào, nâng cao chất
lượng sản phẩm, cải tiến hình thức mẫu mã hàng hố… Những mục tiêu
trên chỉ thực hiện vào sản xuất kinh doanh.

8


Việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất không chỉ
tạo ra lơi thế cạnh tranh, mà cịn tạo ra nhiều loại sản phẩm mới, vì thế
quy mô sản xuất của doanh nghiệp được mở rộng, sức cạnh tranh về hàng
hoá của doanh nghiệp tăng thêm.
Vai trị của khoa học và cơng nghệ càng được đặc biệt coi trọng khi
nền kinh tế hàng hoá chuyển từ việc sản xuất sản phẩm, mà tỷ trọng tài
nguyên thiên nhiên và lao động cơ bắp chiếm ưu thế, sang hàm lượng
công nghệ cao và lao động chất xám chiếm ưu thế.
- Đối với nền kinh tế thị trường.
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ làm cho:
+ Các yếu tố đầu vào của nền kinh tế như sức lao động, tư liệu sản
xuất càng hiện đại và đồng bộ hóa.
+ Quy mơ của sản xuất ngày càng được mở rộng, thúc đẩy sự ra đời
và phát triển các loại hình thức doanh nghiệp mới, nhất là cơng ty cổ
phần.
+ Tạo ra tính chất của nền kinh tế thị trường với đặc trưng tốc độ
cao trong tất cả các hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
+ Thay đổi chiến lược kinh doanh từ hướng nội, thay thế nhập khẩu

sang hướng ngoại, hướng vào xuất khẩu, từ thị trường trong nước ra thị
trường thế giới – tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Hiện nay, các nước đi đầu về khoa học và công nghệ không chỉ có
ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường thế giới, mà cịn có ưu thế về xuất
khẩu tư bản, chuyển giao khoa học và công nghệ sang các nước khác.
2.4. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khoa học và công nghệ không chỉ tạo ra công cụ lao động mới, mà
còn ra phương pháp sản xuất mới. Điều này mở ra khả năng mới về kết
quả sản xuất và tăng năng suất lao động. C.Mác dự đoán: đến giai đoạn
công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có thực sự khơng phụ thuộc vào tình
9


trạng chung của khoa học và sự tiến bộ của kỹ thuật hay sự vận dụng khoa
học vào sản xuất.
Kinh tế học hiện đại khi phân tích đóng góp của các nguồn lực vào
tốc độ tăng trưởng kinh tế đã cho rằng, khoa học và công nghệ là biến số
quan trọng nhất. Hiện nay phần đóng góp của khoa học và công nghệ vào
tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển đã đạt tới 60-70%, còn ở các
nước đang phát triển cũng ở mức 30-40%.
Khoa học và công nghệ khơng chỉ là thước đo đánh giá trình độ
phát triển kinh tế của mỗi nước, mà cịn trở thành cơng cụ làm biến đổi
sâu sắc bộ mặt văn hoá, giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
II. SỰ CẦN THIẾT VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM.

1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ.
1.1. Yêu cầu sớm thốt khỏi tình trạng khoa học và cơng nghệ tụt
hậu, kém phát triển, ít gắn bó với sản xuất và đời sống.
Gần 20 năm đổi mới, khoa học và cơng nghệ Việt Nam bước đầu có

sự chuyển biến tích cực. Khoa học xã hội và nhân văn đã chuyển hướng
sang nghiên cứu, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định
chiến lược, chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước. Khoa học tự
nhiên có nhiều thành tựu trong nghiên cứu điều tra, góp phần tạo luận cứ
khoa học cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế –
xã hội. Khoa học và công nghệ đã gắn bó hơn với sản xuất và đời sống,
góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của tất cả các ngành,
đặc biệt là ngành nông nghiệp (ước tính 1/3 giá trị gia tăng của ngành
trong những năm qua là do khoa học và cơng nghệ đóng góp)(1)(1).
Tuy nhiên, cho đến nay khoa học và cơng nghệ nước ta vẫn đang
đứng trước những bất cập, đó là:
Đặng Hữu: Bài nói tại lớp học Nghị quyết Trung ương II khố VIII tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí minh, tháng 2-1997.
(1)(1)

10


Thứ nhất, trình độ kỹ thuật và cơng nghệ thấp kém, tụt hậu xa so với
các nước.
Phần lớn máy móc, thiết bị đã hết khấu hao, thiếu đồng bộ, mất cân
đối, chắp vá từ nhiều nguồn (Liên Xô trước đây, các nước Đơng Âu, Bắc
Âu, các nước ASEAN…). Chỉ có khoảng 20% (2)(2) máy móc thiết bị hiện
đại. Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị thấp, khoảng 30-50% cơng suất
máy móc, hơn 80% số máy móc, thiết bị chỉ hoạt động một ca. Mức tiêu
hao năng lượng, nguyên liệu cao, trung bình trên 50%. Tốc độ đổi mới
cơng nghệ thấp, khoảng 7-8%/năm.
Nhìn chung, so với các nước tiên tiến nhất thế giới, khoa học và
công nghệ nước ta lạc hậu từ 50-1000 năm, còn so với các nước tiên tiến
trung bình cũng khoảng 20-30 năm.

Thứ hai, tiềm lực khoa học có nhiều hạn chế, yếu kém.
- Về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ:
Cho đến nay, Việt Nam có khoảng 130 vạn người có trình độ từ đại
học, cao đẳng trở lên, trong đó có khoảng 7.400 tiến sĩ, 13.800 thạc sĩ,
1.200 phó giáo sư và hơn 300 giáo sư (3)(3). Số lượng cán bộ tuy lớn, nhưng
tỷ lệ nhà khoa học và kỹ sự nghiên cứu phát triển chỉ đạt khoảng 4
người/10.000 dân, xếp vào loại thấp trên thế giới. Tỷ lệ này ở một nước
như Singapore là 40, Hàn Quốc là 47%, Nhật Bản là 81%, Thái Lan là 2,5
và Malaisia là 4… (4)(4).
Cơ cấu và phân bố cán bộ khoa học và công nghệ chưa hợp lý. Theo
điều tra năm 1999. Ngành giáo dục - đào tạo chiếm tới 43% lực lượng cán
bộ khoa học và cơng nghệ của cả nước, trong khi đó ngành kỹ thuật chỉ
chiếm 15,4%. Phần đông số cán bộ khoa học và công nghệ làm việc ở khu
vực phi sản xuất, số làm việc ở các cơ sở sản xuất chỉ chiếm 32%, trong
Báo cáo tổng kết: Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1986 đến nay, H.42000, tr.29-30.
(3)(3)
Số liệu điều tra năm 1999.
(4)(4)
Tổng luận khoa học kỹ thuật kinh tế, số 1-1997, tr.6.
(2)(2)

11


khi đó tỷ lệ này ở Nhật Bản là 64,4%, Hàn Quốc là 58%, Thái Lan là 48%

Tuổi đời trung bình của bộ khoa học và cơng nghệ có học hành là
57,3 tuổi, trong đó giáo sư là 59,5 tuổi, phó giáo sư là 56,4 tuổi; có học vị
(tiến sĩ) là 48,5% tuổi.
- Về nguồn vốn cho khoa học và công nghệ.

Chi cho hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta thấp, tính
bình qn giai đoạn 1991-2000 đạt khoảng 1% tổng chi ngân sách Nhà
nước. Nếu tính hết cả các nguồn (doanh nghiệp và viện trợ) mới đạt
khoảng 0,5% GDP. Trong khi đó, chi phí cho nghiên cứu – triển khai
trong GDP của một số nước năm 1992 như sau: Nhật Bản là 2,8%, Đức là
2,75%. Mỹ là 2,62%, Pháp là 2,35%, Hàn Quốc là 2,15%, Đài Loan là
2,13%…(1)(1).
Chi phí nghiên cứu – triển khai bình qn hàng năm cho mỗi cán bộ
khoa hoạ và cồn nghệ của ta cũng rất thấp (khoảng 1.000 USD), nhỏ hơn
mức chi phí bình qn của thế giới 55 lần, của các nước đang phát triển 31
lần và của các nước phát triển 200 lần.
Thứ ba, cơ chế quản lý khoa học và công nghiệp chưa được đổi mới
căn bản để phù hợp với cơ ché thị trường.
Những năm qua cơ chế quản lý khoa học và công nghệ tuy đã được
đổi mới song rất chậm, cho đến nay còn mang nặng dấu ấn của cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp. điều đó thể hiện ở cơ chế tuyển dụng, đào tạo, sử
dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều điểm chưa phù hợp
với cơ chế thị trường; cơ chế xét duyệt, theo dõi nghiệm thu các đề tài
mang nặng phong cách hành chính, hình thức; cơ chế tài chính cho hoạt
động khoa học và cơng nghệ kém hiệu quả…
Thứ tư, khoa học và cơng nghệ ít gắn bó với sản xuất và đời sống.
(1)(1)

Tổng luận khoa học kỹ thuật kinh tế, số 1-1997, tr.8.

