Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận đề tài đặc điểm văn hóa vùng tây bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 29 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀNẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ĐÀ NẴNG

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Đà Nẵng, năm 2021

1

7

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ĐÀ NẴNG
KHOA: TIẾNG ANH

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thị Tú Trinh
Thành viên nhóm
: Trần Ngơ Hạnh Thảo
Thân Thị Thu Trang
Nguyễn Thị Phương Thảo
Hồng Thị Tuyết Trinh
Vũ Thị Minh Thu
Đậu Thị Ánh Tuyết
Nguyễn Thị Anh Thư
Huỳnh Võ Hải Vân
Trần Lê Đan Thy
Lê Thị Như Ý


Đỗ Thị Bảo Trân
Lớp
: 21CNA05
2

7

1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG… ........................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ................................................................4
1.1. Khái niệm chung ................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm văn hóa .......................................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm văn hóa vùng… ............................................................................. 6
1.2. Tổng quan về vùng Tây Bắc… ............................................................................. 7
1.2.1 Lịch sử hình thành .......................................................................................... 8
1.2.2 Vị trí địa lý ....................................................................................................... 9
1.2.3 Xã hội và các dân tộc ở Tây Bắc ................................................................... 10
1.2.3.1. Xã hội ..................................................................................................... 10
1.2.3.2. Các dân tộc ở Tây Bắc ............................................................................10
1.2.4. Khái quát về vùng văn hóa Tây Bắc ................................................................. 11
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HĨA TÂY BẮC ............................. 12
2.1. Ngơn ngữ và chữ viết ........................................................................................... 12
2.1.1. Ngôn ngữ ..................................................................................................... 12
2.1.2. Chữ viết ....................................................................................................... 12
2.2. Trang phục .......................................................................................................... 12
2.3. Phong tục............................................................................................................. 13

2.4. Tập quán.............................................................................................................. 24
2.5 Lễ hội .................................................................................................................. 24
2.6. Ảnh hưởng của văn hóa Tây Bắc đến nền văn hóa Việt Nam - Hạn chế và khắc
phục .............................................................................................................................. 25
2.6.1. Ảnh hưởng của văn hóa Tây Bắc đến nền văn hóa Việt Nam… ................. 25
2.6.2. Những hạn chế văn hóa Tây Bắc .................................................................27
2.6.3
C.

Những biện pháp khắc phục ....................................................................... 28

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 29

3

7

1


A. MỞ ĐẦU
Khi nói đến xứ sở Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, hiểm trở, người ta sẽ nghĩ đến ngay một
kho trầm tích văn hóa dân gian được hình thành, lưu giữ và phát triển từ ngàn thế hệ.
Những miền núi cao lâu đời, những dòng suối mát lành là nơi mà đồng bào vùng cao Tây
Bắc đã hình thành cho mình một vốn văn hóa bản địa vơ cùng rực rỡ, đặc sắc. Mỗi một
dân tộc lại có một nét riêng biệt trong văn hóa dân gian Tây Bắc.
Khi nói đến văn hóa dân gian vùng Tây Bắc, chúng ta cần nhận diện nó từ nhiều phương
diện, khía cạnh và giá trị: nguồn gốc; cuộc sống hàng ngày; những phong tục, tập quán…
Những phương diện và giá trị này đã hình thành văn hóa dân gian của các dân tộc vùng
Tây Bắc hết sức đa dạng, phong phú về các loại hình, hình thức diễn xướng và phương

thức lưu truyền.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm chung:
1.1.1. Khái niệm văn hóa:
Từ những buổi sơ khai của lồi người, văn hóa đã xuất hiện và gắn bó mật thiết với sự tiến
hóa sinh học của nhân loại. Dù con người thuở ấy không lập tức định nghĩa và tạo nên một
khái niệm văn hóa độc lập, song trong quá trình con người tương tác với mơi trường tự
nhiên, văn hóa đã dần hình thành và song hành với lồi người.
Trong q trình tiến hóa, con người dần hình thành trí thơng minh và khả năng sáng tạo
vượt trội hơn bất kì lồi nào khác để thích nghi với mơi trường tự nhiên. Từ đó, tác động
sinh học của con người giảm dần, bản tính con người khơng cịn mang tính bản năng mà là
văn hóa. Con người khơng chỉ có khả năng hình thành văn hóa mà cịn có thể tiếp thu văn
hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
4

7

1


Nhìn chung, văn hóa là tiêu chí nhận diện con người với thế giới tự nhiên, là hệ thống các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và lưu giữ trong q trình tương tác với
mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội. Nói khác đi, văn hóa là sản phẩm do con người
sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của của nhân loại. Văn hóa bao gồm cả yếu tố
vật chất như nhà cửa, quần áo, phương tiện đi lại,... và yếu tố tinh thần như ngôn ngữ, cách
ứng xử, tri thức, đức tin…
Ở phương Tây, thuật ngữ Văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ III TCN. Văn hóa được bắt
nguồn từ chữ La tinh"Cultus" với nghĩa gốc là gieo trồng. Về sau, thuật ngữ này được

