Đề tài: “Lý luận thực tiễn là gì? phân tích vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức”
Họ và tên SV - Lớp
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế
luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và
thực tiễn, phương pháp biện chứng luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ
cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người có thể cóđược những cách giải quyết phù
hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận
một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉđơn thuần là sự chấp nhận một thế
giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp
nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉđạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của
chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp
thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉđạo chính xác, đúng
đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có
những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong
cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các
nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng
chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu
trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật
khách quan trong vận hành nền kinh tếở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét
Họ và tên SV - Lớp
3
và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay. Đề tài:"Lý luận Thực tiễn là
gì ?Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức"
GIỚITHIỆU
I, TÌNHHÌNHNGHIÊNCỨU
Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ quáđộ, chúng ta đã bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy trong quá trình
phát triển, luôn luôn nảy sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ, chúng ta đã có những chiến lược và
sách lược đúng đắn.Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt
là lý luận triết học Mác- Lênin, chúng ta đã vạch rõđược con đường phát
triển kinh tếđúng đắn đó là: ”luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và
hoạt động theo quy luật khách quan.’(Trích’Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI”). Từ năm 1986, chúng ta đã tổng kết được những bài học
kinh nghiệm quý báu đểđổi mới và cải cách kinh tế. Xây dựng một nền kinh
tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành mạnh chính là sự vận
dụng sáng tạo quan điểm chỉđạo của Đảng vào thực tiễn hoàn cảnh trong
nước và trên thế giới
II, MỤCĐÍCHVÀNHIỆMVỤ
Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua
sự hiểu biết sâu rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên
trong thời đại mới. Nghiên cứu lý luận nhận thức và thực tiễn là một sự
nghiên cứu sâu rộng của triết học trong mối liên quan với phát triển kinh tế
và phát triển xã hội. Hơn thế nữa đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21,khi mà xu
thế hội nhập dang tăng cao,nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các
hành động đều xuất phát từ quá trình nhận thức và cảI tạo thực tiễn là
phương trâm chỉđạo và hoạt động của Đảng ,Nhà nước ta. Muốn phát triển
kinh tế vững mạnh thì phảI luôn đặt nó với mối quan hệ với những khoa học
Họ và tên SV - Lớp
4
khác đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại ,phát triển hay lạc hậu
của bất cứ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn .Bởi vì xuất
phát từ một lập trường triếthọc đúng đắn ,con người có thể cóđược cách giảI
quyết phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra .Còn ngược lại xuất
phát từ một lập trường triết học sai lầm ,con người khó có thể tránh khỏi
hành động sai lầm ,chỉ có triết học Mác – Lênin mới cóđược những tính ưu
việt này.
III, PHẠMVINGHIÊNCỨU
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời
gian và về sự thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới
quan duy vật khoa học và cóý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận
thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá
xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống, thực
tiễn, chỉđạo cho con người hành động. Nắm vững được mọi nội dung của
triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con
người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát
triển kinh tế mạnh mẽ.
Vấn đềđã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối
với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với
những thành tựu nhất định ta càng thấy rõ sựđúng đắn và cần thiết của bài
học kinh nghiệm đó. . Cùng với sự tổng kết của đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI trong văn kiện đãđánh dấu một mốc son lịch sử của Việt Nam chuyển
từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
IV, CƠSỞLÝLUẬN
Đại hội Đảng lần thứ VI đãđánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học
kinh nghiệm đãđược rút ra trong triết học Mác - Lênin vàĐảng ta lấy đó làm
Họ và tên SV - Lớp
5
“kim chỉ nam’ cho hoạt động của mình. Triết học là một bộ phận cấu thành
của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ; triết học của chủ nghĩa Mác làchủ nghĩa
duy vật. Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà
những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi
xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác và F.Enghen đã khắc phục những
thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng cách tiếp thu một cách có
phê phán và có chọn lọc những thành quả của triết hoc cổđiển Đức và nhất là
của hệ thống triết học Hêghen. Trong những thành quảđó thì thành quả chủ
yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức toàn
diện nhất, sâu sắc nhất và thoát hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép biện
chứng của Heeghen là phép biện chứng duy tâm nên Mác và Enghen đã cải
tạo nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và Enghen đã gắn phép biện
chứng Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, đẩy nó
lên thành chủ nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã xây
dựng một triết học mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận
thức xã hội. Cơ sở của những lí luận trong học thuyết đó là những quy luật
khách quan và thực tiễn xã hội , vì thế những lý luận đó có cơ sở khoa học
vững chắc không sa vào siêu hình hay nhị nguyên luận .Để chỉđạo hoạt động
được đúng đắn triết học Mác – Lênin chính là nền tảng bền vững cho mọi
mục tiêu ,phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà nước ta.
