Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ lâm thị mỹ dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ HỒNG CHÍNH

ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ TÌNH YÊU
TRONG THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng - 2022


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ HỒNG CHÍNH

ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ TÌNH YÊU
TRONG THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 82.29.02.0

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS TRẦN VĂN SÁNG

Đà Nẵng - 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Những nội dung nghiên cứu trong luận văn này là của riêng tôi, thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS TRẦN VĂN SÁNG.
Mọi nội dung trong luận văn hồn tồn chưa ai cơng bố.
Tơi xin chịu mọi trách nhiệm về những nội dung khoa học trong luận văn
này.
Tác giả luận văn

Lê Hồng Chính


TRANG THONG TIN LU!N VAN TH�C Si
DE TAI: A.N DV Y NitM VE TINH YEU TRONG THO LAM THJ MY D�
Nganh: Ngon ngfr hQC
HQ va ten hQC vien: LE HONG cHINH
Nguoi huong d�n khoa h9c: PGS.TS TRAN VAN SANG
Ca SO' dao te;10: De;1i hQC Su phe;1m - De;1i hQC f)a Ning
Tom tftt:
Lu�n van da h� th6ng nhung v�n dS li lu�n ca ban v€ ftn d1,1 y ni�m va thi
phap hQC tri nh�n. Lu�n van cung da trinh bay nhfrng tri thuc c�n ySu lien quan dSn
ftn d1,1 y niSm v€ "tinh yeu" trong tha Lam Thi My De;1.
Tu nSn tang li thuySt d6, chung toi da tiSn hanh khao sat cac bai tha trong
cu6n Lam Tht My Dq tuydn tqp, tim hiSu cac ftn d1,1 y ni�m v€ "tinh yeu" xet tu
· miSn ngu6n va miSn dich.
Lu�n van da di vao tim hiSu cac ftn d1,1 y ni�m vs "tinh yeu" trong t�p tha xet
tu miSn ngu6n thong qua vi�c th6ng ke, xac l�p mo hinh ftn d1,1 y ni�m v6'i cac miSn
ngu6n d�c trung; th6ng ke cac anh XC;l cua miSn ngu6n tuang ung v6'i cac biSu thuc
ngon ngfr mang tinh ftn d1,1.

Lu�n van cung da di vao phan tich m9t so an d1,1 y ni�m ve "tinh yeu" tren co
SO' cac nh6m y ni�m da duqc xac l�p.
Cac kSt qua nghien cuu 6 Chuang 2 va Chuang 3 da lam sang to nhfrng
nhfrng d�c diSm rieng cua miSn Ngu6n trong sµ chiSu xe;1 t6'i miSn Dich va cac ftn
d1,1 y ni�m vS tinh yeu tieu biSu trong tha Lam Thi My De;1.
Ben ce;1nh d6, kSt qua nghien cuu cua lu�n van se hfru ich cho sinh vien, hQC
vien, cac nha nghien cuu trong linh VlJC ngon ngfr hQC, tam 1i hQC, d�c bi�t ai mu6n
tim hiSu sau vS nha tho Lam Thi My De;1. Tu li�u cua lu�n van cung c6 gia tri tham
khao cho nhung cong trinh nghien cuu khac.
Tu kh6a: fin d1,1 y ni�m; anh xe;1; Lam Thi My De;1; mi€n ngu6n; miSn dich; y
ni�m.

Xac nhin cua ngll'oi hlf6'ng dftn

Nglfrri thl}'c hi�n d� tai

PGS. TS Trdn Van Sang

Le H6ng Chinh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ..................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
4. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................6
5. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu.................................................................6
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................7

7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ...............8
1.1. Ẩn dụ và ẩn dụ ý niệm ..............................................................................................8
1.1.1. Ẩn dụ theo quan niệm truyền thống .............................................................8
1.1.2. Ẩn dụ theo quan điểm tri nhận .....................................................................9
1.2. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ ý niệm........................................12
1.2.1 Ý niệm và ý niệm hóa ..................................................................................12
1.2.2 Miền, miền nguồn, miền đích và ánh xạ ......................................................13
1.2.3 Điển mẫu ......................................................................................................18
1.2.4 Tính nghiệm thân .........................................................................................19
1.2.5 Mơ hình tri nhận ..........................................................................................20
1.2.6 Lược đồ hình ảnh .........................................................................................21
1.2.7 Phân loại ẩn dụ ý niệm ...............................................................................23
1.3 Lâm Thị Mỹ Dạ, cuộc đời và thi phẩm ...................................................................27
1.3.1. Tác giả Lâm Thị Mỹ Dạ .............................................................................27
1.3.2. Thi phẩm Lâm Thị Mỹ Dạ ..........................................................................28
1.3.3. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đề tài và thi pháp .....................................................28
1.4. Tiểu kết ..................................................................................................................31
CHƢƠNG 2. KHẢO SÁT MÔ HÌNH TRI NHẬN CỦA ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ
TÌNH YÊU TRONG THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ XÉT TỪ MIỀN NGUỒN .............32
2.1. Dẫn nhập .................................................................................................................32
2.2. Hệ thống ẩn dụ ý niệm TÌNH U trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ .............................33
2.2.1. Mơ hình chiếu xạ giữa miền Nguồn và miền Đích TÌNH YÊU .................33
2.2.2. Các miền Nguồn tiêu biểu của ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU trong thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ ............................................................................................................................34
2.3. Cơ sở kinh kinh nghiệm làm nền tảng cho những mơ hình tri nhận của ẩn dụ ý
niệm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ....................................................................................49


2.4. Tiểu kết ...................................................................................................................52

CHƢƠNG 3. NHỮNG ẨN DỤ Ý NIỆM TRONG THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ XÉT
TỪ MIỀN ĐÍCH TÌNH YÊU .....................................................................................53
3.1. Dẫn nhập .................................................................................................................53
3.2. Các ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ......................................53
3.2.1. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ SAY ĐẮM KHAO KHÁT” ..............53
3.2.2. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ SỨC MẠNH THIÊN NHIÊN” ................58
3.2.3. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ GẦN GŨI”.........................................62
3.2.4. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” ...........................65
3.2.5. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ ÁNH SÁNG” ...........................................69
3.2.6. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ ĐỒ VẬT” .................................................73
3.2.7. Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ MÀU SẮC”..............................................77
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................80
KẾT LUẬN ..................................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................83
PHỤ LỤC .................................................................................................................. PL1