dùng theo nghĩa “Cultus Agri” là "gieo trồng ruộng đất" và Cultus Animi là "gieo trồng
tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người".
Ở phương Đơng, khái niệm văn hóa bắt nguồn từ ngơn ngữ Hán. Từ ghép “văn hóa” là sự
hợp thành của hai từ đơn riêng biệt: “văn” là vẻ đẹp và “hóa” là biến đổi. Hiểu rộng ra,
văn hóa chính là việc thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn, “làm cho đẹp đẽ”.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tượng trưng cho mỗi cách nhìn và cách cắt
nghĩa khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học là Alfred Kroeber và Clyde
Kluckhohn đã thống kê có hơn 160 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các cơng trình
nghiên cứu dày công trên thế giới. Điều này chứng tỏ khái niệm “văn hóa” rất phức tạp và
khó để tiếp cận tồn diện.
William Isaac Thomas (1863–1947), nhà xã hội học người Mỹ định nghĩa văn hóa “là các
giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư
xử,...)”. Điều này nhấn mạnh văn hóa gắn liền với các giá trị cốt lõi của xã hội, là nền tảng
kiến tạo những giá trị cho nền văn minh nhân loại. Đối với Edward Sapir (1884–1939) một nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mĩ, văn hóa “là bản thân con người, cho dù
là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp

5

7

1


của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống.” Nói khác đi,
văn hóa là “thẻ căn cước” riêng của loài người trong thế giới, khiến con người trở nên
khác biệt với những loài động vật khác. Qua thời gian, con người còn kế thừa truyền
thơng, tập tục của xã hội nhờ vào tính ổn định của truyền thống.
Năm 1994, UNESCO đưa ra định nghĩa về văn hóa trên hai phương diện: theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ-tổng hợp các
đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... Văn hóa khơng chỉ

bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng...”; theo nghĩa hẹp thì
“Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao
tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”... Với định nghĩa này, sự hình
thành của văn hóa cịn được thể hiện qua mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa tập thể
và môi trường sống xung quanh. Theo một nghĩa khác, văn hóa cịn bao gồm những lĩnh
vực liên quan đến đời sống con người.
Chung quy lại, văn hóa là đặc điểm nhận diện con người với các loài động vật khác và là
sản phẩm do con người sáng tạo ra trong quá trình hình thành và phát triển.
1.1.2. Khái niệm văn hóa vùng:
Do sự khác biệt về tư tưởng hay khu vực sinh sống, con người tồn tại với nhiều nền văn
hóa khác nhau. Bị ảnh hưởng bởi mơi trường tự nhiên và tính cách tộc người, văn hóa dần
trở nên đa dạng và ở mỗi tộc người, văn hóa sẽ có những đặc trưng riêng. Một trong những
yếu tố của môi trường tự nhiên tác động đến sự đa dạng của văn hóa là vùng địa lý.
Vùng văn hóa hay Văn hóa quyển, được hiểu là một địa vực gắn bởi một hình thức văn
hóa nhất định, được tạo ra bởi những dân cư sống cùng một khu vực và mang đậm dấu ấn
lịch sử được phát triển bởi các hình thức văn hóa. Từ "văn hóa quyển" được dịch từ
"kulturkreis" trong cuốn sách của nhà dân tộc học người Đức - Wilhelm Schmidt vào năm

6

7

1


1924 và trở thành một thuật ngữ quan trọng sau nửa cuối thế kỷ 20. Các đặc trưng văn hóa
của từng vùng có tính lan rộng - có thể truyền ra ngoài và giao lưu, tiếp biến với các vùng
văn hóa khác.
W. Schmidt cho rằng khái niệm “vùng văn hóa” không nhất thiết phải giới hạn trong một

không gian địa lý hay là một địa lý tiếp giáp. Miễn có sự giao nhau về một số yếu tố văn
hóa nhất định như tôn giáo, ngôn ngữ, thể chế xã hội, các khơng gian tại các địa điểm khác
nhau có thể thuộc về cùng một văn hóa quyển như Vùng văn hóa Đơng Á, Vùng văn hóa
Ấn Độ,...
Có hai yếu tố tạo bản sắc văn hóa vùng:
Yếu tố về mơi trường sinh thái - tự nhiên:
Đây là yếu tố giải thích sự tương đồng trong văn hóa của các cộng đồng người sống
trong cùng một lãnh thổ - nơi có cùng một điều kiện tự nhiên. Ví dụ, Đơng Nam Á với
đặc trưng khí hậu là nhiệt độ, độ ẩm cao, có gió mùa và có nhiều sơng nước sẽ hình
thành vùng văn hóa trồng lúa nước - khác với văn hóa khơ mạch của Trung Hoa.
Yếu tố hình thức biểu hiện văn hóa của con người:
Đây là yếu tố tạo ra cung nhận thức, nếp sống cũng như phong tục tập quán riêng của
mỗi khu vực. Ở Việt Nam, đặc điểm địa hình nhiều đồi núi và kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa - thường xuyên chịu bão lũ ở miền Trung đã hình thành nét tính cách dẻo dai,
khả năng chịu đựng và thích nghi cao với mơi trường sống. Ngoài ra, đây cũng là đất
nước với nhiều loại hình văn hóa nước như rối nước, hát chèo bởi ảnh hưởng của mơi
trường nhiều sơng nước.
Nhìn chung, do chịu ảnh hưởng bởi vị trí địa lý mà mỗi vùng văn hóa sẽ mang một sắc
thái tâm lý cộng đồng riêng biệt, thể hiện các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên
và xã hội.
1.2.Tổng quan về vùng Tây Bắc:

