Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Luận văn: “Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 98 trang )



1









Luận văn:
“Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài
trợ xuất khẩu tại ngân hàng Ngoại Thương
Việt Nam”



2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 8
1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại ( NHTM ). 8
1.2. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng ( TDNH ). 9
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm TDNH. 9
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 10
1.3. Tổng quan về hoạt động tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu( TDTTXK
). 13
1.3.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu. 14


1.3.2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu. 15
1.3.3. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu. 18
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu. 26
Tóm tắt chương 1 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT
KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 32
2.1. Tổng quan về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 32
2.1.1. Một số thông tin chính về NHNTVN 32
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNTVN. 33
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý tại NHNTVN. 34
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh cơ bản của NHNTVN. 32
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN. 40
2.2.1. Các quy định về hoạt động TDTTXK tại NHNTVN. 40
2.2.2. Các chính sách về TDTTXK tại NHNTVN. 42
2.2.3. Thực trạng hoạt động TDTTXK tại NHNTVN trong những năm gần
đây (2003 – 2006 ). 46
2.3. Đánh giá về hoạt động TDTTXK tại NHNTVN. 60
2.3.1. Những kết quả đạt được. 60


3
2.3.2. Những khó khăn và tồn tại. 64
2.3.3. Nguyên nhân 66
Tóm tắt chương 2 71
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ
XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 73
3.1. Chiến lược xuất khẩu và tín dụng tài trợ xuất khẩu của Việt Nam. 73
3.1.1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010. 73
3.1.2. Chiến lược tín dụng tài trợ xuất khẩu của ngành ngân hàng. 75
3.2. Chiến lược phát triển NHNTVN đến năm 2015. 76

3.2.1. Định hướng và mục tiêu phát triển đến năm 2015 của NHNTVN. 76
3.2.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại
NHNTVN. 77
3.3. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của một số ngân hàng cạnh tranh 78
3.4. Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN. . 82
3.4.1. Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng. 82
3.4.2. Các giải pháp khác. 87
Tóm tắt chương 3 94
KẾT LUẬN 95



4
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Hình 2.1.T
ổng nguồn vốn huy động 32
Hình 2.2. Doanh số
TT XNK 34
Hình 2.3. Số thẻ lưu hành
35
Hình 2.4. Doanh số thanh toán thẻ 39
Hình 2.5. Tổng doanh số ngoại tệ mua bán 39
Hình 2.6. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu theo kỳ hạn tại NHNT 48
Bảng 2.1.Tốc độ tăng trưởng vốn huy động tại NHNT 32
Bảng 2.2. Cơ cấu vốn huy động theo VNĐ và ngoại tệ tại NHNT từ năm
2003 - 2006 33
Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng DS TTXNK 35
Bảng 2.4. Quy mô TDTTXNK tại NHNTVN từ năm 2003 – 2006 47
Bảng 2.5. Cơ cấu dư nợ tài trợ xuất khẩu theo VNĐ và ngoại tệ tại

NHNTVN. 50
Bảng 2.6. Cơ cấu tài trợ xuất khẩu theo mặt hàng tại NHNTVN. 52
Bảng 2.7. Tỷ trọng các mặt hàng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN. 52
Bảng 2.8. Cơ cấu tài trợ xuất khẩu theo thành phần kinh tế. 55
Bảng 2.9. Doanh số thanh toán xuất khẩu tại NHNTVN. 58
Bảng 2.10. Tình hình chiết khấu chứng từ hàng xuất tại NHNTVN. 59


5
LỜI MỞ ĐẦU

1.Lí do lựa chọn đề tài.
Qúa trình quốc tế hoá tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ
ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới: trong sản
xuất, thương mại đầu tư, tài chính, các hoạt động dịch vụ, trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo, văn hoá và lối sống…Thông qua các hoạt động trên các nước xích
lại với nhau hơn, gắn bó với nhau nhiều hơn. Chính điều đó làm cho nền kinh tế
thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ
phận không tách rời và tuỳ thuộc vào nhau. Sự biến động xảy ra ở bất kỳ nước
nào đó tất yếu sẽ dẫn tới sự tác động tới các quốc gia khác trên thế giới. Đặc
điểm này đặt ra một yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra thị
trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển
kinh tế đối ngoại để có được một khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển.
Nhận thức được vấn đề đó, Đảng và Nhà Nước ta đã thực hiện chính sách
kinh tế mở, hội nhập kinh tế, tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách, đổi mới
nền kinh tế quốc dân để đảm bảo Việt Nam thực hiện thắng lợi đổi mới xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi mở cửa, hoạt động
ngoại thương của Việt Nam diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết, trong đó hoạt động
xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng đã góp phần to lớn vào sự đổi
mới đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng

hoá trong nước cũng như đáp ứng đầy đủ hơn nu cầu sản xuất và tiêu dùng.
Vậy phải tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu - một động lực quan trọng để hội
nhập kinh tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là: do khả năng tài chính có hạn mà các
doanh nghiệp xuất khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng
nhập khẩu, các dây chuyền thiết bị phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu
hoặc không đủ vốn thu mua, chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ
vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của xã hội.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam ( NHNTVN ) ngay từ khi được


6
thành lập đã là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại
thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm: cho vay tài trợ
xuất nhập khẩu các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác ( vận tải, bảo hiểm,…), thanh
toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ,…Vì vậy trong nhiều
năm qua với bề dày kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng đối ngoại,
NHNTVN luôn được đánh giá là ngân hàng có uy tín nhất, ngân hàng hàng đầu
trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối.
Hiện nay NHNTVN vẫn đang từng bước hoàn thiện hoạt động kinh doanh của
mình cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt cùng với sự phát triển của ngoại
thương, NHNTVN đã và đang tìm nhiều biện pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng
tài trợ xuất khẩu ( TDTTXK ), vừa để tài trợ các doanh nghiệp trong nước, vừa
phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại, vừa đem lại
nguồn lợi nhuận lớn lao cho ngân hàng, giúp ngân hàng đứng vững trong cạnh
tranh. Tuy nhiên hoạt động TDTTXK của NHNTVN vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế và chưa phù hợp với yêu cầu xuất khẩu của Việt Nam. Do đó việc nghiên
cứu và tìm kiếm các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại
NHNTVN là một yêu cầu cấp bách về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Được sự giới thiệu của trường Đại học Kinh tế Quốc Dân và sự cho phép
của quý NHNTVN, em đã được thực tập tại trụ sở chính NHNTVN – 198 Trần

Quang Khải, Hà Nội. Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu về hoạt động
TDTTXK của ngân hàng và nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động đó đối với
sự phát triển của ngân hàng nói riêng và với sự phát triển kinh tế nước ta nói
chung. Do vậy đề tài: “Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất
khẩu tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” đã được em lựa chọn là đề tài
để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Trên cơ sở xác định bản chất và vai trò của tín dụng ngân hàng ( TDNH )
đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là thực trạng hoạt động TDTTXK
của NHNTVN, mục đích nghiên cứu chuyên đề là đưa ra một số giải pháp nhằm
thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.


7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động TDTTXK tại
NHNTVN.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là: Chuyên đề khảo sát hoạt động
TDTTXK tại NHNTVN từ năm 2003 đến năm 2006.
4. Kết cấu của chuyên đề.
Tên chuyên đề: “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu
tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam”.
Để đạt được các mục đích trên, ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Lời cam
đoan; Mục lục; Danh mục các bảng số liệu, hình vẽ, chữ viết tắt; Danh mục tài
liệu tham khảo; Phụ lục, thì chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về hoạt động TDTTXK tại ngân
hàng thương mại ( NHTM ).
Chương 2: Thực trạng và đánh giá hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.





8
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại ( NHTM ).
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với sự hình thành và
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Qúa trình phát triển kinh tế tạo điều kiện
và đòi hỏit sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ
thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Trải qua rất
nhiều biến động lịch sử của lịch sử cũng như cùng với sự phát triển kinh tế, các
hình thức ngân hàng cũng có sự thay đổi.
Ở giai đoạn đầu: từ thế kỷ 15 - cuối thế kỷ 18: các ngân hàng hoạt động
với quy mô nhỏ, độc lập với nhau, chưa tạo thành hệ thống và hoạt động chưa
ổn định. Mỗi ngân hàng đều có những chức năng nhiệm vụ giống nhau như:
nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán chi trả, phát giấy bạc và lưu thông và thực
hiện các dịch vụ ngân hàng khác ( đổi tiền, chuyển tiền, )
Ở giai đoạn 2: từ thế kỷ 18 - thế kỷ 20: Nhà Nước ban hành các đạo luật
đối với các hoạt động của ngân hàng để hạn chế số lượng các ngân hàng được
phép phát hành tiền và lưu thông. Sang thế kỷ 18, 19 ở các nước công nghiệp
Châu Âu, việc phát hành tiền vào lưu thông được giao cho một số ngân hàng
lớn. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Nhà Nước ban hành đạo luật cho phép
một ngân hàng duy nhất – đó là tiền đề của ngân hàng trung ương sau này được
phép phát hành giấy bạc. Các ngân hàng còn lại cùng với quá trình phát triển trở
thành NHTM.
Giai đoạn 3: từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay: Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế hàng hoá, của công nghệ thông tin, và sự đa dạng hoá của
các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các NHTM đã đa

dạng hoá và mở rộng phạm vi cung cấp các dịch vụ theo mô hình ngân hàng đa
năng hiên đại.


9
1.2. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng ( TDNH ).
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm TDNH.
1.2.1.1. Khái niệm.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau. Ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà
thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng.
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng. Trong một số ngữ cảnh cụ thể thì thuật ngữ tín dụng
còn đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay.
Mục đích cuối cùng là muốn xem tín dụng là một chức năng cơ bản của
ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng
thì tín dụng được hiểu như sau: “ Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc
hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác ) và các
bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán ”.
Trong nền kinh tế thị trường , nếu lấy tiêu thức “ chuyển nhượng ” làm
căn cứ để phân chia các hình thức tín dụng thì có hai loại đó là tín dụng thương
mại và tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại là hình thức cho vay bằng

hàng hoá; Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các cá nhân và doanh nghiệp.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Xuất phát từ khái niệm tín dụng ngân hàng, tín dụng ngân hàng có một số


10
đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong quan hệ tín dụng, ngân hàng thể hiện rõ vai trò trung gian
tài chính, là người đứng giữa thực hiện nghiệp vụ huy động vốn từ các chủ thể
có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế ( ngân hàng là người đi vay ) và sử dụng vốn
đầu tư cho các doanh nghiệp thì ngân hàng lại là người cho vay.
Thứ hai, TDNH đối với đối tượng cho vay là tiền tệ nên không chịu sự
ngăn cản về phương hướng tức là có thể cho vay đối với tất cả các ngành kinh tế
( ngành đó hoạt động có hiệu quả, phương án sản xuất có tính khả thi ). Mặt
khác, với quy mô lớn về vốn nên các NHTM có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn
lớn ở các quy mô khác nhau với các thời hạn khác nhau: ngắn hạn, trung và dài
hạn.
Thứ ba, TDNH khác với tín dụng thương mại về hình thức, quy mô và
thời gian hoạt động, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung
cho nhau. TDNH giúp khắc phục một số hạn chế của tín dụng thương mại về
mặt không gian và địa lý, về quy mô tín dụng, về trường hợp khi đến hạn trả tiền
nếu vì một lý do nào đó mà người mua không có hoặc không đủ tiền trả. Mối
quan hệ gắn bó này là nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và tái
chiết khấu thương phiếu tại các ngân hàng khi đối tác có thương phiếu và có nhu
cầu về tiền của mình.
Sự phát triển của các hình thức tín dụng, nhất là TDNH nhiều thập kỷ qua
và cho đến nay trên thế giới đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Qúa trình vận động và phát triển của TDNH gắn liền với sự vận
động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường,

TDNH ngày càng đóng vai trò quan trọng trong vai trò là trung gian điều phối
luồng tiền tệ để nền kinh tế hoạt động một cách ổn định và phát triển.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện qua những mặt sau:
1.2.2.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát
triển.
Trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, không phải lúc nào
doanh nghiệp cũng có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình, nên để


11
đảm bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, họ tìm đến ngân hàng hay các
định chế tài chính để nhận được sự tài trợ về nguồn vốn. Như vậy thông qua
việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng đã góp phần giúp
các doanh nghiệp không những đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn
có thể mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ
thuật và công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến
khích đầu tư vào các ngành,các lĩnh vực các công trình lớn có ý nghĩa đối với
quốc kế dân sinh.
Hơn nữa hoạt động tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện để duy trì mối
liên hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội. Nó làm
cho lưu thông hàng hoá mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Hiện nay, khoa học – kĩ thuật và công nghệ phát triển, bùng nổ như vũ
bão, chu kì sản phẩm ngày càng rút ngắn lại thì tín dụng ngân hàng càng trở nên
quan trọng hơn. Nhờ nguồn vốn tín dụng của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể
tiếp cận được với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, từ đó giúp các nước đang
và chậm phát triển có thể thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước với chiến lược đi tắt đón đầu.
Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh chóng là điều không thể phủ nhận.

1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất.
Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Họ không chỉ cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà
còn phải cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạn tranh, các
doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như
đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm…Do vậy các doanh nghiệp có tiềm lực tài
chính thường có nhiều lợi thé hơn, và họ có nguồn vốn lớn nên có thể dễ dang
mở rộng sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường. Kết quả là các công ty


12
lớn càng lớn mạnh hơn,và các doanh nghiệp nhỏ do không đủ khả năng cạnh
tranh nên có thể bị phá sản hoặc bị các công ty lớn mua lại. Để tồn tại thì các
doanh nghiệp nhỏ đã tự nguyện liên doanh, liên kết hay sáp nhập lại với nhau
hoặc cùng với các công ty lơn thành lập nên các công ty cổ phần, hùn vốn lại
với nhau để tạo ra lượng vốn lớn. Như vậy do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết
hay sáp nhập này, và tín dụng ngân hàng là phương tiện để tập trung các khoản
tiền nhàn rỗi trong xã hội, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải trích
một phần lợi nhuận để thành lập quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển, tái sản
xuất kinh doanh. Nhưng do đặc điểm của chu chuyển vốn, vốn của doanh nghiệp
luôn được luân chuyển liên tục để tạo ra lợi nhuận , nên khi một cơ hội kinh
doanh xuất hiện, mà chờ có nguồn vốn đủ lớn để thực hiện tái sản xuất thì sẽ
mất nhiều thời gian, và có khi bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Trong khi đó doanh
nghiệp có thể sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng
đóng vai trò tích tụ vốn trước một bước giúp cho doanhnghiệp tiết kiệm thời
gian trong sản xuất kinh doanh, nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh.
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình tiết kiệm chi phí

lưu thông của xã hội.
Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của các giao dịch quốc tế, và các
yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro đối với các bên
tham gia giao dịch thì các hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng phát
triển với các phương thức, phương tiện thanh toán đa dạng, nhanh chóng và tiện
lợi hơn.Nhờ đó, thông qua cơ chế thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng làm
giảm giao dịch tiền mặt nên có thể thực hiện được một khoản chi phí cho việc
lưu thông tiền mặt. Đồng thời nhờ vào các phương tiện thanh toán khác như
là:séc, thương phiếu, hối phiếu nên có thể mở rộng được quy mô lưu thông
hàng hoá; tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, bảo quản tiền, ghi chép sổ, làm
tăng tốc độ chu chuyển vốn, tài sản xã hội được đảm bảo an toàn hơn. Đây là
bước tiết kiệm quan trọng nhất mà tín dụng đã đạt được thông qua hoạt động của


13
hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng thực hiện điều hoà nguồn vốn, phân phối
lại vốn trong xã hội. Đây chính là chức năng phân phối của tín dụng ngân hàng.
Nó biểu hiện ở cơ chế “ hút ” và “đẩy ” được thực hiện thông qua nhiệm vụ huy
động vốn cho vay (thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong xã hội ) và
nhiệm vụ cho vay (để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng )
hoặc thông qua thị trường liên ngân hàng. Dù dưới hình thức nào thì việc điều
hoà vốn của tín dụng ngân hàng làm cho xã hội bớt được thừa vốn ở nhiều nơi
thừa vốn và giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, đồng thời làm cho phát triển
tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn, giảm tình trạng phải phát hành thêm
tiền, khắc phục tình trạng lạm phát tiền tệ, từ đó góp phần ổn định lưu thông tiền
tệ, ổn định giá cả. Tất cả những tác động đó của tín dụng ngân hàng đều giúp tiết
kiệm một lượng lớn lưu thông trong xã hôi.
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện chính sách xã hội và là phương
tiện để Nhà Nước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Thông qua tín dụng ngân hàng , Nhà nước tài trợ cho các đối tượng chính
sách xã hội như học sinh, sinh viên, các hộ nông dân nghèo, các hộ sản xuất, các
ngành nghề thủ công truyền thống bằng quỹ. Tính dụng ngân hàng là công cụ
quan trọng trong việc tổ chức đời sống dân cư. Dân cư sử dụng tín dụng để tiết
kiệm, tăng dự trữ của cải và cũng thông qua tín dụng để cải thiện nâng cao mức
sống.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng là công cụ để cân đối thu chi ngân sách của
Nhà Nước và góp phần điều chỉnh lượng tiền cung ứng trong lưu thông, bảo
đảm sự cân đối tiền hàng, giữ cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và
kiểm soát thị trường giá cả và sức mua của đồng tiền. Nó cũng là phương tiện
được dùng để tài trợ cho các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn vươn ra thị
trường nước ngoài, nâng cao mức độ cạnh tranh của nền kinh tế.
1.3. Tổng quan về hoạt động tín dụng ngân hàng tài trợ xuất
khẩu(TDTTXK ).


14
1.3.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu.
Ngày nay, xuất khẩu luôn được các quốc gia ( dù ở bất cứ trình độ phát
triển nào) coi trọng như “động lực ”của nền kinh tế quốc dân. Khi cạnh tranh
xuất khẩu ngày càng trở nên quyết liệt, các nhà xuất khẩu cần tới sự tài trợ của
các cơ cấu tài chính hiện đại và mạnh để thắng thế cạnh tranh trong điều kiện
ngày càng nhiều biến cố rủi ro. Mà ngân hàng chính là một trung gian tài chính
uy tín và hoạt động có hiệu quả cho nên đã dẫn đến quan hệ vay mượn giữa một
bên là ngân hàng với một bên là doanh nghiệp có nhu cầu về vốn.
Cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về TDTTXK
dẫu cho rằng chỉ ở mặt khái niệm. Điều này đương nhiên sẽ rất khó cho việc sử
dụng khái niệm TDTTXK. Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các khái niệm
TDTTXK tuỳ thuộc vào các chuyên đề, nội dung phản ánh. Tuy nhiên, có thể
hiểu TDTTXK là hoạt động tài trợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp

trong lĩnh vực xuất khẩu nhằm giúp các doanh nghiệp này thu mua, chế biến,
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Đây là một cách nhìn chung về TDTTXK, tuy nhiên ở cụ thể ở mỗi nước
lại có cách phương thức thực hiện riêng, nhưng theo xu thế ngày một hội nhập
như hiện nay thì hoạt động TDTTXK của các nước đang ngày càng đi theo
nhiều tiêu chuẩn chung của thế giới.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế thì TDTTXK
cũng ngày càng đa dạng và phong phú. Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân
hàng cho vay trực tiếp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu như cho vay để bổ
sung vốn lưu động, thu mua, chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu theo các hợp
đồng đã kí kết; cho vay thanh toán nguyên liệu…Ngân hàng mở rộng hình thức
cho vay trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Ngân
hàng cho vay để mua sắm thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính
cạnh tram trên thị trường quốc tế.
Ngân hàng còn thực hiện đứng ra bảo lãnh các đơn vị xuất khẩu để giúp


15
cho họ có thể thực hiện các hợp đồng thương mại quốc tế lớn. Với sự bảo lãnh
của ngân hàng các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài loại bỏ được những lo
ngại đối với doanh nghiệp xuất khẩu ( về uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng ),
và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Nếu doanh
nghiệp có hối phiếu hay các chứng từ có giá trong tay có thể đưa đến ngân hàng
để chiết khấu . Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng từ và có quyền đòi nhà nhập
khẩu theo hối phiếu và các giấy tờ đó.
Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngày càng phát triển, các phương
thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng thì hoạt động TDTTXK cũng phát
triển mạnh với sự ra đời của nhiều hình thức, phục vụ tích cực và có hiệu quả
cho hoạt động xuất khẩu.

1.3.2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Nếu xét hoạt động TDTTXK trên từng giác độ của ngân hàng, của doanh
nghiệp và của nền kinh tế thì chúng ta sẽ thấy vai trò quan trọng của nó được
biểu hiện rõ nét.
1.3.2.1. Đối với nền kinh tế đất nước.
TDTTXK góp phần làm tăng trưởng kinh tế đất nước cả về mặt lượng và
chất. Thông qua việc huy động vốn và cho vay, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
nói chung và TDTTXK nói riêng tác động trực tiếp đến quan hệ tích luỹ - tiêu
dùng và đầu tư - tiết kiệm, góp phần quan trọng vào khai thác các nguồn lực xã
hội nhằm thực hiện GDP thực tế cân bằng GDP tiềm năng, từ đó tác động đến
tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển thì tốc độ công nghiệp hoá
- hiện đại hoá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Đặc biệt là đối với các dự án,
chương trình lớn phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, cần nhập khẩu thiết bị
công nghệ mới, hiện đại, nguồn vốn tài trợ xuất khẩu thường chiếm từ 70% -
80% tổng mức vốn đầu tư. Bằng cơ chế lãi suất ưu đãi và nguồn trung – dài hạn,
ngân hàng có thể tập trung cho các dự án này nhằm đẩy mạnh tốc độ công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta cũng biết khi một nước tham gia vào phân công lao động quốc


16
tế thì cơ chế ngoại thương sẽ tạo ra hiệu quả cho các bên tham gia. Cơ chế đó
sinh ra từ lợi thế so sánh dựa trên cơ sở khác biệt giữa chi phí cơ hội một mặt
hàng của các nước tham gia. TDTTXK góp phần khai thác lợi thế so sánh và
làm tăng kim ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu theo yêu
cầu của thị trường, quá trình lưu thông hàng hoá xuất khẩu diênc ra trôi chảy
hơn, từ đó tăng tính năng động của nền kinh tế. Với nguồn vốn tài trợ xuất khẩu
của ngân hàng, doanh nghiệp có điều kiện đổi mới dây chuyền công nghệ, máy
móc thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu nên chất lượng sản phẩm hàng hoá được
nâng cao, giá thành sản phẩm hạ, tạo khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các

nước khác và kinh doanh có lãi. Sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng đã tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
1.3.2.2 Đối với doanh nghiệp.
Trong các giao dịch ngoại thương, có những hợp đồng ngoại thương được
ký kết với giá trị lô hàng lớn, và có thể được thực hiện trong thời gian tương đối
lâu. Điều đó đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có nguồn vốn tương đối lớn và ổn
định để đáp ứng các yêu cầu từ quá trình thu mua nguyên vật liệu đầu vào, chế
biến, sản xuất, vận chuyển đến người nhập khẩu – quá trình này có thể kéo dài
hàng năm, có khi nhiều hơn. Doanh nghiệp không thể tập trung hết toàn bộ
nguồn lực của mình vào một hoạt động, mà doanh nghiệp cũng cần phải phân bố
nguồn vốn vào các hoạt động kinh doanh sản xuất khác, do đó nhu cầu tài trợ
vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp là rất cần thiết.
Trong bất kỳ một hoạt động ngoại thương nào thì điều khoản thanh toán
cũng được chú trọng rất nhiều. Nếu doanh nghiệp đã có được sự tài trợ từ phái
ngân hàng có nghĩa là xác định được ngân hàng phục vụ cho mình, thì doanh
nghiệp sẽ tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng và ký kết hợp
đồng. Bởi vì với sự tài trợ của ngân hàng thì doanh nghiệp có sự hậu thuẫn to
lớn không chủ về vốn mà còn cả kinh nghiệm thanh toán và uy tín trên trường
quốc tế - điều này giúp doanh nghiệp nhập khẩu sẽ an tâm hơn và tin vào khả
năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy TDTTXK là giải


17
pháp giúp doanh nghiệp thực hiện được các hợp đồng (đặc biệt là các hợp đồng
có giá trị lớn với các doanh nghiệp nhập khẩu có uy tín).
Ngoài ra, TDTTXK còn làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Thông qua nguồn vốn tài trợ của ngân hàng, doanh
nghiệp có thể mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến, sản xuất và giao hàng
đúng thời điểm, thương vụ được thực hiện trôi chảy, từ đó nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.

1.3.2.3. Đối với ngân hàng thương mại.
TDTTXK của NHTM là hình thức tài trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với
thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất khẩu
trực tiếp hoặc uỷ thác. Gía trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ của ngân
hàng trong lĩnh vực xuất khẩu là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an
toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh,bởi vì:
Đồng vốn ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu gắn liền với
thương vụ. Trong nhiều trường hợp, vốn tài trợ được thanh toán thẳng cho bên
thứ ba, mà không qua bên xin tài trợ, như: thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh
toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu…Rõ
ràng việc làm này tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục
đích, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Đối với TDTTXK ngắn hạn, thi thời gian tài trợ gắ liên với thời gian thực
hiện thương vụ. Thời gian thực hiện thương vụ đối với người xuất khẩu là thời
gian kể từ lúc gom hàng xuất đi cho đến lúc nhận được tiền thanh toán của
người mua. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các
NHTM thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh được rủi ro về
thanh khoản.
TDTTXK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu
các nguồn thanh toán. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng
từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoại đã chỉ định việc thanh toán
tiền hàng phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng. Do


18
vậy nguồn thu để tra các khoản tài trợ dược ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ,
tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thơi gian vốn tạm thời
nhàn rỗi, dễ xảy rủi ro.
Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất khẩu thể hiện thông qua lãi
suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi cho vay thanh toán, lãi

chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc ( bằng mức lãi quá hạn)…Tiền lãi thu cao
thì thường giá trị tài trợ ở mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông qua tài trợ xuất khẩu,
ngân hàng còn mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước
ngoài, nâng cao uy tín ngân hàng trên trường quốc tế, đây cũng là hiệu quả.
1.3.3. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế thì TDTTXK
cũng ngày càng đa dạng và phong phú với sự ra đời của nhiều hình thức nhằm
phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu. Mỗi loại hình thức tài
trợ có các hình thức thực hiện khác nhau, phương tiện sử dụng khác nhau, nguồn
tài trợ khác nhau và mức giá khác nhau nên người yêu cầu cần cân nhắc kỹ để
tránh bị nhầm lẫn.
Căn cứ vào thời hạn tài trợ thì hoạt động TDTTXK có thể được chia thành
TDTTXK ngắn hạn và TDTTXK trung – dài hạn. Nếu căn cứ vào mức độ tín
nhiệm đối với khách hàng thì có thể chia thành TDTTXK có bảo đảm và
TDTTXK không có bảo đảm.
Trong chuyên đề này, TDTTXK sẽ được phân chia dựa trên căn cứ vào
phương thức thanh toán.
1.3.3.1. Tài trợ trong khuôn khổ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C).
Tín dụng chứng từ là một thoả thuận được một ngân hàng phát hành theo
yêu cầu của người yêu cầu ( người mua / người nhập khẩu ), theo đó, ngân hàng
cam kết sẽ thay mặt khách hàng của mình thực hiện thanh toán cho người hưởng
( người bán / người xuất khẩu ) thông qua một ngân hàng thứ hai một số tiền
nhất định trong mộ khoảng thời gian nhất định trên cơ sở xuất trình bộ chứng từ
theo yêu cầu phù hợp với các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.


19
Như vậy, L/C không những là công cụ thanh toán, công cụ bảo đảm thanh
toán mà còn là công cụ tín dụng. Đây là công cụ được các ngân hàng sử dụng
phổ biến hiện này để thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu. Đối với việc tài trợ xuất

khẩu theo L/C thí được thể hiện qua các hình thức sau:
 Cho vay thực hiện hàng xuất theo L/C đã mở.
Khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà
nhập khẩu, nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để để nhờ ngân hàng phục vụ mình
cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C quy định. Trên cơ sở
L/C đã được chấp nhận ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu để tiếp
tục sản xuất , nghĩa là sẵn sàng chấp nhận chiết khấu các hối phiếu của L/C này.
Đối với L/C trả chậm cũng được sử dụng như một phương tiện đ vay. Nhà
xuất khẩu có thể nhận được tiền dưới dạng tín dụng chuyển nhượng toàn bộ
quyền thụ hưởng L/C cho ngân hàng cấp phát tín dụng, đặc biệt thuận lợi hơn
khi đó là L/C trả chậm có xác nhận.
 Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu: để đáp ứng
nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân
hàng, thực hiện chiết khấu toàn bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ
được thanh toán.
- Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ nhà
nhập khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ
xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Có hai hình thức chiết khấu:
+ Chiết khấu miễn truy đòi ( chiết khấu đóng ): ngân hàng mua lại bộ
chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của nhà xuất khẩu. Gía mua sẽ thấp hơn giá trị bộ
chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung
bình để đòi tiền nhà nhập khẩu nước ngoài.Nhà xuất khẩu sau khi bán hẳn bộ
chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách
nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc ngân hàng. Ở
Việt Nam, các ngân hàng ít sử dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn
nhiều rủi ro cho ngân hàng.


20
+ Chiết khấu được phép truy đòi ( chiết khấu mở ): ngân hàng thực hiện

cho vay trên cơ sở người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian
cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhập khẩu
nước ngoài. Khi đó, trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân
hàng đòi được tiền từ nhà nhập khẩu. Khi chiết khấu được tính dưới hình thức
lãi chiết khấu, tính theo ngàyvà mức phí dĩ nhiên thấp hơn trong trường hợp
chiết khấu miễn truy đòi vì rủi ro ngân hàng phải chịu thấp hơn.
Tác dụng hoạt động chiết khấu của ngân hàng nhằm tài trợ vốn lưu động
cho người xuất khẩu để đảm bảo sản xuất kinh doanh liên tục, không bị gián
đoạn trong thời gian chờ nhà nhập khẩu nước ngoài thanh toán tiền hàng. Phạm
vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh
toán quốc tế tín dụng chứng từ, do phương thức này có sự ràng buộc chặt chẽ
việc giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu
thông qua các ngân hàng phục vụ các bên, rủi ro thấp hơn các phương thức
thanh toán quốc tế khác.
- Tín dụng ứng trước tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán: đó là
việc tạm ứng cho quyền thừa hưởng thanh toán trong khuôn khổ thanh toán tín
dụng chứng từ. Thời gian cho thanh toán là một quá trình khá dài, nên nhà xuất
khẩu cũng cần một khoản tài trợ của ngân hàng, đó là khoản tín dụng ứng trước.
Đối với tín dụng ứng trước loại này , những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những
giấy tờ chính như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bao hiểm… đều là
những vật thế chấp cho ngân hàng. Do đó, tất cả giấy tờ có giá theo lệnh đều
phải có mệnh giá chuyển nhượng khống hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng
cấp tín dụng ứng trước. Một khi những giấy tờ có giá trị trên không cho phép
chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng những hình thức thế chấp khác.
Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
+ Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị của hàng hoá dự kiến.
+ Chính sách kinh tế và chính sách chính trị của nước nhập khẩu đối với



21
ngân hàng nhà xuất khẩu.
+ Những rủi ro về tỉ giá hối đoái.
- Tín dụng ứng trước dưới hình thức mua lại bộ chứng từ thanh toán:
Sau khi hoàn tất nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người mua, người xuất
khẩu lập bộ chứng từ thanh toán, lúc này nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu bộ
chứng từ thanh toán này. Đồng thời ở họ xuất hiện nhu cầu bù đắp vốn để tiếp
tục quá trình kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng đến khi nhà
nhạp khẩu chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Trong trường hợp như vậy,
nhà xuất khẩu có thể đem bán bộ chứng từ thanh toán này cho ngân hàng. Việc
ngân hàng mua lại bộ chứng từ thanh toán này tức là đã chấp nhận cấp một
khoản tín dụng cho nhà xuất khẩu. Trị giá khoản tín dụng ứng trước này phụ
thuộc vào trị giá bộ chứng từ, loại hàng hoá mua bán thể hiện trên chứng
từ,…Thông thường các ngân hàng mua với giá khoảng 70 – 80% trị giá bộ
chứng từ. Ngân hàng vẫn có quyền truy đòi đối với nhà xuất khẩu khi bộ chứng
từ gửi đi không thu được tiền.
1.3.3.2. Tài trợ trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
So với tín dụng chứng từ, nhờ thu ít được sử dụng hơn trong thanh toán vì
đây là phương thức thanh toán có lợi cho bên mua. Từ lúc gửi các chứng từ tới
ngân hàng
( ngân hàng bên nhà xuất khẩu ) cho tới khi xuất trình với người thanh toán có
thể mất một khoảng thời gian nhất định. Đối với các doanhnghiệp xuất khẩu,
thông thường buôn bán hàng hoá từ dầu tới cuối có thể cần đến một khoản tín
dụng tạm thời vì lý do thời gian vận chuyển và các điều kiện thanh toán khác
nhau ở phía người mua cũng như ở phía người bán.Trong cả hai trường hợp,
ngân hàng của nhà xuất khẩu đều có thể tạm ứng trước tương tự như phương
thức tín dụng chứng từ. Nhà xuất khẩu có thể chuyển nhượng quyền lợi từ sự uỷ
nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ. Nhưng giá trị của sự chuyển nhượng này
phụ thuộc rất lớn vào khả năng thanh toán của người vay tín dụng vì không có
sự bảo đảm chắc chắn rằng các chứng từ của người phải thanh toán được chấp

nhận và vào giá trị hàng hoá được thanh toán.Nếu nhà nhập khẩu được giao các
chứng từ khi chấp nhận một hối phiếu đòi nợ, thì có thể kèm theo việc chiết


22
kháu hối phiếu ở ngân hàng nhà xuất khẩu cũng như ngân hàng nhà nhập khẩu.
1.3.3.3 Tài trợ trên cơ sở hối phiếu.
Hối phiếu là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện của nhà xuất khẩu ký
phát cho nhà nhập khẩu, yêu cầu nhà nhập khẩu khi nhìn thấy hối phiếu hoặc
đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương
lai phải trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hối phiếu hoặc theo lệnh
của người hưởng lợi trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Tài trợ trên cơ sở hối phiếu có hai hình thức phổ biến sau:
 Chiết khấu hối phiếu ( Bill discounting ).
Tín dụng chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được
thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa
đáo hạn cho ngân hàng nhận về một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ
đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Thực chất của hình thức này là
ngân hàng tiến hành mua lại các hối phiếu thương mại đang trong thời kỳ chưa
đến hạn thanh toán. Nét đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân hàng sẽ chiết khấu
trừ đi tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại.
Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra ( giá trị chiết khấu ) căn
cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi
tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Công thức xác
định như sau:
T
CK
= M
Pt
L

CK








3600
1

Trong đó: T
CK
: giá trị chiết khấu.
M : mệnh giá hối phiếu.
L
CK
: lãi suất chiết khấu ( theo năm ).
T : thời gian chiết khấu ( theo ngày ).
P : lệ phí.
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm
vụ trả tiền hối phiếu.
 Chấp nhận hối phiếu ( Banker

s acceptance ).


23
Chấp nhận hối phiếu là một nghiệp vụ thông thường trong quá trình lưu

thông hối phiếu. Trong thời hạn quy định, bên bán phái xuất trình cho bên mua
để họ ký chấp nhận trả tiền hối phiếu. Tuy nhiên, nghiệp vụ ngân hàng chấp
nhận hối phiếu ở đây lại bàn ở một khía cạnh khác: khía cạnh tài trợ của ngân
hàng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra
trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua, họ
có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối
phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân
hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho
bên bán khi hối phiếu đến hạn. Đây là một sự đảm bảo về tài chính cho bên bán,
đương nhiên nếu đến thời hạn thanh toán bên mua có đủ tiền, thì ngân hàng thực
sự không phải ứng tiền ra, khoản tín dụng này chỉ là hình thức. Với sự chấp
nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu trên cơ sở đó có được sự bảo đảm chắc chắn
về khả năng thanh toán và họ có thể đem hối phiếu chiết khấu tại bất kỳ ngân
hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu lúc này rất lớn, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà xuất khẩu được hưởng một tỷ lệ chiết ưu đãi.
1.3.3.4. Bảo lãnh.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi do không nắm rõ hoặc không tin tưởng
nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo
lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của ngân
hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền cho người hưởng bảo lãnh, nếu người
được hưởng bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả
thuận với người hưởng bảo lãnh được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh của
ngân hàng.
Hình thức tài trợ, khi ngân hàng phát hành thư bảo lãnh, tức là ngân hàng
đã cấp cho khách hàng một sự tín nhiệm tài chính trong việc ngân hàng cam kết
bồi thường cho khách hàng khi có tổn thất xảy ra. Sự tín nhiệm tài chính này lớn
hay nhỏ hoàn toàn phụ thuộc vào địa vị, uy tín và độ tín nhiệm của ngân hàng



24
như thế nào. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng,
nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh
dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay và thu phí bảo lãnh. Khi nhà
xuất khẩu không giao hàng hay giao hàng không đủ, không đúng, vi phạm hợp
đồng thì nhà nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán bảo lãnh. Bảo lãnh
ngân hàng là nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể phát sinh trong các dịch vụ
mua bán không thường xuyên, đồng thời bù đắp những thiệt hại về mặt tài chính
cho người thụ hưởng một cách nhanh chống và chắc chắn.
1.3.3.5. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu khác.
 Tín dụng bao thanh toán ( Factoring ).
Đây là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ
mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở
thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu ở nước ngoài. Hiện nay
trên thế giới nghiệp vụ bao thanh toán được thực hiện tại các ngân hàng hoặc
thành lập ra các công ty riêng gọi là công ty Factoring chuyên mua lại các khoản
nợ. Thông thường người mua lại các khoản phải thu phát sinh từ những hợp
đồng xuất khẩu gọi là người bao thanh toán (nhà Factor ), và người bán là người
nhượng. Như vậy, nhà Factor sẽ giữ trọn bộ chứng từ của nhà xuất khẩu, họ sẽ
phụ trách toàn bộ việc quản lý và theo dõi tiến độ thu nợ, xử lý các hoá đơn và
theo dõi việc thanh toán tiền hàng xuất khẩu khi đến hạn. Ngay sau khi nhận
được hoá đơn của nhà xuất khẩu, nhà Factor sẽ thanh toán ngay cho nhà xuất
khẩu một tỷ lệ % trị giá hoá đơn ( thường từ 75% - 85% ), phần còn lại sẽ được
cam kết thanh toán sau một thời hạn nhất định ( sau khi trừ đi các chi phí, lãi
suất và hoa hồng ). Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính
và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu mà ngân hành quyết định tỷ lệ mua
nợ cao hay thấp đối với nhà xuất khẩu. Có hai loại:
- Factoring tương đối: là nhà Factor sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu,
nhưng với thoả tuận là nhà xuất khẩu vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu nhà nhập
khẩu không trả tiền.



25
- Factoring tuyệt đối: nhà Factor gánh chịu mọi rủi ro nếu nhà nhập
khẩu không trả tiền.
Tín dụng bao thanh toán giúp nhà xuất khẩu có vốn ngay để hoạt dộng sản
xuất kinh doanh của mình dù bán thu tiền ngay hay bán chịu, đồng thời giúp nhà
xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài thời
gian. Vì vậy nhà xuất khẩu phải trả một khoản phí khá cao khi được bao thanh
toán.Nhìn chung tín dụng bao thanh toán đặc biệt thích hợp với các giao dịch áp
dụng phương thức thanh toán ghi sổ, cho phép người mua hưởng tín dụng cung
ứng hoặc gặp khó khăn trong việc thu nợ tiền hàng từ nhà nhập khẩu nước
ngoài.
 Tín dụng thuê mua ( Leasing ).
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn ra đời ở Mĩ vào năm 1952, sau đó thâm
nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các
nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người
cho thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người sử dụng. Người
thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc
thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê
hay được quyền thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký
kết hợp đồng thuê. Có hai loại hình thức thuê: cho thuê vận hành và cho thuê tài
chính.
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
- Cho thuê vận hành: Bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian
ngắn để sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với
quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.

So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có ưu
điểm sau:

×