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Bảng 3.1:
Bảng 3.2:
Bảng 3.3:
Bảng 3.4:
Bảng 3.5:
Bảng 3.6:
Bảng 3.7:
Bảng 3.8:
Bảng 3.9:
Bảng 3.10:
Bảng 3.11:

Bảng 3.12:
Bảng 3.13:
Bảng 3.14:

Tên bảng
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH YÊU LÀ SỰ SAY ĐẮM KHAO KHÁT
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH U LÀ SỰ SAY ĐẮM
KHAO KHÁT
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH U LÀ SỨC MẠNH CỦA THIÊN NHIÊN
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ SỨC MẠNH
CỦA THIÊN NHIÊN
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH YÊU LÀ SỰ GẦN GŨI
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ SỰ GẦN GŨI
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH U LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH
TRÌNH
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH U LÀ ÁNH SÁNG
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH U LÀ ÁNH SÁNG
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH U LÀ ĐỒ VẬT

Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH U LÀ ĐỒ VẬT
Lược đồ chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền Đích của ẩn dụ
ý niệm TÌNH YÊU LÀ MÀU SẮC
Các thuộc tính được chiếu xạ từ miền Nguồn đến miền
Đích trong ẩn dụ ý niệm TÌNH YÊU LÀ MÀU SẮC

Trang
54
54
59
59
62
62
66
67
70
70
74
74
77
77


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Ngơn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) bắt đầu phát triển từ những
năm 1980 như một trường phái ngôn ngữ vận dụng kiến thức liên ngành: ngôn ngữ

- tư duy – văn hóa. Ngơn ngữ học tri nhận “nghiên cứu ngơn ngữ trên cơ sở vốn
kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách
thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật của thế giới khách quan đó”
[1]. Đó là hướng nghiên cứu mới thu hút sự tham gia đông đảo của giới ngôn ngữ
học hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Một trong những luận thuyết cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, nói như
Langacker, là ngữ nghĩa học, là sự ý niệm hóa. Mỗi khi chúng ta tạo sinh một phát
ngơn, một cách vô thức chúng ta sử dụng rất nhiều q trình ý niệm hóa. Theo các
nhà khoa học, ẩn dụ là một trong những công cụ tri nhận hữu hiệu để con người ý
niệm hóa các khái niệm trừu tượng. Ẩn dụ khơng cịn đơn thuần là hình thái ngơn
ngữ như quan điểm truyền thống, mà nó cịn là hình thái tư duy của con người về
thế giới. Ẩn dụ ý niệm vì thế trở thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm đặc
biệt trong nghiên cứu tri nhận ở Việt Nam và trên thế giới. Các ẩn dụ ý niệm được
khai thác, giải mã dựa trên các tri thức nền, các mơ hình văn hố, đặc trưng tâm lý,
tư duy tộc người, những ước định về văn hoá, tơn giáo… Từ đó, có thể thấy rằng,
nghiên cứu ngơn ngữ dưới góc nhìn ẩn dụ ý niệm là một hướng nghiên cứu mới,
làm sáng tỏ mở rộng biên giới của nghiên cứu liên ngôn ngữ trong mối quan hệ với
văn hóa, văn học.
Vấn đề ẩn dụ tri nhận trong thơ ca là một nhánh mới của ẩn dụ ý niệm.
Trước đây, ngơn ngữ thơ với đặc trưng là tính hình tượng thường là đối tượng
nghiên cứu của văn học. Ngơn ngữ học tri nhận và lí thuyết điển mẫu đã đặt ra vấn
đề nghiên cứu mơ hình tri nhận trong thơ, tạm gọi là thi pháp học tri nhận. Thi pháp
học tri nhận có tính lí thuyết về khơng gian tinh thần tích hợp với khái niệm pha
trộn giải thích các q trình sáng tạo trong tâm trí con người và liên quan các khái
niệm trừu tượng. Ý niệm của hình ảnh thơ được hiểu là thuộc về một hệ thống
logich trong khn khổ của mơ hình tri nhận lí tưởng hóa hay hình ảnh lược đồ. Thi
pháp học tri nhận đặt ra vấn đề nghiên cứu tư duy trong thơ ca và tìm hiểu các quá


2


trình tinh thần, q trình tâm lí của nhận thức
1.2. Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm trong các tác phẩm văn học là một trong
những hướng nghiên cứu mới của trào lưu ngôn ngữ học tri nhận theo hướng ứng
dụng liên ngành ngôn ngữ với văn chương. Trong văn học, ẩn dụ ý niệm chủ yếu
được hình thành qua con đường trực giác, nó xuất hiện cùng với chức năng hình
tượng hóa các khái niệm trừu tượng. Ẩn dụ ý niệm đem đến sự sáng tạo, mới mẻ
trong cách cảm nhận thế giới và mở ra cho con người những khả năng tìm tịi,
khám phá các mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng. Thoát khỏi sự phản ánh các sự
kiện bằng lối cấu trúc thông thường, ẩn dụ ý niệm làm cho trí tưởng tượng của
con người trở nên vô cùng phong phú.
1.3. Lâm Thị Mỹ Dạ - nhà thơ nữ hiếm hoi thời hiện đại, tự nguyện làm cuộc
hành trình đầy phiêu lưu, bất ngờ bằng cái nhìn dự cảm kỳ diệu thế giới lung linh,
huyền ảo và vững tin mình khơng lạc khỏi chính mình. Thế giới hình ảnh trong thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa
mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ,
nhằm làm cho những bài thơ của mình khơng chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khơ
khan, trừu tượng. Thế giới hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của
người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong
sáng. Việc tìm hiểu thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từ góc độ ẩn dụ ý niệm là một hướng
nghiên cứu mới mẻ, cần được thực hiện để góp phần khẳng định ẩn dụ ý niệm trong
thơ ca là một cách mở rộng về sự nhận thức thế giới theo những khung giả định của
kinh nghiệm cá thể trong cách sáng tạo của nhà thơ - nhìn từ cơ chế của hoạt động
tư duy. Hơn nữa, hiện nay cũng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách sâu
sắc và tồn diện, có hệ thống về ẩn dụ ý niệm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Vì những lí do trên, tác giả luận văn lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Ẩn dụ ý
niệm về tình yêu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm và ẩn dụ ý niệm trong thơ
Nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận đã bắt đầu từ những thập kỷ 80 của thế

kỉ XX với những tên tuổi của G. Lakoff, M. Johnson, G. Fauconnier, R. Langacker,
M. Turner, W. Chafe, M. Minsky...
Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự hình