12


Chúng ta chưa tạo được động lực và cơ chế phù hợp để gắn kết
khoa học và công nghệ với sản xuất và đời sống. Vì thế, mối quan hệ này

rất lỏng lẻo, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học không xuất phát từ thực
tiễn. Nhiều viện, trường đại học chưa làm được chức năng đỡ đầu trong
việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các viện
với các trường đại học gần như chưa có…
1.2. Yêu cầu của công tác phát triển đất nước.
Phát triển khoa học và công nghệ không chỉ là tất yếu khách quan,
mà cịn do những địi hỏi của cơng cuộc phát triển đất nước, đó là:
- Yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển nền kinh tế – xã
hội của đất nước từ trạng thái năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, dựa
vào sản xuất nông nghiệp, sử dụng lao động thủ cơng là chính sang năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dựa trên phương pháp sản xuất công
nghiệp, vận dụng những thành tựu mới của khao học và cơng nghệ. Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao.
Muốn đạt được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đổi mới và
phát triển cơng nghệ trong tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Khơng thể thực
hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nếu khơng thúc đẩy phát
triển khoa học và cơng nghệ.
- Yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại từ điểm xuất phát
thấp, nước ta buộc phái phát triển theo kiểu “nhảy vọt”, ”rút ngắn”. Đây
vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nước đi sau, vừa là thách thức đòi hỏi
phải vượt qua. Muốn phát triển kinh tế thị trường theo cách thức như vậy,
không thể không đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ.
13


Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các

yếu tố truyền thống của lợi thế cạnh tranh thay đổi, thì yêu cầu đẩy mạnh
phát triển khoa học và công nghệ càng trở nên bức xúc hơn. Thực tế cho
thấy, có những nước tuy giàu về tài nguyên nhưng vẫn không tạo ra được
nguồn lực phát triển. Trái lại, có những nước rất nghèo tài nguyên, nhưng
biết phát huy nguồn nhân lực, vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa
học và công nghệ của thế giới nên đã thành công trong phát triển kinh tế
thị trường, hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất một kiểu
định hướng nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên nguyên tắc, quy luật của
kinh tế thị trường vừa dựa trên nguyên tắc, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Định hướng này khơng chỉ địi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức
cao, mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Ở đó, phát triển con người và phát triển xã hội bền vững được coi là
nhiệm vụ trung tâm.
Đây là con đường phát triển chưa có tiền lệ. Muốn đạt tới, chúng ta
phải có sự nỗ lực và sáng tạo rất cao. Phải biết vận dụng những thành tựu
mới nhất của nhân loại, tránh sai lầm mà các nước đã vấp phải. Nếu
khơng đủ trình độ trí tuệ, khơng đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành
cơng. Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đang là yêu cầu ngày
càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.
2. Quan điểm cơ bản của Đảng về phát triển khoa học và công
nghệ.
Xuất phát từ nhận thức về vai trị và tính cấp thiết của việc đẩy
mạnh phát triển khoa học và cơng nghệ, kinh nghiệm các nước có điểm
xuất phát và điều kiện tương đồng, thực trạng khoa học và công nghệ thời
gian qua và mực tiêu phát triển kinh tế – xã hội để đến năm 2020 nước ta
14



cơ bản trở thành nước công nghiệp, việc phát triển khoa học và công nghệ
cần quán triệt các quan điểm sau:
- Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện cần thiết để
giữ vững bước độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm này bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, và dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. C.Mác cho rằng: khoa học là động lực của sự phát
triển xã hội. Hồ Chí Minh nói: Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ đưa
loài người đến hạn phúc vơ tận.
Quan điểm này địi hỏi chính sách phát triển đất nước, phát triển
kinh tế – xã hội về bảo vệ tổ quốc phải dựa vào khoa học, công nghệ và
thực hiện bằng khoa học, công nghệ. Tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước chỉ thành công khi khoa học và công nghệ
được phát triển. Chỉ phát triển khoa học và công nghệ mới phát triển – xã
hội, mới giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.
Thực hiện quan điểm này đòi hỏi phải cụ thể hóa chủ trương, chính
sách, bảo đảm dành ưu tiên cao nhất cho phát triển khoa học và công nghệ
(kể cả tạo mơi trường, chính sách, tài chính, cán bộ…).
- Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động
của tất cả các cấp, các ngành, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh.
Cần nhận thức, hoạt động khoa học và công nghệ không chỉ là
nhiệm vụ của các nhà khoa học và công nghệ, các nhà quản lý khoa học
và cơng nghệ, mà cịn là cơng việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi doanh
nghiệp và mọi người. Các hoạt động thực tiễn phải coi trọng cơ sở khoa
15