7

7

1


1.2.1. Lịch sử hình thành

Lịch sử hình thành vùng Tây Bắc bắt đầu từ cách đây 500 triệu năm và đến bây giờ vẫn
tiếp tục. Thuở ban đầu, vùng này là biển và chỉ có một số đỉnh ở dãy Hồng Liên Sơn và
dãy Sơng Mã là nổi lên trên mặt biển. Biển liên tục rút ra xa rồi lại lấn vào suốt hàng trăm
triệu năm. Trong quá trình ấy, đã có những sự sụt lún mạnh, góp phần hình thành các tầng
đá phiến và đá vôi. Vào cuối đại cổ sinh (cách đây chừng 300 triệu năm), dãy Hoàng Liên
Sơn và dãy Sông Mã đã được nâng hẳn lên.

(Dãy Hồng Liên Sơn)
Địa máng sơng Đà vào thời điểm đại cổ sinh vẫn chìm dưới biển. Cho đến cách đây 150
triệu năm, chu kỳ tạo núi Indochina làm cho hai bờ địa máng từ từ tiến lại gần nhau, khiến
cho trầm tích trong địa máng uốn lên thành những nếp uốn khổng lồ, đồng thời làm cho
tầng đá vơi có tuổi cổ hơn lại trồi lên trên tầng đá phiến, tạo thành những cao ngun đá
vơi ngày nay.
Trong q trình tạo núi, cịn có sự xâm nhập của macma.

( đá macma)

8

7

1


Kết quả là, vùng Tây Bắc được nâng lên với một biên độ đến 1000 mét và cuối cùng .
Hình thành nên vùng Tây Bắc cho đến hiện nay.

(Vùng Tây Bắc)
1.2.2. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý của vùng Tây Bắc hiện cịn chưa được nhất trí. Một số ý kiến cho rằng đây là

vùng phía nam (hữu ngạn) sông Hồng. Một số ý kiến lại cho rằng đây là vùng phía nam
của dãy núi Hồng Liên Sơn. Nhà địa lý học Lê Bá Thảo cho rằng vùng Tây Bắc được
giới hạn ở phía đơng bởi dãy núi Hồng Liên Sơn và ở phía tây là dịng sơng Mã.
Địa hình Tây Bắc núi cao và chia cắt sâu, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo
hướng Tây Bắc-Đơng Nam. Dãy Hồng Liên Sơn dài tới 180 km, rộng 30 km, với một số
đỉnh núi cao trên từ 2800 đến 3000 m. Dãy núi Sông Mã dài 500 km, có những đỉnh cao
trên 1800 m. Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà (cịn gọi là địa
máng sơng Đà). Ngồi sơng Đà là sơng lớn, vùng Tây Bắc chỉ có sơng nhỏ và suối gồm cả
thượng lưu sông Mã. Trong địa máng sơng Đà cịn có một dãy cao ngun đá vơi chạy
suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, và có thể chia nhỏ thành các cao nguyên Tà
Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Cũng có các lịng chảo như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường
Thanh.

9

7

1


1.2.3. Xã hội và các dân tộc Tây Bắc
1.2.3.1. Xã hội
Tây Bắc là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em như người Thái, Tày, H ’mông, Dao,
Mường, Khơ mú, Laha, Xinh mun, Kháng, Mảng,... mỗi dân tộc mang những nét phong
tục tập quán riêng đã tạo cho vùng văn hoá Tây Bắc - một nền văn hoá đa dạng, nhiều
màu sắc độc đáo thơng qua văn hố Thái là chủ thể.
Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường, dân tộc Thái gọi là Đằm. Phương thức
canh tác của các dân tộc này cũng khác nhau.
1.2.3.2. Các dân tộc Tây Bắc
Tây Bắc là địa bàn sinh sống của 30 dân tộc anh em, thuộc ba hệ ngữ khác nhau.

Ngữ hệ Nam Á
Ngữ hệ Nam Á có ba nhóm dân tộc, cụ thể là:
Nhóm Việt- Mường: gồm dân tộc Kinh, Mường, Thổ
Nhóm Mơng- Dao: gồm dân tộc Dao, Mơng
Nhóm Mơn- Khơ Me: gồm dân tộc Kháng, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun
Ngữ hệ Thái-Kadai
Ngữ hệ Thái- Kadai có 2 nhóm:
Nhóm Tày- Thái có các dân tộc: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Tày, Thái, Sán Chay
Nhóm Kadai bao gồm các dân tộc: Cơ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo
Ngữ hệ Hán- Tạng
Ngữ hệ Hán-Tạng có 2 nhóm dân tộc:
Nhóm tiếng Hán gồm các dân tộc: Hoa, Sán Dìu, Sán Chỉ ( Sán Chay)
Nhóm Tạng- Miến bao gồm các dân tộc: Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lơ Lơ, Phù Lá, Si
La

10

7

1


Như vậy, ở Tây Bắc hiện có 30 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Mông, Dao, Kháng, Khơ Mú,
Mảng, Xinh Mun, Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Tày, Thái, Sán Chay, Cơ Lao, La Chí, La
Ha, Pu Péo, Hoa, Sán Dìu, Sán Chỉ, Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lơ Lơ, Phù Lá, Si La.
1.2.4. Khái quát về vùng văn hóa Tây Bắc

Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu ngọt của
những thiên tình sử Tiễn dặn người yêu nhưng cũng đầy tiếng than thở của những thân
phận người Tiếng hát làm dâu.