3

thành của ngôn ngữ học tri nhận. Metaphors We live by của G.Lakoff và
M.Johnson [10] (xuất bản năm 1980) là cơng trình đầu tiên đánh dấu khuynh hướng
này. Mới đây, cơng trình đã được Nguyễn Thị Kiều Thu (2017) dịch qua tiếng Việt
khá công phu và chuyển tải được đúng tinh thần qua bản dịch Chúng ta sống bằng
ẩn dụ (NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017). Ẩn dụ từ đây đã
vượt qua ranh giới của ngôn ngữ học thuần túy, cho phép chúng ta sử dụng những
gì chúng ta biết về các trải nghiệm xã hội và vật chất của mình để hiểu được nhiều
vấn đề khác. Quan niệm mới về ẩn dụ rất khác với truyền thống đã được bắt đầu:
“Chúng tôi thấy rằng ẩn dụ tồn tại khắp nơi trong cuộc sống hằng ngày, không chỉ
trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành động. Hệ thống khái niệm thông
thường của chúng ta – thể hiện qua suy nghĩ cũng như hành động - về bản chất
mang tính ẩn dụ” [10]. Cơng trình cũng đã đưa ra các kiểu loại ẩn dụ tri nhận: ẩn dụ
cấu trúc, ẩn dụ định hướng (định vị), ẩn dụ bản thể và những vấn đề khác liên quan
đến ẩn dụ tri nhận.
Ở Việt Nam, tác giả Lý Tồn Thắng là người đầu tiên giới thiệu ngơn ngữ
học tri nhận một cách có hệ thống với khung lí thuyết cụ thể vào năm 2005 với
cơng trình Ngơn ngữ học tri nhận - từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt
(NXB Khoa học xã hội, Hà Nội). Trọng tâm cuốn sách là vấn đề tri nhận khơng
gian nên tác giả chưa dành một vị trí xứng đáng cho khái niệm ẩn dụ tri nhận, chưa
đi sâu vào nghiên cứu và khảo sát bước đầu về ẩn dụ tri nhận một cách đầy đủ nhất.
Tác giả Phan Thế Hưng trong hai bài viết “So sánh trong ẩn dụ” và “Ẩn dụ ý
niệm” đăng trên Tạp chí Ngơn ngữ năm 2007 [23], [24] đã trình bày quan niệm mới
của mình về ẩn dụ trên cơ sở phủ nhận quan điểm so sánh trong ẩn dụ: “ẩn dụ

không đơn giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu
trúc bề sâu của tư duy” [24, tr.12].
Năm 2009, trong cơng trình Khảo luận ẩn dụ tri nhận (NXB Lao động xã
hội), tác giả Trần Văn Cơ đã giới thiệu khái luận về ngôn ngữ học tri nhận và giới
thiệu lí thuyết ẩn dụ ý niệm ở Việt Nam qua việc tổng thuật một cách có hệ thống
và tồn diện những vấn đề trung tâm liên quan đến lí thuyết ẩn dụ ý niệm, gồm:
(1) Ý niệm và ẩn dụ ý niệm;
(2) Hoạt động sáng tạo của ẩn dụ tri nhận;
(3) Kinh nghiệm luận - phương pháp luận của học thuyết về ẩn dụ tri nhận;


4

(4) Phạm trù hóa thế giới.
Ẩn dụ ý niệm trở thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm đặc biệt trong
nghiên cứu tri nhận ở Việt Nam và được chia thành hai hướng: nghiên cứu trọng
tâm về ẩn dụ ý niệm hoặc có một phần nội dung dành cho ý niệm. Có thể kể đến
các luận án như Ẩn dụ dưới góc độ ngơn ngữ học tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt
và tiếng Anh) của Phan Thế Hưng [25], Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lý thuyết nguyên
mẫu (so sánh tiếng Việt và tiếng Pháp) của Võ Kim Hà [15], Nghiên cứu so sánh
đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngơn ngữ học tri nhận (trên
tư liệu tên gọi bộ phận cơ thể người) của Trịnh Thị Thanh Huệ [21], Ẩn dụ tri nhận
trong ca từ Trịnh Cơng Sơn của Nguyễn Thị Bích Hạnh [19], Ẩn dụ ý niệm trong
thơ Xuân Quỳnh của Phạm Thị Hương Quỳnh [37], Ẩn dụ ý niệm trong thơ và kịch
của Lưu Quang Vũ của Trần Thị Lan Anh [1], … Nghiên cứu về các ẩn dụ ý niệm
đã khẳng định và chứng minh yếu tố cơ thể hóa ngơn ngữ, kinh nghiệm nghiệm
thân và sự tác động của thế giới bên ngồi, cụ thể là văn hóa của cộng đồng sử
dụng ngôn ngữ đã tạo ra những ẩn dụ ý niệm vừa mang tính phổ quát, vừa mang
đặc trưng tư duy dân tộc.
Tại Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, nhiều luận văn thạc sĩ cũng

lựa chọn hướng nghiên cứu ẩn dụ tri nhân trong thơ ca. Có thể kể đến như “Ẩn dụ tri
nhận trong thơ Nguyễn Khoa Điềm” của Trần Nguyễn Thùy Trang (2019) [45]; “Ẩn
dụ ý niệm miền sông nước trong ca dao Nam Trung Bộ” của Phan Hoàng My (2020)
[29].
Những nghiên cứu trên đây đều là những tiền đề lí luận và thực tiễn để
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
Cảm nhận về thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận xét:
“Nếu Xuân Quỳnh là ánh nắng góc cạnh, cháy bỏng và dào dạt của vầng mặt trời
giữa ngọ, thì Lâm Thị Mỹ Dạ lại là ánh trăng êm đềm, dịu mát ở khoảng nửa đêm
về sáng” [16, tr.7). Hồ Thế Hà, một cây bút phê bình đã chỉ ra ra hướng đi mới của
nữ sĩ: “chính là sự quay về gấp gáp và quyết liệt hơn với nhu cầu khám phá những
giá trị vĩnh hằng của con người và cuộc sống. Hành trình ấy chân thật, dữ dội
nhưng đầy trách nhiệm đến nỗi nhà thơ phải trải lịng mình, trải hết vui buồn, tốt
xấu của chính mình để từ đó nhìn ra tha nhân, tâm tình cùng tha nhân” [16, tr. 35],