Họ và tên SV - Lớp
6
CHƯƠNG I :MỘTSỐKHÁI
NIỆMLIÊNQUANĐẾNCƠSỞLÝLUẬNCỦAĐỀTÀINGHIÊNCỨU
I. THỰCTIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực
quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là những hoạt động vật chất
cảm tính ,có mục đích ,có tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cảI tạo
làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện
vật chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội,
làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con
người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự
mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây làđặc điểm quan trọng nhất của
thực tiễn, là cơ sởđề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý
luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác
nhau, thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ
muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con
người trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản
của sự tồn tại xã hội của con người.
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực
mới, một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật
Họ và tên SV - Lớp
7
chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này
không được giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình
đó, con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo
hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện
khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con người không thích nghi
một cách thụđộng mà thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích
cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
a/ Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật
chất là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệđặc biệt của con
người đối với thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các
loài vật.
b/ Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát
triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng
rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với
bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c/ Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng
cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, THỰCTIỄNCÓVAITRÒRẤTTOLỚNĐỐIVỚINHẬNTHỨC
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan,
bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc
tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy
sinh các vấn đềđòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình
thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát
triển thế giới quan (tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).Qua hoạt động thực
Họ và tên SV - Lớp
8
tiễn não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn ,các giác quan ngày
càng hoàn thiện hơn.Thực tiễn là nguồn tri thức đồng thời cũng làđối tượng
của nhận thức , chính hoạt động thực tiễn đãđặt ra các nhu cầu cho nhận thức
tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con người đI sâu tìm hiểu tự nhiên.
2.Thực tiễn làđộng lực của nhận thức
Ngay từđầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho
nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị
những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự
nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong
phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên
bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển
của sự vật.
3.Thực tiễn là mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức.
Những tri thức khoa học chỉ cóý nghĩa thực tiễn khi nóđược vận dụng
vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các
tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật
chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt
nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉđạo hoạt
động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông
qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh
của mình, sự hiểu biết của con người mới cóý nghĩa.Bằng thực tiễn mà kiểm
chứng nhận thức đúng hay sai ,khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại .
4.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a/ Chân lý
Họ và tên SV - Lớp
9
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, cóý nghĩa giá trịđối với đời sống con
người). Chân lý mang tính khách quan ,nó không phụ thuộc vào sốđông
(chân lý tôn giáo ).Chân lý mang tính hai mặt (tuyệt đối và tương đối)vì tính
hai mặt trong quá trình nhận thức của nhận loại .
b/ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý không phải làý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật
chất, qua đó nóđược ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm
tính. Từđó mới có căn cứđểđánh giá nhận thức của con người đúng hay sai,
cóđạt tới chân lý hay không. Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau nên
nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức
khác nhau .
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sửđều có giới hạn. Nó không thể
chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà
nóđược thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy
mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của
nhận thức.
c/ Ý nghĩa
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chếđộ xã hội mới:
công bằng, bình đẳng, tién bộ.Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách
hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua
vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình
đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉđúng khi chúng
Họ và tên SV - Lớp
10
mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất
lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to
lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờđây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho
những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước
ta vừa là mục tiêu, vừa làđộng lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức
nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽđem lại cho chúng ta
những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã
hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐIQUANHỆGIỮALÝLUẬNVÀTHỰCTIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sởđáp ứng nhu cầu của xã
hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích vàứng dụng.Nó
mang tính hệ thống cao ,tổ chức có khoa học .
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận
và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ
chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và
phát triển xã hội.