Tây Bắc gồm các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, n Bái và một phần tỉnh Hịa Bình.
Hiện có hơn hai mươi tộc người cùng cư trú xen cài với nhau, nhưng trong đó tộc Thái
(với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa Đơng Nam Á) nổi lên như một sắc thái đại diện cho
văn hóa Tây Bắc. Từ điều kiện cảnh quan, môi trường sống đã tạo nên những nét đặc
trưng, cả về vật chất lẫn tinh thần, cho văn hóa vùng này. Các tộc người trong vùng đều có
tín ngưỡng ''vạn vật hữu linh'' và tín ngưỡng nông nghiệp. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc
tuy chưa có văn hóa chuyên nghiệp (bác học), nhưng mỗi tộc người đều có một kho văn
hóa nghệ thuật riêng với ngơn từ giàu có và đủ thể loại, nghệ thuật múa dân tộc cũng là
một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc (''xoè'' Thái đã trở thành biểu tượng văn hóa Tây
Bắc), âm nhạc và ca hát ở đây cũng rất đặc biệt: Hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng
đồng, hoặc bằng bạc,... khơng thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác, thơ ca Tây Bắc được
sáng tác để hát chứ không phải để đọc, nghệ thuật trang trí trang phục đã ở một trình độ
cao. Giao lưu văn hóagiữa các tộc người trong vùng diễn ra rất tự nhiên.
11

7

1


CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA TÂY BẮC
2.1. Ngôn ngữ và chữ viết
2.1.1. Ngôn ngữ
Hiện nay, khu vực Tây Bắc có sự hiện diện của bốn trên tổng số năm họ ngơn
ngữ hiện có mặt tại Việt Nam. Bốn họ ngơn ngữ có mặt ở khu vực Tây Bắc
gồm: Thứ nhất là họ ngôn ngữ Tai-Ka dai bao gồm các dân tộc: Thái, Tày, Nùng, Cao
Lan, Thổ, Lự, Lào, Giáy, Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng,...Thứ hai là họ ngôn ngữ Mông Dao (Mông -Miền) bao gồm các dân tộc: Mông, Dao,...Thứ ba là họ ngôn ngữ Môn -Khơ
Me bao gồm các dân tộc là: Việt (Kinh), Mường, Mảng, Cống, La Ha,... Thứ tư là họ ngôn
ngữ Hán -Tạng (Tạng -Miến) bao gồm các dân tộc: Hoa, Si La,...
2.1.2. Chữ viết

Một số dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển khơng chỉ có tiếng nói mà cịn có cả chữ
viết điển hình như các dân tộc: Thái, Mơng, Dao, Hoa. Có thể phân chia chữ viết của các
dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc thành ba nhóm mẫu tự sau đây:
Mẫu tự

Ấn Độ

Trung Hoa

La tinh

Dân tộc

Thái

Dao, Hoa

Mơng

2.2. Trang phục
Trong khơng gian văn hóa Tây Bắc, trang phục truyền thống là một biểu trưng văn hóa
phản ánh sinh động phong tục, tập quán, vẻ đẹp và bản sắc của mỗi dân tộc anh em trên
vùng đất địa cầu Tổ quốc. Mỗi dân tộc ở Tây Bắc đều có trang phục riêng, qua đó có thể
nhận biết tộc người, nơi cư trú, tập quán, đời sống văn hóa của họ. Độc đáo, đa màu sắc là
những gì chúng ta được chiêm ngưỡng và trải nghiệm với những bộ trang phục của đồng
bào Tây Bắc. Nổi bật như dân tộc Thái, H’mông,…
Trang phục phụ nữ Thái gồm: áo cánh ngắn nhiều màu, nẹp đính hàng khuy bạc hình
bướm, nhện, ve sầu,…, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống, thắt eo
12


7

1


bằng dải lụa màu xanh lá cây, đeo xà tích bạc ở bên hông.Nữ Thái đen đội khăn Piêu nổi
tiếng với các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ.
Nam giới thường mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lưng, áo cánh xẻ ngực có
túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái trắng có thêm một túi ngực trái, cài khuy tết bằng dây
vải, cuốn khăn đầu rìu. Màu quần áo chủ yếu là màu đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc
hoặc trắng.
Trang phục phụ nữ H’mơng: Người H’Mơng có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ
các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường
mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ống
tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền
cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên
nền chàm). Phụ nữ Hmông cịn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực
giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc
bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xịe ra có
hình trịn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmơng
(Hoa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết
hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn
giữa.
Nam giới Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi
rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi
dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mơng. Loại bốn thân thường khơng trang trí loại
năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân
què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ
xung quanh có đính những hình trịn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vịng bạc cổ, có
khi khơng mang.

2.3. Phong tục:

13

7

1


Tây Bắc là nơi chung sống của 15 dân tộc khác nhau nên rất đa dạng về phong tục, cùng
điểm qua một số tiêu biểu trong phong tục của vùng Tây Bắc:
Ngày tết truyền thống của một số dân tộc vùng Tây Bắc:
Tết truyền thống của đồng bào dân tộc Mông:
Ngày Tết ở đây được tổ chức sớm hơn Tết Nguyên Đán của người Việt 1 tháng, người
Mông trắng gọi là chia sung lầu – Tết tháng 12.
Việc trang trí bàn thờ ngày Tết phái có giấy bản và lơng gà. Người Mông cắt giấy bản,
dán các dụng cụ lao động với ý nghĩa thông báo năm mới đến rồi, con người và mọi vật
đã làm việc vất vả, cần được nghỉ ngơi, vui chơi, ăn Tết,…Vào dịp Tết người Mơng
thường làm món thịt chuột sấy khơ để đãi khách.
Trước tết, các gia đình đều vào chặt cây trúc để quét dọn bàn thờ tổ tiên và quét nhà với ý
nghĩa quét đi những cái bẩn, cái xấu của năm cũ, để cầu mong mọi sự tốt lành. Ngày Tết
mọi người cũng phải tắm gội sạch sẽ để xua tan cái bẩn, bệnh tật, sự xui xẻo của năm cũ.
Tết truyền thống của đồng bào dân tộc Thái:
Dân tộc Thái có cách đón Tết rất riêng và độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
mình.
Ngày Tết của đồng bào Thái trắng Tây Bắc không thể thiếu các loại bánh truyền thống
như: Bánh chưng được gói từ gạo nếp, nhân đỗ, thịt lợn. Nhưng bánh chưng không phải
như bánh tét miền Nam hay bánh vuông miền Bắc mà là những chiếc bánh chưng gù.
Bánh bỏng, được làm từ xôi nếp, phơi khơ rán. Cịn bánh “khảu tắt”, một loại bánh đặc
trưng được chế biến từ gạo nếp ngâm, ăn ngon được nhiều người ưa chuộng chỉ có ở

người Thái. Ngày 30 Tết, gay từ sáng sớm nhà nào cũng mổ một con lợn. Bốn chân và
đầu đuôi để cúng tổ tiên, phần nạc làm thịt sấy, ba chỉ ướp muối, còn phần vừa mỡ vừa
nạc làm lạp sườn, làm nem thính,…Tất cả các món ăn truyền thống khơng chỉ ăn ngay
trong mấy ngày Tết, mà còn treo gác bếp để ra giêng. Khi lá vả, lá sung lên non, lấy ăn
ghém mới là món ngon, đúng mùa. Nhà nào có nhiều thịt, để được lâu được coi là Tết to.
14

7

1


Các món ăn truyền thống được các mẹ, các chị khéo tay chế biến với mắc khén (Tiêu
rừng), ớt bột, thảo quả, hương thơm quyến rũ.
Với đồng bào Thái trắng, mâm cỗ cúng tổ tiên rất được coi trọng. Ngoài mâm cỗ thủ và
bốn chân lợn, bánh trái ngày Tết, dân tộc Thái cịn có “bók piếng”, tức là một lồi hoa
bơng nhỏ màu trắng khơng héo để thờ cúng trên bàn thờ quanh năm và hai cây mía (cả lá)
dựng hai bên bàn thờ. Theo quan niệm của người Thái, hai cây mía tượng trưng cho chiếc
thang để tổ tiên về ăn Tết cùng với con cháu.Việc thờ cúng tổ tiên ngày tết của dân tộc
Thái vừa mang ý nghĩa tâm linh, vừa thể hiện sự sung túc, no đủ, đồng thời thể hiện lòng
thành con cháu nhớ về cội nguồn, tổ tiên. Khi thu mâm cỗ hóa vàng thì mời anh em bản
Mường về chung vui bữa cơm đầu xuân, năm mới.
Phong tục cưới hỏi của một số dân tộc vùng Tây Bắc
Cưới vợ sau 3 năm ở rể
Với dân tộc Thái, khi chàng trai muốn cưới cô gái, anh ta thường rủ bạn bè mang những
chiếc khèn đến diễn tấu dưới cửa sổ nhà sàn của cô gái. Qua thời gian tìm hiểu, chàng trai
nào chọn được người yêu rồi sẽ nói với cha mẹ để lo chuyện hôn nhân. Theo tục lệ cũ,
người con trai phải dến ở nhà con gái 3 tháng trước khi làm lễ cưới chính thức. Anh ta chỉ
được phép ở gian đầu nhà sàn dành cho khách nam giới và chỉ được phép mang theo một
con dao để làm việc. Sau 3 tháng, nếu được bố mẹ vợ ưng ý, chàng trai sẽ về nhà báo cho

bố mẹ mình biết.
Lần này anh ta sẽ mang tư trang của mình đến nhà gái ở đó suốt 3 năm. Sau 3 năm đó,
nếu đồng ý lấy chàng trai, cơ gái sẽ búi tóc bằng trâm cài đầu và cái độn tóc giả do gia
đình nhà trai mang đến. Cơ gái nào khơng muốn cưới chàng trai sau 3 năm đó sẽ phản
kháng bằng cách tự cắt tóc mình. Sau lễ cưới, chú rể sẽ tiếp tục ở nhà gái từ 1đến 10 năm
và chỉ được phép đưa vợ về nhà mình sau một nghi lễ đưa dâu long trọng.