5

“Sức hấp dẫn và giá trị của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nằm trong đường biên của cái tôi
và cái ta, giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự nổ tung, giữa những gì đã
qua và những gì đang đến; bên cạnh cái hư ảo mong manh ta bắt gặp cái biếc xanh,
bỡ ngỡ. Và vì vậy, đó là tiếng nói của sự va chạm, sinh thành. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
không xa rời thi pháp truyền thống nhưng luôn phá và thay để làm giàu có cái phần
hiện đại cần thiết của thơ. Thơ chị tự nhiên cứ tưởng thốt ra là thành, không cần sửa
chữa nhiều lắm nhưng đó là cái tự nhiên của một tâm hồn đã chín, của những tứ thơ
câm lặng, lãng quên được đánh thức sau giấc ngủ mặt trời, lúc mà cái tôi – nghệ sĩ
được lên ngôi cùng với giấc mơ phát sáng màu huyền thoại.” [17, tr. 39].
Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng đã từng khẳng định nét riêng của Mỹ Dạ với
“tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai thác, cách lọc tìm chất thơ đời

sống” tạo nên “một phẩm chất trữ tình khá thuần khiết” [34, tr.1].
Fred Marchant từng nhận xét: “Thơ của chị là bản di chúc thơ của những
hiểm nguy mà họ đối mặt. Đó là cốt lõi của ẩn dụ của Dạ đối với nỗi buồn không
tên.” [dẫn theo 28].
Ngồi ra, cịn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về nhà thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ. Các nghiên cứu này chưa tập trung đi khảo sát các ẩn dụ tri nhận ở một tác
giả cụ thể dựa trên lí thuyết về ngơn ngữ học tri nhận. Có thể kể đến như Nguyễn
Thị Thành nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm Thị Thúy
Vinh viết về Đặc trưng nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Hà Duy Linh viết về Cái
tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Nguyễn Thị Thủy bàn về Ngôn ngữ thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những nét đặc trưng, sự vận động
cùng những đóng góp của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cho nền văn học nước nhà cả về
góc độ văn học và ngơn ngữ học. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đó chính là “khoảng
trống” để chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu hiện tượng ẩn dụ ý niệm về
tình u thơng qua các mơ hình ẩn dụ ý niệm, các kiểu ẩn dụ ý niệm và các biểu
thức ngơn từ được ý niệm hóa về tình yêu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.


6

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phương diện nội dung, luận văn khảo sát các dạng ẩn dụ ý niệm tiêu biểu
nhất thơng qua miền đích là TÌNH U, miền nguồn và các mơ hình ý niệm liên
quan đến miền đích.
Về nguồn tư liệu khảo sát, luận văn này được lấy từ cuốn Lâm Thị Mỹ Dạ

tuyển tập, NXB Hội Nhà văn, 2011.
4. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, luận văn nhằm đạt được những mục đích
sau:
- Hệ thống hóa những kiến thức lí luận về ẩn dụ ý niệm và cơ chế nhận biết
ẩn dụ ý niệm;
- Tiến hành khảo sát ẩn dụ ý niệm tình u trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ dưới
góc độ ngơn ngữ học tri nhận, đồng thời qua cơ chế của ẩn dụ và nhân sinh quan
để khẳng định những đóng góp của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ về mặt sử dụng ngôn
ngữ nghệ thuật.
5. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
Luận văn có sử dụng kết hợp các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phƣơng pháp miêu tả
Từ góc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận, luận văn tiến hành miêu tả ẩn dụ ý
niệm tình yêu để phát hiện những giá trị ẩn sâu mà tác giả gửi gắm trong thơ của
mình.
5.2. Thủ pháp phân tích ngữ nghĩa
Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa bề mặt ngôn từ và nghĩa biểu trưng của
hiện tượng ẩn dụ xuất hiện trong ngữ cảnh câu thơ để thấy giá trị tri nhận - văn hóa
của chúng.
5.3. Thủ pháp thống kê, phân loại
Trên cơ sở tập hợp ngữ liệu về các loại ẩn dụ, luận văn tiến hành phân loại
chúng theo các mơ hình phạm trù ý niệm để đưa về hệ thống các ẩn dụ ý niệm cơ
sở, ẩn dụ ý niệm phái sinh, lí giải các ý niệm trong từng mơ hình ẩn dụ được nghiên
cứu. Cịn phương pháp thống kê sẽ giúp thấy mức độ phổ biến của từng kiểu ẩn dụ
ý niệm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.


7


6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về phương diện lí thuyết
Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần củng cố lí thuyết của
ngơn ngữ học tri nhận, góp phần làm sáng tỏ những nét độc đáo trong phong cách
thơ của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đồng thời khẳng định giá trị của phương thức ẩn
dụ trong việc xây dựng văn bản nghệ thuật. Qua đó cũng góp phần thúc đẩy việc
nghiên cứu khuynh hướng lí thuyết về ngơn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, góp
phần chứng minh ẩn dụ ý niệm khơng chỉ là hình thái tu từ mà còn là vấn đề của
tư duy, là một cơ chế quan trọng để con người nhận thức thế giới.
6.2. Về phương diện thực tiễn
Luận văn giúp ta có cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm văn học dựa trên mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là con đường tiếp cận ngơn ngữ tác phẩm
ở cấp độ từ ngữ và ý niệm. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mở ra một
hướng phân tích mới cho việc giảng dạy, tìm hiểu thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong nhà
trường.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn được
bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và những vấn đề liên quan
Chương 2: Khảo sát mơ hình tri nhận của ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ xét từ miền Nguồn.
Chương 3: Những ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xét từ
miền Đích tình u.


8

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm được coi là là một cách hiểu thế giới trong mối

liên hệ của nó với ý chí và hoạt động sáng tạo của con người. Trong Chương 1 của
luận văn chúng tôi tập trung đến các vấn đề lí luận cơ bản của ẩn dụ ý niệm, trong
đó nhấn mạnh đến thi pháp học tri nhận dựa trên lịch sử nghiên cứu có liên quan
đến đề tài. Với cách làm này, giúp chúng tơi có cách nhìn bao qt, tồn diện hơn
về các cơng trình nghiên cứu đã có và tiếp thu những thành tựu khoa học của các
nhà nghiên cứu đi trước. Từ đó, chúng tơi đã xây dựng cơ sở lí luận làm định
hướng cho việc khảo sát ẩn dụ ý niệm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong các chương
tiếp theo.
1.1. Ẩn dụ và ẩn dụ ý niệm
1.1.1. Ẩn dụ theo quan niệm truyền thống
Trong ngôn ngữ học truyền thống, ẩn dụ vốn được xét trên hai phương diện,
thứ nhất là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học như một phương thức chuyển
nghĩa; thứ hai là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, nó là một biện pháp
nghệ thuật.
Theo các nhà ngôn ngữ học, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến
trong tất cả các ngôn ngữ. Đó là phép sử dụng từ ngữ được chuyển nghĩa dựa trên
cơ sở tương đồng giữa một thuộc tính nào đó của cái dùng để nói và cái muốn nói.
Nói cách khác, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi giữa hai sự vật có mối quan hệ tương
đồng. Để làm rõ hơn điều này, chúng tôi nêu lên một số định nghĩa về ẩn dụ như
sau:
Nguyễn Văn Tu cho rằng: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên của
một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó chúng
ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, ta theo tưởng tượng của ta mà
gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ biểu thị trước thơi. Chính
nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các sự vật khác
nhau.” [39].
Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này bằng tên
một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng” [4].
Sau này ơng giải thích cụ thể hơn như sau: “Cho A là một hình thức ngữ âm,



9

X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của X (tức X là ý nghĩa biểu vật
chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y
(để biểu thị Y), nếu như X và Y có nét nào đó giống nhau” [5, tr.145].
Nguyễn Thiện Giáp cũng cho rằng: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào
sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau” [12].
Đào Thản đã giải thích khá cụ thể, rõ ràng ẩn dụ cũng theo quan niệm như
vậy trong mối quan hệ với sự so sánh: “Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự
giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất hoặc chức năng của hai đối
tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và phần so
sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh” [37, tr.31].
Nguyễn Đức Tồn có quan niệm: “Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi
dựa trên sự đồng nhất hoá các sự vật, hiện tượng, tính chất… khi tư duy liên tưởng
của con người phát hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét hay một đặc điểm nào
đó” [39].
Ẩn dụ không chỉ là biện pháp làm giàu từ vựng mà còn làm cho nghĩa của từ
ngày càng đa dạng, tinh tế không chỉ trong hệ thống ngôn ngữ, trong văn chương,
và trong cả lời ăn tiếng nói hàng ngày của chúng ta.
Hiện nay, ẩn dụ có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như triết
học, tâm lí học,… Nó “tạo ra nhiều khuynh hướng, trường phái ngơn ngữ học, lí
thuyết thơng tin, xúc tiến sự tác động lẫn nhau và hội nhập các tư tưởng khoa học
mà hệ quả là hình thành khoa học tri nhận. Ẩn dụ là chìa khóa mở ra sự hiểu biết
những cơ sở của tư duy và các quá trình nhận thức những biểu tượng tinh thần về
thế giới” [3, tr.202].
1.1.2. Ẩn dụ theo quan điểm tri nhận
Ẩn dụ theo quan điểm tri nhận thường được gọi là ẩn dụ ý niệm hay ẩn dụ tri
nhận. Lakoff và Johnson cho rằng: “Hệ thống ý niệm đời thường của chúng ta, mà
trong khn khổ của nó chúng ta suy nghĩ và hành động, về bản chất là ẩn dụ”; “Ẩn

dụ về bản chất chủ yếu mang tính ý niệm; Ẩn dụ ý niệm đặt cơ sở trên trải nghiệm
hằng ngày” [10, tr.300]. Như vậy, ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta
không chỉ dùng các ẩn dụ được quy ước hoá và từ vựng hoá những ẩn dụ ý niệm
(conceptual metaphor) bằng một cách thuần tuý ngôn ngữ học mà sự thật là ta có suy
nghĩ hay ý niệm hố phạm trù “đích” (thơng thường là miền cụ thể) thơng qua phạm


10

trù “nguồn” (thông thường miền trừu tượng hơn). Lý thuyết chung của ẩn dụ nằm
trong những đặc điểm của sự xác lập khái qt có tính liên tưởng và dựa trên kinh
nghiệm của con người đối với thế giới. Trong q trình đó, những khái niệm trừu
tượng hàng ngày như thời gian, trạng thái, thay đổi, nguyên nhân, kết quả, mục
đích... đều trở nên có tính ẩn dụ.
Ngơn ngữ học truyền thống coi ẩn dụ là một phương tiện tu từ, là một cách
nói bóng bẩy dựa trên sự tương đồng giữa hai sự vật, hiện tượng. Ngôn ngữ học tri
nhận khẳng định ẩn dụ không chỉ là phương tiện tu từ mà còn là phương thức của
tư duy, là cơng cụ để ý niệm hóa thế giới. “Theo Lakoff, ẩn dụ ý niệm (conceptual
metaphor) là các chiếu xạ có tính hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn là
một phạm trù trải nghiệm được chiếu xạ hay phóng chiếu vào miền đích là một
miền trải nghiệm khác” [4, tr.240].
Lakoff và Johnson cho rằng, bản chất của ẩn dụ là “hiểu và trải nghiệm một
loại vấn đề trong thuật ngữ của một loại vấn đề khác” thông qua sự chiếu xạ
(mapping) từ lĩnh vực cụ thể sang lĩnh vực trừu tượng. Trong tâm trí chúng ta có
một số cấu trúc ẩn dụ được ý niệm hóa. Họ đưa ra một số luận điểm chính về đặc
trưng của ẩn dụ ý niệm, theo đó bản chất của ẩn dụ ý niệm hoàn toàn khác với ẩn
dụ truyền thống [37, tr.35]:
(1) Ẩn dụ là cơ chế thơng qua đó chúng ta hiểu những khái niệm trừu tượng
và thực hiện tư duy trừu tượng;
(2) Nhiều đối tượng kể từ những điều đơn giản nhất, đời thường nhất đến

những lí thuyết khoa học thâm sâu nhất chỉ có thể hiểu được thơng qua ẩn dụ;
(3) Ẩn dụ về bản chất mang tính ý niệm chứ khơng mang tính ngơn ngữ;
(4) Ngơn ngữ ẩn dụ là sự thể hiện bề mặt của ẩn dụ;
(5) Mặc dù phần lớn hệ thống ý niệm của chúng ta mang tính ẩn dụ, song
cách hiểu ẩn dụ dựa trên cơ sở cách hiểu phi ẩn dụ;
(6) Ẩn dụ cho phép chúng ta hiểu đối tượng tương đối trừu tượng hoặc đối
tượng phi cấu trúc hóa thơng qua đối tượng cụ thể hoặc ít ra thơng qua đối tượng đã
được cấu trúc hóa cao hơn;
(7) Ẩn dụ chiếu xạ qua các miền ý niệm: miền nguồn và miền đích;
(8) Hệ thống ý niệm chứa hàng nghìn lần chiếu xạ ẩn dụ quy ước làm hình
thành tiểu hệ thống cấu trúc cao của hệ thống ý niệm;