Họ và tên SV - Lớp
11
Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực
tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ
cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mởđường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp
vô sản.Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào
nóđược hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của
lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách
rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học làở chỗ: nóđưa lại cho thực tiễn các tri thức
đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từđó
mới có cơ sởđểđịnh ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn.Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệđó có
thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì
chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó
là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu
thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi
đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt
là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh
tế.Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗđứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu
Họ và tên SV - Lớp
12
xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố
gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không
đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là
cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài
giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy
tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm vềđời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” –
1980). Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên
đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận
và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện
các mặt của đời sống xã hội, mà trong đóđổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi
mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và
chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến
hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc
nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của
mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở
vững chắc. Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong
khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại
Họ và tên SV - Lớp
13
rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành
động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nóđầy tính
sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra
từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá
chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và
từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận
động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách
biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này
được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri
giác, biểu tượng
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động
mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa
phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức
phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉđạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
Họ và tên SV - Lớp
14
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận
thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi
lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày
càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
CHƯƠNG II : QUÁTRÌNHPHÁTTRIỂNKINHTẾỞ VIỆT NAM
I,VỊTRÍĐỊALÝ
-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm
Đông Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể
dễ dàng giao lưu với các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các
tuyến giao thông (đường bộ, đường sắt ) với các cửa khẩu quan trọng, Việt
Nam có thể liên hệ với nhiều nước trên thế giới.
+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển,
có thể quan hệ với nhiều quốc gia.
+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp
phần làm giàu bản sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động
của thế giới. Từđó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học,
Họ và tên SV - Lớp
15
kinh nghiệm thành công cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước
và vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
II, QUÁTRÌNHPHÁTTRIỂNKINHTẾỞ VIỆT NAM
1.Tình hình
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế
kế hoạch hoá tập trung dựa trên chếđộ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình
thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc
doanh, hợp tác xãđược tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không
còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xãđược tổ
chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ.
Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy
được những tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng
công cụ kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật
chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông
thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn đểổn định và phát triển kinh tế.Vào những
năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về kinh tế,
xã hội. Trong thời kỳđầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với
nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và
chiến đấu trong chiến tranh lúc đó. Năm 1975, sau ngày giải phóng miền
Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là
sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Họ và tên SV - Lớp
16
Mặc dùđây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn
tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm
vi cả nước. Đó là sựáp đặt rất bất lợi.
2. Hậu quả
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lýđược hiệu
quả các nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực
của đất nước.Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi
trường bịô nhiễm. Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả
nghiệm trọng cho nền kinh tế.:
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy
tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu
trong nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợđọng nước ngoài ngày càng tăng và
không có khả năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như
không có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ
nước ngoài.
Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội. Đến năm 1979,
nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn, nguồn
trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát
triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế này
không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền kinh tế. Ngược
lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồạt, tràn lan trên mọi lĩnh
vực trở thành địa vịđọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời
Họ và tên SV - Lớp
17
điểm cao nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh
nghiệp với số tài sản cốđịnh chiếm 70% tổng số tài sản cốđịnh của nền kinh
tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy cóđạt được tốc độ tăng trưởng nhất định
nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sởđể phát triển vìđã dựa vào điều kiện
bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các
doanh nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ,
lực lượng sản xuất không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng
khủng hoảng và tụt hậu.
3.Nguyên nhân
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối
dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước
ta.Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị
xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế
lỗi thời chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng
thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.Việc đổi mới
cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên
nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,
bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoảđáng
cả về lý luận và thực tiễn.
4. Tư tưởng chỉđạo
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ
quáđộ:”Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là
Họ và tên SV - Lớp
18
những chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản
Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta
đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự
những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan. Chúng ta
đãưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả kinh tế
phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chúýđúng mức tới sản xuất nông
nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn.
- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào
những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị
trường truyền thống, nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với
sản xuất vàđời sống.
- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thùđịch của các thế lực
phản động cũng có tác động không nhỏđến sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào
những năm 1979 - 1980 đãđưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công
nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu
cấp năm 1986 : 74% .Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải
xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan là
hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền
kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đãđánh dấu một mốc phát
triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.
III.