15

7

1


Lần này, nàng dâu phải chuẩn bị nhiều quà biếu nhà chồng như tấm áo khoác thật đẹp
cho bố mẹ chồng, một bộ quần áo đẹp biếu bố chồng và ột chiếc khăn biếu cô bác bên
chồng.
Ăn hỏi 2 lần mới được kết hơn
Tiếp theo đó là phong tục đối với người con trai dân tộc Dao Đỏ. Sau khi để ý từ phiên
chợ hay lễ hội của bản làng, nếu thích cơ gái nào thì chàng trai về nói với bố mẹ tới nhà
gái hỏi tuổi người mình yêu.
Nếu hợp tuổi nhau thì gia đình chàng trai trao tặng nhà cô gái đồng bạc trắng.Lần đầu
tiên này nhà gái dù muốn gả con hay khơng thì họ cũng phải từ chối nhận đồng bạc trắng
ấy. Một thời gian sau, nhà trai lại tới xin ăn hỏi lần hai, nếu ba ngày sau mà không thấy
nhà gái trả lại đồng bạc trắng thì nhà trai biết chắc họ đã đồng ý gả con cho nhà mình.
Gia đình chàng trai chọn ngày lành tháng tốt mang lễ vật tới nhà cô gái.
Sau lễ ăn hỏi chính thức, cơ dâu tương lai được gia đình tạo điều kiện thời gian nhàn rỗi
trong một năm để dệt may, thêu thùa hai bộ quần áo cưới từ số vải và chỉ thêu do nhà trai
đưa tới hơm lễ ăn hỏi chính thức.
Nổi bật nhất trong đám cưới của người Dao Đỏ là trang phục của cô dâu với chiếc khăn

đỏ lớn trùm lên chiếc mũ đỏ màu cờ, đính nhiều nụ hoa tết từ len đỏ, cài xen những chiếc
lắc đồng xinh xinh. Mũ áo của cô dâu người Dao Đỏ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo
về màu sắc và sự tinh xảo trong từng đường thêu hoa văn thổ cẩm truyền thống.
Cưới 2 lần
Ở vùng đất giáp ranh Lai Châu và Lào Cai người Hà Nhì ln cưới 2 lần. Những thanh
niên Hà Nhì được tự do kết hơn, nếu bạn gái yêu mình thì chàng trai sẽ dẫn về nhà, thưa
chuyện với cha mẹ xin cưới làm vợ. Khi cả nhà đồng ý thì làm lễ trước bàn thờ “ra mắt”
với tổ tiên gia đình mình có con dâu mới, sau đó nhà chú rể làm cỗ mời cả họ hàng và
dân bản tới cùng vui.
16

7

1


Lần cưới đầu tiên của chàng trai và nếu nhà có điều kiện thì nhà trai sẽ mang lễ sang nhà
cô dâu, gồm mấy đồng bạc trắng nhưng sau này thì đổi thành tiền mặt, một con lợn 50kg,
50l rượu trắng, đôi gà sống cùng xôi nếp và chia đều thành hai gói. Sau đó người vợ phải
đổi họ của mình sang họ nhà chồng. Cịn cưới lần hai sẽ được tổ chức khi hai vợ chồng
có con hoặc kinh tế gia đình khá giả.
Ngủ thăm
Ngủ thăm là một tục lệ lâu đời của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc như Thái,
Dao, Mương, Mông,… Tuy nhiên, ngày nay, tập tục ngủ thăm này đã bị mai một và
nhiều nơi khơng cịn tồn tại. Nhưng với người Mường ở bản Mọc, xã Đồng Nghê(Hịa
Bình), tục cạy cửa ngủ thăm vẫn còn được lưu giữ.
Các chàng trai đến tuổi trưởng thành đều nắm rõ nhà nào trong bản có con gái lớn, đến
tuổi cập kê. Các thiếu nữ ở độ tuổi trăng tròn cũng thường đốt nến, mắc màn vào mỗi
đêm, chờ đợi chàng trai đến ngủ thăm. Thường khi đèn sáng, là nhà cơ gái chưa có ai vào
ngủ thăm, lúc này chàng trai sẽ biết được tín hiệu, cạy cửa chui vào nhà. Nếu cơ gái ưng

thuận sẽ tự tay vặn nhỏ đèn, để các chàng trai biết đã có người “ngủ thăm”. Tuy nhiên,
hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế chung chăn, chung gối mà không được
chạm vào người nhau.
Sau vài đêm ngủ thăm tìm hiểu, nếu cơ gái đồng ý, chàng trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo
sang nhà cô gái thưa chuyện.
Tang lễ của một số dân tộc vùng Tây Bắc
Tang lễ của người H’Mông
Theo phong tục truyền thống, lễ tang của người Mông bao gồm rất nhiều nghi lễ khác
nhau. Khi gia đình có người thân qua đời, việc đầu tiên là con cháu sẽ mang súng kíp ra
ngoài nhà bắn ba phát để báo hiệu với bà con trong bản biết là gia đình có người qua đời.

17

7

1


Con cháu, bà con thôn, bản nghe thấy tiếng súng ở khu vực nào sẽ đổ về gia đình đó để
chia buồn, đồng thời xem có việc gì cùng giúp đỡ. Người chết được con cháu lau mặt,
mũi, chân tay, thay quần áo mới cho sạch sẽ trước khi về với tổ tiên.
Sau khi tắm rửa cho người chết xong, họ dùng một chiếc ván gỗ đem thi thể người chết
đặt giữa nhà rồi người con trai trưởng nhanh chóng đi mời Dở mủ (thầy cúng chỉ đường)
về làm lễ "khai kế" đưa đường chỉ lối cho linh hồn người chết về với tổ tiên.Đây là nghi
lễ không thể thiếu được trong bất cứ đám tang nào của người Mông.
Trước đây, người Mông thường đưa thi thể người chết lên treo ở gian giữa nhà, hay còn
được gọi là đưa lên ngựa "nỉnh đăng" để thồ linh hồn người chết về với tổ tiên. Ngày nay,
phần lớn các dòng họ đã đưa thi thể người chết vào áo quan. Sau khi làm lễ nhập quan,
họ hàng anh em, con cháu đến làm lễ phúng viếng.
Theo lý của người Mông, khi bố mẹ qua đời, mỗi người con trai, con gái đều phải cho bố

mẹ một bộ quần áo mới, một con lợn làm của cải mang về dưới âm để làm ăn. Người con
trai cả bao giờ cũng là người giao lợn cho bố mẹ đầu tiên, tiếp đó là đến các con thứ trong
gia đình, rồi sau đó đến lễ phúng viếng lần lượt của những người thân thiết trong gia đình
và bà con trong bản.
Trong lễ tang của người Mông, ông cậu và ông anh rể là hai người quan trọng nhất, bởi
vậy mà trước khi về chịu tang, ông cậu và anh rể bao giờ cũng phải th một người làm
chủ hát "chí sùng sình" để thay mặt gia đình bên ngoại cùng gia đình tổ chức lễ tang cho
người chết theo đúng truyền thống.
Ngoài ra, phái đồn nhà cậu cịn mang theo một con lợn, một thồ thóc, 10 lít rượu, 3 quả
trứng luộc, một cây tiền để làm lễ phúng viếng cho người chết mang đi. Cịn bà con làng
xóm mỗi người đều mang sang một thồ thóc, một chai rượu, một bó hương để làm lễ
phúng viếng cho người chết (tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình mà họ tổ chức
lễ tang cho người chết to hay nhỏ).

18

7

1


Những lễ tang làm to có mổ trâu thường kéo dài từ 3 - 4 ngày với rất nhiều nghi lễ khác
nhau như: lễ "treo sáng đù" (giao lễ vật), "Nùng chàn gì" (lễ hỏi đáp), "Tiu rìa kềnh",
"Gẩu trùng"… mọi người thổi khèn, đánh trống hát thâu đêm để tiễn biệt người chết. Đến
khi trời gần sáng, con cháu làm lễ đưa người chết ra khỏi nhà và khiêng ra ngoài bãi làm
lễ mổ trâu.
Trước khi mang thi thể người chết ra khỏi nhà, gia đình phải nhờ một người thầy cúng
làm lễ đuổi ma ngựa ra khỏi nhà, với ý nghĩa người chết rồi phải đuổi hồn ra khỏi nhà để
sau này con cháu yên ổn làm ăn. Ngồi thầy cúng, gia đình cịn phải nhờ hai người thanh
niên cầm cành đào, cành mận đập xung quanh nhà với ý nghĩa đuổi ma ra khỏi nhà.

Thi thể người chết được khiêng ra ngoài bãi mổ trâu, người con trai cả bao giờ cũng là
người dắt trâu ra giao cho người chết. Trước khi làm lễ, ông chủ ma làm lễ điểm, sau đó
ơng chủ ma, lấy một sợi dây lanh buộc vào dây thừng trâu rồi làm lễ giao trâu cho người
chết mang đi.
Trong ba ngày đầu vào buổi sáng sớm và lúc chiều tối, ông chủ ma phải mang cơm, lửa
giao cho người chết ăn (với ý nghĩa người mới chết tựa như đứa trẻ chưa biết làm ăn, nên
những ngày đầu con cháu phải mang cơm giao cho người chết). Chôn được ba ngày, con
cháu tập trung mang cuốc, mang xẻng đi sửa sang và rào mộ cho người chết được mồ yên
mả đẹp. Người chết được 12 ngày, con cháu ra mộ đón linh hồn người chết về thăm lại
nhà.
Sau một hai năm, con cháu lại tổ chức lễ cúng "ùa plì" để hồn người chết ra đi được
thanh thản, sau một vài năm, gia đình tiếp tục tổ chức lễ cúng "nhù đăng" (lễ mổ trâu) là
lễ cúng cuối cùng trong lễ tang của người Mông. Sau lễ cúng "nhù đăng", con cháu
không tổ chức bất cứ lễ cúng nào khác. Chỉ đến các ngày lễ tết, con cháu tổ chức lễ cúng
thì họ mới gọi linh hồn người chết về thăm lại nhà.
Tang lễ của người Tày
Đồ lễ viếng đám ma của người Tày Tây Bắc được chuẩn bị khá cầu kỳ, được làm từ
19