11

(9) Hệ thống ý niệm quy ước chủ yếu là vô thức, tự động và được sử dụng
thoải mái;
(10) Ẩn dụ ý niệm không dựa trên cơ sở so sánh tương đồng;
(11) Ẩn dụ thi ca phần lớn là sự mở rộng hệ thống quy ước thường nhật tư
duy ẩn dụ của chúng ta. Các ý niệm ẩn dụ có thể vượt ra khỏi phạm vi của phương
thức tư duy thông thường để bước vào lĩnh vực tư duy và ngôn ngữ tu từ, thơ ca, mĩ
tự pháp;
Những ý niệm thuộc về miền Đích thường trừu tượng và khơng thể tiếp xúc
bằng các giác quan, chúng ta chỉ cảm nhận và tri nhận chúng bằng trí óc, cụ thể hơn
là bằng những kinh nghiệm, trải nghiệm của mình. Khi dùng khái niệm Miền,
chúng ta phải hiểu rằng, ẩn dụ không đề cập đến những đối tượng, sự vật cụ thể mà
là những không gian tư duy phức tạp. Trong quá trình nhận thức, những khơng gian
nay khơng thể cảm nhận bằng các giác quan thông thường mà phải thông qua ẩn dụ
để xác lập mối tương quan với những tư duy đơn giản, cụ thể hơn. Hay nói cách
khác ẩn dụ phương tiện để chuyển đổi một không gian tư duy trừu tượng thành một

không gian tư duy cụ thể và có thể cảm nhận trực tiếp.
Ẩn dụ là cơ chế chủ yếu trong tư duy ý niệm của con người, phản ánh cách
con người nhìn, nghĩ và nhận biết thế giới thơng qua lăng kính ngơn ngữ và văn
hóa dân tộc. Trong đó, “các ý niệm có cấu trúc trường - chức năng được tổ chức
theo mơ hình trung tâm (hạt nhân) và ngoại vi. Hạt nhân là khái niệm nằm ở trung
tâm của trường – chức năng và mang tính phổ qt, tồn nhân loại. Bao quanh khái
niệm hạt nhân là trường ngoại vi bao gồm một số yếu tố tương liên lẫn nhau tác
động đến khái niệm nằm ở trung tâm ý niệm.” [27, tr.53].
Theo các nhà khoa học tri nhận, ý niệm thường bao gồm hai thành tố: hình
bóng ý niệm (concept profile) và hình nền ý niệm (concept base, concept frame).
Trong đó, hình bóng ý niệm (concept profile) là ý niệm được biểu đạt bởi từ đã cho
như BÁN KÍNH, ĐƯỜNG KÍNH, TÂM; hình nền ý niệm (concept base, concept
frame) là tri thức hay cấu trúc ý niệm được biểu đạt bởi từ đã cho, như trường hợp
HÌNH TRỊN. Ý niệm Hình là BÁN KÍNH trong mối quan hệ với ý niềm Nền là
HÌNH TRỊN, bởi vì bán kính khơng phải là một đường thẳng bất kì nào mà nó là
một đường nối từ tâm ra đến đường trịn. Có thể thấy, trong cấu trúc ý niệm vừa
phân tích ý niệm BÁN KÍNH có liên hệ chặt chẽ với ý niệm HÌNH TRỊN. Như


12

vậy, hình bóng ý niệm sẽ trở nên vơ nghĩa nếu khơng có hình nền ý niệm. Để xác
định ý nghĩa của biểu thức ngôn ngữ phải được xác định có tính đến cả hình bóng ý
niệm và hình nền ý niệm hay cả ý niệm lẫn khung/lĩnh vực.
1.2. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ ý niệm
1.2.1 Ý niệm và ý niệm hóa
Thuật ngữ đầu tiên và quan trọng nhất của ngôn ngữ học tri nhận là ý niệm,
bởi lẽ, theo khoa học tri nhận, con người bình thường (khơng phải là nhà khoa học)
suy nghĩ, tư duy chính là bằng ý niệm (khơng phải bằng khái niệm). Ý niệm được
hiểu là một đơn vị của ý thức.

Theo Nguyễn Thiện Giáp, “Ý niệm là những biểu tượng tinh thần phản ánh
chúng ta tri giác thế giới xung quanh và tương tác nó. Ý niệm bao gồm cả những
sự liên tưởng và những ấn tượng là một trong những kinh nghiệm của người sử
dụng ngôn ngữ. Rõ ràng, những thuộc tính đó nằm ngồi những miêu tả khách
quan của khái niệm. Ý niệm bao quát các bình diện chức năng, dụng học, tương
tác và xã hội – văn hóa của ngơn ngữ trong sử dụng. Ý niệm khơng chỉ là kết quả
của q trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người mà cịn là sản
phẩm của q trình tri nhận, nó vừa có tính nhân loại vừa có tính dân tộc vì nó
gắn chặt với ngơn ngữ và văn hóa của dân tộc.” [14, tr.601]. Từ đó có thể thấy ý
niệm có cấu trúc nội tại bao gồm một mặt là nội dung thông tin về thế giới hiện
thực và thế giới tưởng tượng, mang những nét phổ quát, mặt khác, bao gồm tất cả
những gì làm cho nó trở thành sự kiện của văn hố, nghĩa là nó chứa đựng những
nét đặc trưng văn hoá dân tộc.
Cơ sở của ý niệm là kinh nghiệm cảm tính trực tiếp mà con người thu nhận
được thơng qua q trình tri giác thế giới bằng các cơ quan cảm giác, thông qua
hoạt động tư duy và hoạt động giao tiếp dưới hình thức ngơn ngữ. Ẩn dụ tri nhận
(hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm - cognitive/conceptual metaphor) là một trong những
hình thức ý niệm hố, một q trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành
những ý niệm mới mà khơng có nó thì khơng thể nhận được tri thức mới.
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng:“Ý niệm hóa có thể được hiểu là quá trình hình
thành ý niệm. Ý niệm là sự phản ánh những thuộc tính thơng thường và thuộc tính
bản chất của sự vật trên thế giới trong não bộ, được hình thành trên cơ sở những
khái quát trừu tượng và được đánh dấu bằng các từ. Quá trình hình thành ý niệm là