BIỆNPHÁPGIẢIQUYẾTTÌNHHÌNHĐỂPHÁTTRIỂNKINHTẾ
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết
phải thay đổi nhận thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng
Họ và tên SV - Lớp
19
đắn, đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách
quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối
mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính
sách, biện pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng
không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
- Trên cơ sởđó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật
đang tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh
tế cơ bản cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng
phát huy vai trò chủđạo, được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy
luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy
luật cạnh tranh Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các
đòn bảy kinh tế.
- Đại hội đảng lần thứ VI cóý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan
điểm, đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo
chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước .
Công cuộc đổi mới của Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm
ngoài những quy luật phổ biến của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng
phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ
biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo ra động
lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó
khăn phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý
luận và thực tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô
hình tập trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản
xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu
thuẫn đóĐảng ta đã tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để
làm đủăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy
Họ và tên SV - Lớp
20
luật về sự phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công
lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tếđóđảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Phải thông qua việc sắp xếp lại
sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng, xuất khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các
biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác
trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉđạo của thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng
quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quáđộ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ
chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập
trung quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của
các tập thể lao động.
CHƯƠNG III :
ÁPDỤNGLÝLUẬNTHỰCTIỄNTRONGQUÁTRÌNHĐỔIMỚIHIỆNNA
Y
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ởĐại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ
sai lầm chủ quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm
sai, làm hỏng và phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát
triền văn hoá cóý nghĩa tự giải phóng và mởđường cho sự phát triển mới rất
to lớn. Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự
tương đồng về hoàn cảnh, nội dung vàý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới
Họ và tên SV - Lớp
21
của Lênin” . Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần
quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
I.
LÝLUẬNVỀTHỰCTIỄNTRONGSỰNGHIỆPPHÁTTRIỂNKINHTẾV
ÀĐỔIMỚIKINHTẾHIỆNNAY.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho
phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quáđộ nhưở nước ta
hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do
lịch sửđể lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân,
đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ
nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu
thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự
nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nóđòi hỏi phải có lý
luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề vàđiều
kiện cơ bản làm cơ sở cho sựđổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý
luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về
lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sởđể nhận
thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sởđề
khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm,
vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi
quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong
thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều
Họ và tên SV - Lớp
22
điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán
trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm Trong quá trình đó, tất
nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc
nhất định.
Ởđây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân
là rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi
thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự
nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi
mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không
hề coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng
cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nóđược thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự
vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh vàđiều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu
xã hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản
xuất đối với sự phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự
phát triển sản xuất sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủđạo trong sự thống nhất
biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức
phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà cóý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng
quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
Họ và tên SV - Lớp
23
xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước
thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế
hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới
thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chếđộ tập trung quan liêu
với phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh
vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở
một nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của nước đó. Vàđây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở
khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa
làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội
những nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin làở chỗ trong khi khái quát thực
tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát
triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai
đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững
và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc
phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
Họ và tên SV - Lớp
24
hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò
tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp,
đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận
cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủđịnh sạch trơn mọi
giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉđạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một
bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển
kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận
với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi
mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm
cơ sở cho sựđổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính làđộng lực, là
cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết
sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và
thiệt hại.
II. ÝNGHĨATHỰCTIỄN
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội
VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối,
xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm
sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Quán triệt nguyên
tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân.
Họ và tên SV - Lớp
25
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ,
khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan
và tính năng động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách
mạng và tri thức khoa học bởi tri thức khoa học cóđược hay không là nhờở
lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát
huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng thêm tri
thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ
lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển nhận thức
mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để
hoạt động vàđem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm
chủđạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp
với tri thức khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt
là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng
cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát
triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế
chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện
nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn
tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
III, ĐỀXUẤTNHIỆMVỤVÀGIẢIPHÁPCHOTƯƠNGLAI
Tương lai đất nước nằm trong tay mỗi sinh viên chúng ta, việc cải tạo nó,
biến đổi nó làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn là nhiệm vụ của bất cứ người
dân nào. Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước
nghèo trên thế giới, việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ
lực hết mình của mỗi người đặc biệt là phát triển kinh tế . Mục tiêu của
chúng ta là phát triển kinh tếđi kèm với công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy,
cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới một