Phần mở đầu
I.Lí do chọn đề tài:
Kinh tế là một môn khoa học xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử lồi
người,cùng với các mơn koa học khác như:tốn học,triết học,thiên văn học…
Nhưng những tư tưởng kinh tế trong hời kì cổ đại chỉ mới phản hình thức bề
ngồi của các hiện tượng và quá trình kinh tế,chưa đi sâu phân tích bản chất
bên trong,nên chưa hình thành một hệ thống lí luận.
Dưới xã hội phong kiến,các tư tưởng kinh tế khơng những được phát huy
mà cịn bị thụt lùi,bị kìm hãm.Chỉ đến thời kì cuối xã hội phong kiến,các cuộc
phát kiến địa lí đã thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển và phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ra đời.Lúc đó các tư tưởng kinh tế mới trở thành mơt hệ
thống lí luận.Trong lịch sử phát triển các hệ thống kinh tế,đã có nhiều học
thuyết kinh tế được các nhà kinh tế lúc bấy giờ xây dựng thành một hệ thống
lí luận.Từ thế kỉ XV đến những năm 20 của thế kỉ XIX, có thể kể đến các học
thuyết kinh tế nổi bật sau:Học thuyết kinh tế trọng thương (từ XV-cuối thế kỉ
XVII) với đại diện là Straford,Thomas Mun, A.Montchretien.Học thuyết kinh
tế kinh tế tư sản cổ điển Anh với đại diện tiêu biểu: W.Petty, A.Smith,
D.Ricardo.Học thuyết kinh tế học tầm thường với các đại biểu:Say,
Mathus,Senion.Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng với các
đại biểu:Thomas More, Saint Simon, H.Furier...Và đỉnh cao là học thuyết
kinh tế của Mác-Lê nin.Học thuyết kinh tế của Lê-nin là một trong những học
thuyết kinh tế tiêu biểu thời kì này.
Hệ thống lí luận kinh tế của Lê-nin có sự kế thừa, phát triển thêm một số
lí luận kinh tế của Mác – Ănghen và tìm ra những lí luận mới.
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển ở trình độ cao địi hỏi chúng ta
càng phải hiểu rõ quy luật phát triển kinh tế của mỗi nước ở từng thời kì.
1
II.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những lí luận kinh tế cơ bản của Lê-nin giúp chúng ta có một
cách nhìn toàn diện về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt trong
thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền và tư bản độc quyền nhà nước có mối liên
hệ với chủ nghĩa tư bản ngày nay. Lí luận kinh tế của Lê-nin có những điểm
hay khi lí luận về chủ nghĩa xã hội. Đối với sinh viên khối lí luận trong các
trường đại học việc nghiên cứu những lí luận kinh tế của Lê-nin giúp chúng ta
có nhiều kiến thức thú vị. Nghiên cứu lí luận kinh tế của Lê-nin giup chúng ta
có tầm nhìn mới về các vấn đề kinh tế một cách khách quan và cơ bản nhất.
V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: “Muốn đề cập tới vấn đề một cách đúng đắn, nghiêm
chỉnh, chắc chắn thì trước hết phải nhìn tồn bộ lịch sử phát triển của nó”.
III.Đối tượng nghiên cứu
“Những lí luận kinh tế cơ bản” của “Lê-nin”.
IV.Phạm vi nghiên cứu
Những lí luận kinh tế cơ bản của Lê-nin
V.Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp logic và lịch sử
-Phương pháp biện chứng duy vật
-Phương pháp phân tích và tổng hợp
-Phương pháp thống kê
2
Phần nội dung
Chương I: Sự ra đời học thuyết kinh tế của Lê-nin
I.Tiểu sử
V.I.Lê-nin sinh ngày 22-4-1870 ở Simbirsk nay là Ulianov, V.I.Lê-nin tên
thật là Vladimir Ilits Ulianov. Năm 1887, Lê-nin tốt nghiệp xuất sắc bậc trung
học và được nhận huy chương vàng nên có thể vào thẳng bất kì trường đại
học nào của nước Nga. Ông xin vào học khoa Luật của Đại học Tổng hợp
Kadan. Tại đây, Lê-nin tham gia nhóm cách mạng trong sinh viên.Sau khi tốt
nghiệp khoa Luật,Lê- nin làm trợ lí luật ở Xamara. Tháng 8-1893,chuyển về
Pêtecbua và vào mùa thu năm 1895, Lê-nin thành lập ở Petecbua Hội liên
hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp cơng nhân, nhằm tập hợp các nhóm cách
mạng ở Petecbua. Ở Matxcova, Kiep, Iaroslap và những thành phố khác cũng
thành lập các hội liên hiệp tương tự. Cũng trong thời gian này Lê-nin đã gặp
Nadegioda Konstantinovna Krupskaia. Hai người yêu nhau và trở thành bạn
đời.Đêm ngày 9-12-1895, do bị tố giác, nhiều thành viên của Hội liên hiệp,
trong đó có Lê-nin bị bắt. Sau 14 tháng bị cầm tù, tháng 2-1897, Lê-nin bị đi
đày ở Susenkoe (miền Đông Xibiri). Trong thời gian lưu đày, Lê-nin đã viết
xong hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn khá đồ sộ:Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga (1896-1899).
Năm 1900, thời hạn lưu đày kết thúc, Người lại tập hơp những người
macxit cách mạng thành lập Đảng. Chính quyền Nga hồng ra lệnh cấm Lênin sống ở thủ đơ và các thành phố lớn.Lê-nin phải ra nước ngoài (1900) và
cùng Plekhanop lập ra tờ báo Tia lửa. Năm 1903, tại London tiến hành Đại
hội lần thứ II Đảng Công nhân chủ nghĩa xã hội Nga, Lê-nin phát biểu phải
xây dựng một đảng macxit có kỉ luật nghiêm minh, có khả năng tổ chức quần
chúng.Nhóm số đơng ủng hộ Lê-nin gọi là những người Bonsevich, nhóm số
ít chủ trương thành lập đảng đấu tranh theo kiểu nghị viện gọi là những người
mensevich. Về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức của đảng kiêu mới
3
này,Lê-nin đã trình bày trong cuốn Làm gì (1902) và cuốn Một bước tiến, hai
bước lùi (1904). Trong thời kì cách mạng 1905-1907, Lê-nin đã phát triển tư
tưởng độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng dân chủ
tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4-1905,tại London tiến hành Đại hội lần thứ III Đảng Công nhân
dân chủ xã hội Nga, Lê-nin được bầu là Chủ tịch Đại hội. Tại Đại hội này, Ủy
ban Trung ương đã được bầu ra do Lê-nin đứng đầu. Tháng 11-1905, Lê-nin
sống ở nước ngoài tiếp tục đấu tranh bảo vệ và củng cố đảng hoạt động bí
mật.Trong cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
(1908), Lê-nin phê phán sự xét lại về mặt triết học của chủ nghĩa Mác. Tháng
1-1912, Lê-nin lãnh đạo Hội nghị lần thứ VI (Praha) tồn Nga Đảng Cơng
nhân dân chủ xã hội. Tháng 6-1912, Lê-nin từ Pari chuyển về Cracop lãnh
đạo tờ “Sự thật”.Thời kì này, Lê-nin soạn thảo xong “Đề cương về vấn đề dân
tộc”. Cuối tháng 7-1914, Lê-nin bị cảnh sát Áo bắt nhưng sau đó ít lâu được
trả tự do và đi Thụy Sĩ. Trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Lênin đưa ra khẩu hiệu biến chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách
mạng.Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản (1916) và những tác phẩm khác, Lê-nin đã phát triển kinh tế chính trị học
macxit và lí luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa, kiện toàn những vấn đề cơ
bản của triết học macxit (Bút kí triết học) . Tại Hội nghị xã hội chủ nghĩa
quốc tế lần thứ nhất tại Thụy Sĩ (1915), Lê-nin đã tập hợp những người xã hội
dân chủ cánh tả đoàn kết lại. Sau Cách mạng tháng 2-1917,ở nga tồn tại tình
trạng hai chính quyền song song, một bên là chính phủ lâm thời tư sản
(chuyên chính của giai cấp tư sản) và một bên là Xoviet các đại biểu cơng
nhân và binh sĩ (chun chính vơ sản). Những mâu thuẫn kinh tế và chính trị
sâu sắc ở Nga lúc bấy giờ đòi hỏi thay đổi tận gốc đời sống chính trị nước
Nga. Ngày 16-4-1917, Lê-nin đến Petorograt để trình bày “Luận cương tháng
Tư” thực chất là một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành
chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu “Toàn bộ
4
chính quyền về tay các Xoviet!”. Hội nghị lần thứ VII tồn Nga (Hội nghị
tháng 4-1917) của Đảng Cơng nhân dân chủ xã hội Nga đã nhất trí thơng qua
đường lối do Lê-nin đề ra. Sau cuộc khủng hoảng chính trị ở nước Nga (tháng
7-1917), Lê-nin buộc phải về vùng Radodip cách Petorograt (nay là Petecbua)
34km để tránh sự truy lùng của Chính phủ lâm thời. Từ nơi ở bí mật, Lê-nin
vẫn thường xuyên chỉ đạo phong trào cách mạng nước Nga. Đầu tháng 81917, Đại hội lần thứ VI, Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga họp báo công
khai ở Petorograt, Lê-nin tuy không tham dự nhưng vẫn chỉ đạo Đại hội tiến
hành và thông qua đường lối phải khởi nghĩa vũ trang giành lấy chính quyền.