13

q trình phát triển của nhận thức từ cảm tính sang lí tính, tức là từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng. Q trình phạm trù hóa và q trình ý niệm hóa liên
quan chặt chẽ với nhau, nhưng khơng đồng nhất. Phạm trù hóa thì tập hợp các đơn

vị giống hoặc tương tự nhau về mặt nào đó để hình thành các phạm trù tri nhận, cịn
ý niệm hóa thì trừu xuất những đơn vị tối giản trong kinh nghiệm của con người
thành nội dung của các đơn vị ngơn ngữ” [14, tr.602].
Tác giả Lý Tồn Thắng cho rằng: “Đối với tâm lí học và ngơn ngữ học tri
nhận, ý niệm trước hết không phải và không chỉ là kết quả của quá trình tư duy, quá
trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người; mà nó là sản phẩm của
hoạt động tri nhận, nó là cái chứa đựng tri thức hay sự hiểu biết của con người về
thế giới trên cơ sở kinh nghiệm từ đời này qua đời khác, nó vừa mang tính nhân
loại phổ quát vừa mang tính đặc thù dân tộc (do chỗ nó gắn kết chặt chẽ với ngơn
ngữ và văn hóa của dân tộc đó)” [dẫn theo 43, tr.115].
Ý niệm ngồi mang đặc trưng miêu tả, cịn mang cả đặc trưng tình cảm, ý
chi và hình tượng, nó là kết quả của sự tác động qua lại của một loạt những nhân tố
như truyền thống dân tộc, tôn giáo, hệ tư tưởng, kinh nghiệm sống, hình tượng
nghệ thuật, cảm xúc và hệ thống giá trị. Ý niệm tạo ra một lớp văn hóa trung gian
giữa con người và thế giới, nó được cấu thành từ tri thức tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo lý, luật pháp, phong tục tập quán và một số thói quen mà con người tiếp thu
được với tư cách là thanh viên của xã hội đó [dẫn theo 19, tr.35].
Lakoff và Johnson cho rằng ẩn dụ tiêu biểu cho sự ý niệm hóa trong ngơn
ngữ. Các ý niệm trừu tượng khơng thể hồn chỉnh khi khơng có ẩn dụ. Mỗi phát
ngơn được tạo ra đều có q trình ý niệm hóa, thơng qua miền kinh nghiệm của
con người.
1.2.2 Miền, miền nguồn, miền đích và ánh xạ
1.2.2.1 Miền
Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học tri nhận định nghĩa “Miền (hay miền ý
niệm, miền kinh nghiệm): là một thực thể ý niệm được sử dụng trong lí thuyết ẩn
dụ ý niệm và những hướng tiếp cận liên quan tới chiếu xạ ý niệm, như hướng tiếp
cận hoán dụ ý niệm và lí thuyết ẩn dụ sơ cấp. Miền ý niệm có cấu trúc tri thức
tương đối phức tạp có liên quan đến các phương diện thống nhất trong kinh
nghiệm. Ví dụ: miền ý niệm HÀNH TRÌNH được giả thiết bao gồm những đại diện



14

cho những thứ như du khách, phương thức di chuyển, tuyến đường, điểm đến,
những khó khăn trên đường, v.v… Một ẩn dụ ý niệm phục vụ cho thiết lập những
tương ứng được gọi là ánh xạ xuyên miền giữa một miền Nguồn và một miền Đích
bằng cách phóng chiếu các đại diện từ một miền ý niệm lên những đại diện tương
ứng ở một miền ý niệm khác [dẫn theo 27, tr.15].
Như vậy, miền có thể được hiểu là các bình diện kinh nghiệm khác nhau của
con người về thế giới xung quanh hay là kiến thức nền mà con người tiếp nhận qua
trải nghiệm các lĩnh vực trong cuộc sống.
1.2.2.2 Miền Nguồn, miền Đích
Theo quan điểm ngơn ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm là một cơ chế tri nhận
nghĩa là những khái niệm có tình trừu tượng được thay thế bằng những khái niệm
cụ thể hơn. Các nhà khoa học ngôn ngữ tri nhận đặt tên là ẩn dụ ý niệm để phân
biệt với ẩn dụ truyền thống và sử dụng chữ in hoa để để ghi các biểu thức ẩn dụ ý
niệm. Ví dụ: TÌNH U LÀ ĐỒ VẬT, TÌNH YÊU và ĐỒ VẬT là hai miền ý
niệm của một ẩn dụ, trong đó ý niệm TÌNH U là miền Đích cịn ý niệm ĐỒ
VẬT là miền Nguồn. Miền Nguồn ĐỒ VẬT sẽ mang những thuộc tính nổi trội của
nó như cách trao đồ vật, nhận đồ vật, hành động với đồ vật,… biểu đạt qua các biểu
thức ngôn ngữ để làm rõ nghĩa cho miền Đích TÌNH U.
Ẩn dụ ý niệm được định nghĩa như là sự thông hiểu một ý niệm này thông
qua một miền ý niệm khác. Nói một cách ngắn gọn, mơ hình của ẩn dụ ý niệm là
“A là B”, trong đó A là ý niệm Đích, B là ý niệm Nguồn. Từ đó có thể thấy một ý
niệm ẩn dụ gồm có hai miền: miền Nguồn và miền Đích. Ý niệm Đích được hiểu
thơng qua ý niệm Nguồn.
“Miền ý niệm có nhiều biểu thức ngơn ngữ mang tính ẩn dụ để làm rõ nghĩa
cho miền ý niệm khác gọi là miền Nguồn, còn miền ý niệm được hiểu và được làm
cụ thể hóa gọi là miền Đích.” [dẫn theo 37, tr.52]. Ví dụ CUỘC HÀNH TRÌNH,
ÁNH SÁNG, … là miền Nguồn, mang tính cụ thể hơn cịn TÌNH U là miền