học, phải điều tra, nghiên cứu, tìm ra quy luật, dự báo phát triển. Các giải
pháp phát triển phải tuân thủ quy luật khách quan.
- Phát triển khoa học và cơng nghệ là sự nghiệp cách mạng của tồn
dân.
Quan điểm này xuất phát từ vai trò quyết định của quần chúng đối
với sự tiến bộ xã hội. Cần phải khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của tồn dân vào phát triển khoa học và cơng nghệ. Phái làm
cho mọi người quan tâm đến khoa học và công nghệ, dấy lên phong trào
quần chúng tiến công vào khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật.
Đặc biệt, trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp và nơng thơn, phải làm cho quảng đại quần chúng hiểu khoa học,
có khả năng ứng dụng cơng nghệ vào sản xuất, tạo ra các ngành nghề mới,
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng hiện đại. Chỉ như vậy khoa học và công nghệ mới thật sự
đi vào cuộc sống, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mới sơm thành
công.
- Phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết hợp tiếp
thu thành tựu khoa học và công nghệ thế giới.
Bất cứ một đất nước hay một xã hội nào, yếu tố quyết định sự phát
triển đều trước hết bắt nguồn từ năng lực nội sinh. Trong điều kiện cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong xu hướng tồn cầu hóa, thị
trường hóa các quan hệ kinh tế quốc tế như hiện nay, thì năng lực ngoại
sinh kinh tế hết sức quan trọng và khơng thể thiếu được. Chỉ có phát triển
năng lực nội sinh, kết hợp tốt nhất năng lực nội sinh với tranh thủ sử dụng
những thành tựu mới nhất của thế giới thì mới thực hiện được q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

16



Để phát triển năng lực khoa học và công nghệ nội sinh, phải đặc
biệt coi trọng của những cơ bả, phải kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ
bản với nghiên cứu ứng dụng.
Nghiên cứu cơ bản phải có tính định hướng để đủ sức nắm bắt, làm
chủ và cải tiến cơng nghệ nhập từ bên ngồi, tiến tới sáng tạo một số công
nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Kết
hợp tối ưu nhập cơng nghệ tiến tiến từ nước ngồi với phát triển nhanh
năng lực nghiên cứu khoa học trong nước.
- Phát triển khoa học và công nghệ phải gắn liền với bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng vè bên
vững.
Đây là quan điểm về hiệu quả kinh tế – xã hội của phát triển khoa
học và công nghệ. Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một khối lượng
của cải vật chất to lớn và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng lại gây ra
những tác động tiêu cực tới con người. Đó là ơ nhiễm mơi trường sinh
thái, bất cơng xã hội, suy đồi về văn hố và đạo đức. Với định hướng xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn, chúng ta phát triển khoa học và công nghệ
không phải chỉ để tăng trưởng kinh tế, mà còn phải đạt các mục tiêu bảo
vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bên vững.
Trong thực tế, nền kinh tế nước ta chưa phát triển bao nhiêu, nhưng
mơi trường đã suy thối nghiêm trọng, phân hóa giầu – nghèo có xu
hướng gia tăng, tệ nạn xã hội đang phát triển. Nếu tình hình đó khơng
được ngăn chặn kịp thời thì nó khơng chỉ cản trở sự phát triển kinh tế, mà
cịn gây ra nhiều hậu quả khơng thể lường trước được. Phải kết hợp hài
hòa giữa phát triển kinh tế với văn hố vào bảo vệ mơi trường ngay từ đầu
q