Trong thời gian này, Lê-nin viết xong cuốn Nhà nước và cách mạng, đề ra
nhiệm vụ cho giai cấp vô sản phải đấu tranh giành chính quyền bằng con
đường đấu tranh vũ trang. Đầu tháng 10-1917, Lê-nin từ Phần Lan bí mật trở
về Petorograt. Ngày 23-10-1917 kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của Lê-nin đề
ra được Hội nghị Ủy ban Trung ương Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga
thông qua.
Tối ngày 6-11-1917, Lê-nin đến cung điện Xmonui trực tiếp chỉ đạo
cuộc khởi nghĩa. Đến rạng sáng ngày 7-11-1917, toàn thành phố Petecbua
nằm trong tay những người khởi nghĩa, và đến đêm ngày 7-11-1917,Cách
mạng Tháng Mười Nga đã tồn thắng. Chính quyền cách mạng đã về tay nhân
dân.Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do đảng của giai cấp vô sản
lãnh đạo đã ra đời. Tại Đại hội các Xoviet toàn Nga lần thứ II, Lê-nin được
bầu làm Chủ tịch Hội đồng các Ủy viên nhân dân (Hội đồng Dân ủy). Sau khi
cách mạng thành công, theo đề nghị của Lê-nin, Hịa ước Brest với Đức được
kí kết (3-3-1918). Ngày 11-3-1918, Lê-nin cùng với Trung ương Đảng và
Chính phủ Xoviet trở về Matxcova. Lê-nin đã có cơng lao to lớn trong việc
lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân lao động nước Nga Xoviet chống lại sự
can thiệp quân sự của nước ngoài và lực lượng phản cách mạng trong nước,
trong việc lãnh đạo quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Nga. Lê-nin thi hành
5
chính sách đối ngoại Xơ viet, đề ra ngun tắc chung cùng tồn tại hịa bình
giữa các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau.
Ngày 30-8-1918, Lê-nin bị ám sát và bị thương nặng, nhưng sau đó ít lâu
sức khỏe hồi phục. Lê-nin là người sáng lập Quốc tế Cộng sản (1919). Tháng
3-1919, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Nga đã thông qua Cương
lĩnh mới của Đảng, Lê-nin được bầu làm Chủ tịch Ủy ban soạn thảo cương
lĩnh. Mùa xuân 1920, Lê-nin viết cuốn sách Bệnh ấu trĩ tả khuynh phong trào
cộng sản, trình bày những vấn đề chiến lược và sách lược của phong trào
cộng sản. Thời kì này, Lê-nin soạn thảo xong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã
hội (cơng nghiệp hóa đất nước, hợp tác hóa giai cấp nơng dân, cách mạng văn
hóa) ,Lê-nin cũng là người sáng lập ra kế hoạch điện khí hóa tồn Nga
(GOELRO), và cũng chính là người đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP).
Năm 1921, chính sách kinh tế mới của Lê-nin đươc thông qua tại Đại hội lần
thứ X Đảng Cộng sản Nga. Năm 1922, Lê-nin ốm nặng. Trong diễn văn cuối
cùng đọc tại Hội nghị toàn thể Xoviet đại biểu thành phố Matxcova (20-111922) Lê- nin tin tưởng rằng thi hành chính sách kinh tế mới, nước Nga sẽ trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa. Từ tháng 12-1922 đến tháng 3-1923 Lê-nin
đọc ghi lại một số bài báo quan trọng như: Những trang nhật kí, Bàn về chế
độ hợp tác hóa, Về cuộc cách mạng của chúng ta, Thà ít mà tốt, Thư gửi Đại
hội.Ngày 21-01-1924, Lê-nin qua đời ở làng Gorki gần Matxcova.
II. Hồn cảnh ra đời và tiền đề lí luận của học thuyết kinh tế
của Lê-nin
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Hoàn cảnh thế giới
Cuộc “Đại suy thoái” của chủ nghĩa tư bản diễn ra với cuộc khủng hoảng
năm 1873 và kéo dài cho tới năm 1895 đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề. Năm
1873, sự phá sản của thị trường chứng khoán ở Áo rồi ở Đức. Ở Anh, Đức, số
vụ phá sản tăng lên, nạn thất nghiệp lan rộng, giá cả giảm sút. Năm 1882, sự
6
phá sản của thị trường chứng khoán ở Lyon (Pháp) kéo theo sự phá sản của
ngân hàng ở Lyon và Loire cũng như sư phá sản công nghiệp mỏ, luyện kim,
xây dựng, dệt, sứ làm cho nạn thất nghiệp tăng mạnh, tiền công giảm sút.
Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, do khủng hoảng kinh tế
và do yêu cầu áp dụng khoa học-kĩ thuật vào sản xuất nên việc tích tụ và tập
trung tư bản diễn ra mạnh mẽ. Tích tụ, tập trung tư bản ở mức cao dẫn đến
hình thành các tổ chức độc quyền với nhiều hình thức từ thấp đến cao. Lúc
này, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền hay
còn gọi là chủ nghĩa đế quốc.
Do nhu cầu tìm kiêm thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu
và bóc lột sức lao động cũng như tìm nơi đầu tư tư bản có lợi nhất, các nước
đế quốc, nhất là Anh, Pháp, Đức đã ra sức bành trướng và khai thác thuộc địa
làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội mới. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh và
ngày càng trở nên gay gắt. Trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản;mâu thuẫn giữa các các nước đế quốc, giữa các tổ chức độc
quyền với nhau, giữa tổ chức độc quyền và ngoài độc quyền; mâu thuẫn giữa
đế quốc với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Giai cấp công nhân lớn mạnh cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp
và ngày càng có ý thức hơn, được tổ chức chặt chẽ hơn và tạo ra được một
tương quan lực lượng mới. Ở Anh, con số những người lao động công nghiệp
tăng từ 5,7 triệu người năm 1881 lên 8,6 triệu người năm 1911 và ở Hoa Kỳ,
tăng từ 2 triệu người năm1870 lên 8,4 triệu người năm 1919. Tính chung trên
thế giới, năm 1913 đã có khoảng 15 triệu người lao động vào các cơng
đồn.Phong trào đấu tranh của công nhân, nhất là bãi công ở nhiều nước đế
quốc (Anh, Pháp, Đức, Mĩ) diễn ra mạnh mẽ với quy mơ lớn.Ở Hoa Kỳ có
hơn 3000 cuộc bãi công và hơn 1 triệu người bãi công từ năm 1881 đến 1886.
Chiến tranh thế giới thứ nhất giữa các cường quốc đế quốc diễn ra gay
gắt để phân chia lãnh thổ thế giới. Hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi bị
biến thành thuộc địa của các nước phương Tây. Cuộc chiến tranh thế giới lần
7
thứ nhất đã gây ra bao đau khổ cho nhân loại và ngày càng bộc lộ rõ bản chất
và địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc.
b. Hoàn cảnh nước Nga
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản Nga tiến lên giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa trong khi chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại. Lê-nin gọi chủ
nghĩa đế quốc Nga là chủ nghĩa đế quốc quân phiệt.Từ đặc điểm này mà ở
Nga còn tồn tại nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong
kiến; mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản; mâu thuẫn giữa các dân tộc với đế
quốc Nga. Để giải quyết mâu thuẫn này, nước Nga phải làm hai cuộc cách
mạng: cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng dân chủ tư sản tháng 2-1917 do giai cấp vô sản Nga lãnh
đạo, giai cấp công nông tiến hành, song giai cấp tư sản đã chiếm đoạt thành
quả của cách mạng và thành lập lên chính phủ tư sản. Chính phủ tư sản không
giải quyết được các nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra đối với nước Nga: đó là
phải ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc (Chiến tranh thế giới thứ nhất) mà nước
Nga khơng có lợi ích gì; thủ tiêu chế độ phong kiến và quyền sở hữu ruộng
đất của chế độ đó, mang lại ruộng đất cho nông dân; phải giải quyết vấn đề
lương thực trước nạn đói trầm trọng của nước Nga. Tóm lại,chính phủ tư sản
phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là: hòa bình, ruộng đất và bánh mì. Song cả
ba vấn đề trên đều không được giải quyết, các mâu thuẫn trong xã hội Nga
vẫn rất gay gắt, tập trung lại thành mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Nga với
giai cấp tư sản. Để giải quyết mâu thuẫn đó, cần phải tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản Nga.
Lê-nin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước
Nga, lãnh đạo nhân dân Nga làm cuộc cách mạng vô sản thắng lợi, thiết lập
chính quyền của giai cấp cơng nơng, sử dụng chính quyền đó để cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là
chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn cách mạng đó đã giúp Lê-nin phát triển sáng
8
tạo và bổ sung nhiều vấn đề lí luận mới: trong đó có một số vấn đề lí luận về
kinh tế chính trị như: phân tích các đặc điểm và địa vị lịch sử của chủ nghĩa
đế quốc, về cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản,về thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản,về cơng nghiệp hóa, về phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, về chính sách kinh tế
mới, vv...
2. Tiền đề lí luận của Lê-nin
a. Sơ lược về học thuyết kinh tế của C.Mác và F.Ănghen
C.Mác (1818-1883) là một trong những bộ óc vĩ đại của nhân loại, ơng
được mệnh danh là “cây đại thụ” trong kinh tế học cùng với hai nhà kinh tế
học A.Smith và Keynes.
F.Ănghen (1820-1895) cùng với Mác xây dựng nên hệ thống lí luận kinh
tế và ơng cũng có rất nhiều đóng góp cho kinh tế học.
Mác và F.Ănghen đã nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và chỉ ra nhiều quy luật về phương thức sản xuất này. Mác đã nghiên
cứu các khái niệm, phạm tù kinh tế như: hàng hóa, tiền tệ, giá trị, tư bản, tái
sản xuất…
b. Những lí luận kinh tế cơ bản của Lê-nin kế thừa từ học thuyết kinh tế
của Mác và F.Ănghen
-Tái sản xuất tư bản chủ nghĩa
-Lí luận về thời kì q độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Ngồi ra, Lê-nin cịn phát triến thêm một số lí luận về các phạm trù kinh tế
như: hàng hóa, giá trị thặng dư,...
II. Q trình hình thành học thuyết kinh tế của Lê-nin
1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Mười 1917
Trong giai đoạn này, Lê nin đã phát triển một cách sáng tạo học thuyết
Mác vào điều kiện lịch sử mới nhằm chỉ đạo hoạt động thực tiễn của các đảng
cộng sản và công nhân. Những tác phẩm đầu tiên của Lê-nin là:
9
-Những biến đổi mới về kinh tế trong đời sống nhân dân (1893);
-Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường (1893);
-Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người xã
hội – dân chủ ra sao? (1894);
-Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách
của ông Xtơruvê (về nội dung sự phản ánh chủ nghĩa Mác trong sách báo tư
sản) (1895).
Trong các tác phẩm đó, Lê-nin đã luận chứng tư tưởng về khối liên minh
cách mạng giữa giai cấp cơng nhân và nơng dân; về tính tất yếu của sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở nước Nga.
Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga (1899), Lê-nin
đã phân tích dưới dạng khái quát và đầy đủ nhất sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản Nga và phê phán tính chất vơ căn cứ của những quan điểm của phái dân
túy. Người vạch rõ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga trải qua ba giai
đoạn: hiệp tác, công trường thủ cơng và sản xuất cơ khí. Trong cuốn sách này,
Lê-nin đã bảo vệ và phát triển lí luận của C.Mác về tái sản xuất tư bản chủ
nghĩa, luận chứng toàn diện các nguyên lí của chủ nghĩa Mác về ưu tiên phát
triển sản xuất trong điều kiện tái sản xuất mở rộng, về các mâu thuẫn của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, về cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng, về sự
bần cùng hóa giai cấp vơ sản, về tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế sản
xuất thừa trong chủ nghĩa tư bản.
Trong các tác phẩm Vấn đề ruộng đất và những kẻ phê phán Mác, Chủ nghĩa
tư bản trong nông nghiệp, Cương lĩnh ruộng đất của đảng dân chủ Nga lần thứ
nhất 1905-1907, Những tài liệu mới nhất về các quy luật phát triển của chủ nghĩa
tư bản trong nông nghiệp,v.v…Lê-nin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về
địa tô, vạch rõ những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.