Đích, mang tính trừu tượng hơn.
Kinh nghiệm của con người về thế giới xung quanh là cơ sở để lĩnh hội
những miền Nguồn trừu tượng. Chúng ta có thể hiểu vì sao trong hầu hết các ẩn dụ
ý niệm khơng thể có sự nghịch đảo cho nhau cũng như miền Nguồn, miền Đích
trừu tượng như nhau. Chúng ta khơng thể nói ý tưởng như tình u như một cuộc


15

hành trình. Đây được xem là tính đơn tuyến của ẩn dụ ý niệm, tức là ánh xạ được
cấu trúc từ miền Nguồn sang miền Đích và khơng có chiều ngược lại.
1.2.2.3 Ánh xạ
Ánh xạ (chiếu xạ) là một cơ chế tri nhận bao gồm hai miền tri nhận khác
nhau mà mối quan hệ tương tác là sơ đồ ánh xạ (mapping), trong đó một miền
(thường là miền cụ thể) được vận dụng để hiểu một miền khác (thường là miền trừu
tượng hoặc ít quen thuộc hơn). Miền được ánh xạ gọi là miền Nguồn, và miền được
sơ đồ ánh xạ tác động đến là miền Đích. Ý niệm trong miền ĐÍCH chỉ thu nhận
một bộ phận, chứ khơng phải tồn bộ những thuộc tính vốn có của ý niệm
NGUỒN.
Ngơn ngữ học truyền thống coi ẩn dụ là một phương tiện tu từ, là một cách
nói bóng bẩy dựa trên sự tương đồng giữa hai sự vật, hiện tượng. Ngôn ngữ học tri
nhận khẳng định ẩn dụ không chỉ là phương tiện tu từ mà còn là phương thức của
tư duy, là cơng cụ để ý niệm hóa thế giới. “Theo Lakoff, ẩn dụ ý niệm (conceptual
metaphor) là các chiếu xạ có tính hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn là
một phạm trù trải nghiệm được chiếu xạ hay phóng chiếu vào miền đích là một
miền trải nghiệm khác” [10, tr.240].
Lakoff và Tunner đã khái quát những bản chất điển hình của sự chiếu xạ như
sau [dẫn theo 3, tr.71]:
(1) Sự chiếu xạ phi đối xứng và mang tính bộ phận. Ý niệm ẩn dụ khơng
phản ánh và cũng khơng thể phản ánh được tất cả các bình diện của ý niệm xuất

phát. Khi chúng ta nói rằng một ý niệm nào đó được sắp xếp làm ẩn dụ là có ý nói
nó chỉ xếp đặt một bộ phận thơi và có thể được sử dụng mở rộng bằng phương thức
khơng phải võ đồn mà hồn tồn xác định.
(2) Chiếu xạ là một quá trình tập hợp những thông tin từ các thực thể ở miền
Nguồn sang các thực thể ở miền Đích.
(3) Chiếu xạ ẩn dụ theo nguyên tắc một hướng: sơ đồ hình ảnh của miền
Nguồn được chiếu xạ lên miền Đích chứ khơng ngược lại.
(4) Sự chiếu xạ khơng võ đốn mà có cơ sở trong cơ thể con người, trong
kinh nghiệm thường nhật và tri thức.
(5) Có hai loại chiếu xạ: chiếu xạ ý niệm và chiếu xạ hình ảnh, cả hai đều
phục tùng nguyên tắc bất biến.


16

(6) Chiếu xạ ẩn dụ thay đổi theo phương thức phổ qt: một số có tình phổ
qt, một số khác được phổ biến rộng rãi, một số nữa thì được quy định bởi văn
hóa.
Cơ chế của ánh xạ được hình thành và kích hoạt dựa trên nền tảng tri thức,
kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Trong mối quan hệ tương quan giữa
miền Nguồn và miền Đích trong mơ hình ẩn dụ ý niệm thì một miền Đích có thể
tương ương với nhiều miền Nguồn. Cac miền Nguồn cấu trúc hóa nội dung cho
miền Đích, làm sáng tỏ các bình diện khác nhau của miền Đích. Đơi khi để hiểu
trọng vẹn một miền Đích chúng ta cần sự kết hợp giữa nhiều miền Nguồn.
Trong một ẩn dụ được nhắc đến nhiều các nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm TÌNH
YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH (Lakoff và Johnson), chúng ta có thể nhận biết các
miền sau:
Miền trên

Sự CHUYỂN




ĐỘNG



Cảm xúc



Miền dưới

Cuộc HÀNH



TÌNH U



Miền Đích

TRÌNH
Miền Nguồn

Chúng ta sẽ thấy rõ từ ngữ để chỉ TÌNH YÊU qua cách dùng những từ ngữ
đường đi qua những ví dụ sau [dẫn theo 36, tr.20-21]:
(1) Look how far we’re come.


Xem chúng ta đã đi đến đâu.

(2) We’re at the crossroads

Chúng ta đang ở ngã ba đường.

(3) We’ll just have to go our separate
ways.
(4) We can’t turn back now.

Chúng ta sẽ phải đi những lối riêng.
Chúng tôi không thể quay lại được
nữa rồi.


17

(5) I don’t think this relationship is

Tôi không nghĩ mối quan hệ này sẽ

going anywhere.

đi đến đâu.

(6) Where are we?

Chúng mình đang ở đâu vậy?

(7) We’re stuck.


Chúng ta bị kẹt rồi.

(8) The relationship is s dead-end street. Mối quan hệ đã ở cuối con đường.
(9) We’re just spinning our wheels.
(10) Our marriage is on the rocks.
(11) We’re gotten of the track.
(12) Their relationship is foundring.

Chúng ta chỉ đang dẫm chân tại chỗ.
Cuộc hôn nhân của chúng tôi đang
trên bờ vực thẳm.
Chúng ta đi chệch hướng rồi.
Mối quan hệ của họ đang chìm
nghỉm

Sơ đồ ánh xạ đã chuyển nhiều tính chất từ miền Nguồn CUỘC HÀNH
TRÌNH sang miền Đích TÌNH U. Từ các ví dụ nêu trên chúng ta có thể phân
tích được những điểm tương ứng sau đây:
Miền nguồn

Miền đích

CUỘC HÀNH TRÌNH

TÌNH U

Du khách

Những người đang u


Phương tiện giao thơng

Mối tình

Cuộc hành trình

Những sự kiện trong quan hệ yêu
đương

Độ dài của cuộc hành trình

Thời gian duy trì tình yêu

Những trở ngại trên hành trình

Những biến cố gặp phải trong tình yêu


×