trình phát triển khoa học và cơng nghệ. Đây là quan điểm thực hiện


chính trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà
nước ta.
17


3. Nội dung chủ yếu của phát triển khoa học và công nghệ.
Phát triển khoa học và công nghệ là cơ sở, nền tảng và gắn bó mật
thiết với các giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vì vậy,
chương trình phát triển khoa học và công nghệ phải gắn với chiến lược, kế
hoạch phát triển kinh tế dài hạn và ngắn hạn của đất nước.
3.1. Phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020.
Đây là thời kỳ cả nước đi lên thực hiện chiến lược đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, mục tiêu của chiến lược là đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, phải
phát triển mạnh mẽ khao học và công nghệ, đến năm 2020 phải đạt trình
độ khoa học và cơng nghệ tiên tiến trong khu vực, ở một số ngành và lĩnh
vực sau: sản xuất và chế biến lương thực, thực phẩm, bưu chính viễn
thơng, khai thác và chế biến dầu khí, giao thơng vận tải, cơng nghiệp năng
lượng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Phấn đấu đến năm 2020, tiềm lực
khoa học và công nghệ Việt Nam thuộc vào loại tiên tiến trong khu vực,
xét ở một số chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 4% GDP.
- Số cán bộ nghiên cứu triển khai trên một vạn dân là 70 người.
- Tốc độ đổi mới cơng nghệ đạt 25-28%/năm.
- Có một số phịng thí nghiệm và viện nghiên cứu đạt tiếu chuẩn
tiên tiến trong khu vực.
- Hình thành một số khu cơng nghệ cao.
Để đạt mục tiêu trên, định hướng phát triển khoa học và công nghệ
từ nay đến năm 2020 được xác định với ba nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu
thực tế, tổng kết và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ
18


nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp thu
bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
Quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, phát triển mạnh mẽ nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ, quản lý
và quốc phong – an ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ cơng nghệ của
đất nước, coi trọng nghiên cứu cơ bản. làm chủ và cải tiến các công nghệ
nghiên cứu cơ bản. Làm chủ và cải tiến các cơng nghệ nhập từ nước
ngồi, tiến tới sáng tạo ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu
quyết định đối với sự phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI.
Thứ ba, nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng và phát triển tiềm lực
khoa học và công nghệ của đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ
cán bộ và công nhân lành nghề; trẻ hóa và phát triển đội ngũ cán bộ khoa
học và cơng nghệ có đủ đức, tài; kiện tồn hệ thống tổ chức, tăng cường
cơ sở vật chất – kỹ thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng
bước hình thành một nền khoa học và cơng nghệ hiện đại của Việt Nam,
có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong
quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 đã chỉ rõ định
hướng phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta giai đoạn này như sau:
- Đối với khoa học xã hội và nhân văn.

Tập trung vào các hướng chủ yếu: tổng kết thực tiễn đất nước; đi
sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu; giải
quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc; cung cấp luận cứ cho việc hoặc định đường lối chiến lược,

19


chính sách phát triển kinh tế – xã hội, phát huy nhân tố con người và văn
hoá Việt Nam.
- Đối với hướng nghiên cứu vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt
ra, như làm rõ cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ
trọng điểm; của việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bào vệ
mơi trường, dự báo, phịng tránh, giảm nhẹ hậu quả thiên tai.
- Đối với công nghệ.
Đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực, nhằm thu hẹp khoảng cách
tụt hậu về trình đọ cơng nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực.
Phát triển và ứng dụng một số hướng công nghệ cao (công nghệ
thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hóa) nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại và tạo bước nhảy vọt về năng suất chất lượng,
hiệu quả của nền của Việt Nam.
Hướng phát triển và ứng dụng công nghệ trong các ngành:
+ Nông nghiệp: trung nghiên cứu cứu ứng dụng để có bước đột phá
về giống cây con cho năng suất và giá trị kinh tế cao. Áp dụng công nghệ
cao, công nghệ chế biến và công nghệ bảo quản thu hoạch nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam.
+ Công nghiệp: tập trung nghiên cứu và ứng dụng các cơng nghệ
hiện đại có hàm lượng trí tuệ cao, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hố.
+ Dịch vụ: hiện đại hóa các ngành như bưu chính viễn thơng, tài

chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch… nhằm đảm bảo sự tương hợp với
các nước trong khu vực.
Ngoài ra, cần ưu tiên một số hướng nghiên cứu liên quan đến vấn đề
ý tế, bảo vệ sức khoẻ, tài nguyên môi trường, biển, thục lục địa và an ninh
quốc phòng.

20



×