Trong hai năm 1912, 1913, Lê-nin đã viết nhiều bài về hồn cảnh giai cấp
cơng nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong những bài đó, Lê-nin đã phát
triển học thuyết giá trị thặng dư và ảnh hưởng của tích lũy tư bản đến đời
10
sống nhân dân lao động, về bần cùng hóa tuyệt đối và tương đối của giai cấp
vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng tăng cao. Công lao vĩ đại của
Lê-nin là ở chỗ ông đã sáng lập ra lí luận về chủ nghĩa đế quốc. Lê-nin cũng
là người macxit đầu tiên tiến hành phân tích chủ nghĩa đế quốc một cách khoa
học, nhiều tác phẩm lí luận về chủ nghĩa đế quốc đã được Lê-nin viết như:
-Sự hình thành các tơrot (1907);
-Vấn đề dân tộc trong cương lĩnh của chúng ta (1908);
-Chiến tranh và nhiệm vụ cách mạng dân chủ Nga (1914);
-Sự phá sản của quốc tế II (1915);
-Về khẩu hiệu Liên bang châu Âu (1915);
-Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1915);
-Chủ nghĩa đế quốc và sự phân biệt chủ nghĩa xã hội (1916).
Trong các tác phẩm về chủ nghĩa đế quốc, Lê- nin đã đấu tranh không
khoan nhượng chống bọn cơ hội và bọn cải lương chủ nghĩa đồng thời đã chỉ
rõ đặc điểm cũng như địa vị của chủ nghĩa đế quốc. Người còn phát hiện ra
quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư
bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và rút ra kết luận thiên tài về khả năng
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, trươc tiên ở một số nước hoặc ở một nước hủ
tách riêng ra mà xét và chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi cùng một lúc ở
tất cả các nước. Lê-nin còn nghiên cứu về bản chất của hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc,về tính tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
đại đa số nhân dân trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Mười 1917 đến năm 1924
Giai đoạn này, Lê-nin viết về các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội và
các vấn đề kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào chủ nghĩa Mác và phát triển
một cách sáng tạo trong thực tiễn những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga Xoviet, Lê-nin đã đặt cơ sở khoa kinh tế chính trị về chủ nghĩa xã
hội. Trong các tác phẩm của mình, Lê-nin đã tiến hành nghiên cứu một cách
11
khoa học những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội, vạch ra con đường quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Những nguyên tắc lí luận của
chính sách kinh tế được trình bày trong các tác phẩm như:
-Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xoviet (1918);
-Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vơ sản (1919);
-Bàn về thuế lương thực (1921);
-Bàn về chế độ hợp tác (1922);
Trong các tác phẩm trên và trong các báo cáo, bài viết khác, Lê-nin đã chỉ
rõ các quy luật của nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa, chỉ ra đường lối chung và
kế hoạch cụ thể của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng
sản ở Liên Xô.
Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lê-nin ở Liên Xơ đó là cơng
nghiệp hóa, trước hết là điện khí hóa tồn quốc, cơ khí hóa nền kinh tế quốc
dân; phát triển kinh tế hành hóa nhiều thành phần, vấn đề hạch toán kinh tế,
kiểm kê kiểm soát; thi đua xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao động, nguyên
tắc tập trung dân chủ trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân,v.v…
Tóm lại, các tác phẩm của Lê-nin trong giai đoạn sau Cách mạng Tháng
Mười năm 1917 đã thể hiện sự sáng tạo những nguyên lí macxit về đường lối
xây dựng chủ nghĩa cộng sản, về xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ
nghĩa cộng sản, về các điều kiện chuyển sang phân phối theo nhu cầu,v.v…
Lê-nin đã chỉ ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, chỉ
ra thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu trên phạm vi toàn thế giới. Các tác
phẩm của Lê-nin đã đóng góp to lớn vào khoa học kinh tế, góp phần phát
triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới.
12
Chương III. Những lí luận cơ bản trong học thuyết kinh tế của
Lê-nin
I. Lí luận về tái sản xuất tư bản xã hội
V.I.Lê-nin đã áp dụng lí luận của C.Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để
nghiên cứu sự hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa do kết quả trực tiếp của
việc phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ kĩ thuật. Lê-nin
đã chú ý đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ tư bản. Trên cơ sở lí luận của
Mác về tái sản xuất tư bản xã hội, Lê-nin đã bổ sung thêm một số điểm cho
sát với hiện thực của tư bản xã hội trong điều kiện phát triển của nó.
-Lê-nin chia khu vực I – sản xuất tư liệu sản xuất thành hai khu vực nhỏ:
+Khu vực sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất.
+Khu vực sản xuất tư liệu sản xuât để tiêu dùng.
Lê-nin cho cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi. Trong cả hai khu vực, cấu tạo
hữu cơ của tư bản đều tăng lên, nhưng cấu tạo hữu cơ khu vực I tăng nhanh
hơn khu vực II. Căn cứ vào thực tế đó, phân tích sự phát triển của tư bản xã
hội trong nhiều năm, cuối cùng Lê-nin đã nêu lên một biểu so sánh về sự tăng
lên của các bộ phận tư bản khác nhau và đưa ra kết luận: “Sản xuất ra tư liệu
sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, sau đến sản xuất tư
liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng chậm nhất là sự phát
triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng”. Đó cũng là nội dung của quy luật ưu
tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất. Quy luật này là quy luật kinh tế của
tái sản tư bản mở rộng trong điều kiện kĩ thuật ngày càng tiến bộ.
II. Lí luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước
1.Lí luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền
Vận dụng sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch
sử mới của thế giới, Lê-nin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã bước
sang giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc
13
quyền xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX do những nguyên nhân
chủ yếu sau:
-Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học
kĩ thuật đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí
nghiệp quy mô lớn.
-Vào những năm 30 của thế kỉ XIX, những thành tựu khoa học kĩ thuật
mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsome, Macstanh, Tômat,..đã tạo ra
sản lượng lớn gang,thép với chất lượng cao; phát hiện ra hóa chất mới như
axit sunfuric, thuốc nhuộm,v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ ddieezen, máy
phát điện, máy tiện, máy phay,..; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe
hơi, tàu thủy, xe điện,máy bay,..và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu
khoa học kĩ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới địi
hỏi xí nghiệp phải có quy mơ lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao
động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sản xuất lớn phát triển.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kĩ thuật, sự tác động của các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích
lũy,..ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo
hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
-Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kĩ thuật,
tăng quy mơ tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời,cạnh tranh gay
gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát
tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp càng lớn.
-Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vưa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q
trình tích tụ và tập trung tư bản.
-Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành địn bẩy
mạnh mẽ thúc đẩy q trình tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các
cơng ty cổ phần, tạo điều kiện cho sự ra đời các tổ chức độc quyền.
14
Từ những nguyên nhân trên, Lê-nin khẳng định: “…cạnh tranh tự do đẻ
ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một
mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”.
Và Lê-nin đã nêu ra năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc:
a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là
đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí
nghiệp lớn chỉ chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾
tổng số máy hơi nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất
ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích tụ và tập trung cao như vậy đã dẫn
đến hình thành các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau; mặt
khác, các xí ngiệp có quy mơ lớn, kĩ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay
gắt,quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó dẫn đến khuynh hướng thỏa hiêp với
nhau để nắm độc quyền.
Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập
trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa
nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyên cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa các liên minh hình thành theo
liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một
ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chưc độc quyền đã
phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình
thức độc quyền cơ bản là: cacten, xanhđica, torot, congxoocxiom,
conggolomegrat.
- Cacten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản kí hiệp nghị
thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ,kì hạn
thanh tốn…Các nhà tư bản tham gia cacten vẫn độc lập về sản xuất và
thương nghiệp. Họ chỉ làm đúng theo hiệp nghị, nếu làm sai họ sẽ bị phạt theo
15
quy định của hiệp nghị. Vì vậy cacten là liên minh độc quyền không vững
chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã
rút ra khỏi cacten, làm cho cacten thường tan vỡ trước kì hạn.
- Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn cácten và ổn định
hơn. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất
độc lập về lưu thông: mọi việc mua bán do một ban quản trị chung của
xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và
bán để mua nguyên liệu với giả rẻ, bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lại lợi
nhuận độc quyền cao.
- Tờrớt là một hình thức tổ chức cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống
nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư
bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
- Côngxoocxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô
lớn hơn các tổ chức độc quyền trên. Tham gia cơngxoocxiom khơng chỉ có
các nhà tư bản lớn mà cịn có các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau
nhưng liên quan đến nhau về kĩ thuật, kinh tế. Côngxoocxiom có thể có hàng
trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hồn tồn phụ thuộc tài chính vào một
nhóm tư bản kếch sù.
b. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Cùng với q trình tích tụ và tập trung sản xuất trong cơng nghiệp cũng
diễn ra q trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn hình thành các
tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ,tập trung tư bản trong
ngân hàng cũng như trong cơng nghiệp, do q trình cạnh tranh các ngân
hàng vừa và nhỏ bị thơn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi
sản xuất trong cơng nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ khơng
đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cơng việc kinh doanh của các xí nghiệp lớn.
Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các ngân hàng lớn hơn, thích hợp với
các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân
16
hàng nhỏ phải tự sát nhập vào các ngân hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt
sự tồn tại của mình trước sự khốc liệt của cạnh tranh.
Sự xuất hiện, phát của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm
thay đổi giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng, làm cho ngân hàng bắt
đầu có vai trị mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh tốn
và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền
lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dựa
trên địa vị người cho vay, độc quyền ngân hàng cử đai diện của mình vào các
cơ quan quản lí của độc quyền cơng nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay,
hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và xiết chặt của tư
bản, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của tư bản độc quyền công
nghiệp cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền cũng tham gia vào công việc của
ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động
của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Q trình độc
quyền hóa trong cơng nghiêp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc
đẩy lẫn nhau làm náy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.
V.I.Lê-nin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản
ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền ngân hàng lớn nhất, với tư bản
của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp”.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền, vhi phối toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội của toàn xã hội tư bản gọi
là bọn đầu sỏ tài chính.
-Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thơng qua chế độ
tham dự. Thực chất của chế độ này là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập
đồn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn
nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty này lại được
mua cổ phiếu bằng khống chế,thống trị được các công ty khác, gọi là “công ty
con”; “cơng ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu” cũng bằng
17
cách như thế…Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đồn theo
kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ các nhà tư bản độc
quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp
nhiều lần.
Ngoài “Chế độ tham dự”, bọn đầu sỏ tài chính cịn sử dụng những thủ
đoạn mới như: lập công ty mới, phát hành trái khốn, trái phiếu, kinh doanh
cơng trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất…để thu được
lợi nhuận độc quyền cao.
Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị
và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt
động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành cơng cụ phục vụ
lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa
phát xít,chủ nghĩa quân phiệt và thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy
đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát
triển và chậm phát triển.
c. Xuất khẩu tư bản
V.I.Lê-nin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn
của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của
chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngồi) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi
nhuận khác ở nước nhập khẩu tư bản.
- Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:
+ Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và
có một số “tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so
với đầu tư trong nước.
18
+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới
nhưng lại rất thiếu tư bản, giá cả ruộng đất rẻ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ,
nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.
- Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: xuất khẩu tư
bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp).
+ Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là hình thức xuất khẩu tư
bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang
hoạt động ở nước phận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của cơng ty mẹ ở
chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp
song phương nhưng cũng có xí nghiệp tồn bộ vốn của cơng ty nước ngồi.
+ Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức xuất khẩu tư
bản được thực hiện dưới dạng cho chính phủ, thành phố hay một ngân hàng ở
nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.
- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản,
có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.
+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn
vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ
có hồn lại hay khơng hồn lại, để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính
trị, quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc
kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân. Nhà
nước tư bản viện trợ khơng hồn lại cho nước nhập khẩu tư bản để kí được
những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi…
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ
chế độ “thân cận” đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự
phụ thuộc của các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều
kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.
19
Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước nhận
viện trợ phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước đó phải cho lập căn
cứ quân sự trên lãnh thổ của mình…
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực
hiện. Hình thức đầu tư tư nhân có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư
vào những ngành có vịng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền
cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nơ
dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.
d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản
tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt
kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc
quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong
nước luôn gắn với thị trường nước ngoài. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền, thị trường ngồi nước cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi
hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do
thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành
trướng ra nước ngồi, cần có thị trường ổn định. Lê-nin nhận xét: “Bọn tư sản
chia nhau thế giới,khơng phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự
tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời”.
Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có
sức mạnh kinh tế hùng hậu lại nhận được sự ủng hộ nhà nước “của mình” và
các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp,
ký kết các hiệp định , để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh
20