7

1


chính bàn tay của những người trong dịng họ và gửi gắm trong đó nhiều quan niệm gắn
với truyền thống văn hóa.
Để hồn thành một lễ viếng theo phong tục và tập quán, người Tày phải tập trung trước
một ngày tổ chức đi viếng. Ngay từ sáng sớm, sau khi có đơng đủ anh em từ các gia đình
trong dịng họ, ông trưởng họ phân công cho mỗi thành viên một việc để chuẩn bị làm đồ
lễ. Người dệt tấm thổ cẩm nhỏ, người lên rừng chặt tre nứa, người đi bắt gà, người ra suối

bẫy cá, người giã bột để làm bánh…
Tinh thần đồn kết, đồng lịng của người Tày được thể hiện ngay trong quá trình làm đồ
lễ viếng. Trong vòng một ngày, đồ lễ mang đi viếng người chết trong dịng họ phải được
hồn thiện. Vì vậy, những người trong dòng họ làm việc hết sức khẩn trương. Đồ lễ của
người Tày vùng Tây Bắc khá độc đáo, được làm từ những nguyên vật liệu trong đời sống
thường nhật và gắn liền với cuộc sống của người chết khi còn sống như cây hoa, tấm thổ
cẩm, cành phướn, bánh nếp....
Ngoài những lễ vật trên, người Tày khi đi viếng đám ma còn chuẩn bị những con vật như
con lợn cắp nách, gà nhỏ, cá suối nướng cùng các loại hoa quả như chuối, cam, dứa… với
mong muốn cuộc sống dương gian sẽ cịn sinh sơi, nảy nở mãi mãi. Người Tày quan
niệm, khi người còn sống ăn gì, mặc gì và dùng những vật gì thì khi chết đi, lễ viếng
cũng gồm những đồ vật vừa giản dị vừa gắn liền với đời sống thường ngày.
Sau khi đã hoàn thiện xong những đồ lễ trên, người Tày xếp đồ lễ vào làn hoặc cầm trên
tay, những người trong dòng họ cùng nhau đi đến nhà người chết. Đến đầu cổng, trước
khi viếng, họ tập trung để xếp đồ lễ cho đúng nghi lễ. Đầu tiên, họ dùng một đế vng
bốn góc đan bằng nứa cao chừng 60-70 cm, sau đó lấy tấm thổ cẩm bọc xung quanh cho
kín; tiếp đến là dùng dây xâu những chiếc bánh nếp thành vòng tròn và treo xung quanh
giá đỡ. Ở chính giữa giá đỡ cắm cây hoa giữa một chiếc bánh được cắt tỉa xung quanh
hình răng cưa. Cành phướn được treo trên một cành tre nhỏ, cao quá đầu người, lợn, gà
nhốt trong lồng đan bằng tre nứa. Tất cả cơng việc hồn thành, anh em trong dịng họ mới
bước chân vào nhà than khóc và tiến hành lễ viếng.

20

7

1


Lễ viếng đám ma của đồng bào Tày Tây Bắc vừa thể hiện sự tiếc thương, tri ân của người

sống đối với người chết, vừa gắn liền với quan niệm nhân sinh của đồng bào, thể hiện
mong ước về sự hồi sinh, may mắn trong cuộc sống.
Tang lễ của người Thái đen:
Người Thái đen vẫn giữ nghi thức hỏa táng khi người thân qua đời. Bốn khối củi được
xếp vuông vắn tại khu nghĩa trang của bản mà người Thái gọi là “rừng ma”.Sau khi cơng
đoạn hỏa thiêu hồn tất, xương sẽ được rửa bằng rượu xếp vào một chiếc chum sành và
chôn xuống một ngôi mộ đào sẵn trong “rừng ma”.
Tục hoả táng của đồng bào Thái đen đến nay vẫn được lưu truyền một số địa phương
vùng Tây Bắc. Trước đây lễ hoả táng của đồng bào kéo dài 3 ngày, 2 đêm, mất nhiều thời
gian công sức, tiền của. Ngày nay, thực hiện nếp sống văn hoá, đồng thời để tiết kiệm
thời gian và chi phí, bà con đã chọn thực hiện hỏa táng trong một ngày.
Hoả táng theo người Thái đen gọi là “Siêu”. Khi trong bản có người qua đời, việc hoả
táng sẽ được bà con chuẩn bị theo nghi thức tang lễ của bản. Tại nghĩa địa nơi sẽ chôn cất
người qua đời, người ta chuẩn bị đống củi chất cao quá đầu người, củi khô, củi tươi xếp
chồng lên để khi đốt, lửa không tàn nhanh, cháy đều, cháy hết, linh hồn người quá cố mới
siêu thoát.
Hoả táng do đồng bào Thái quan niệm người mất được tắm lửa mới được sạch sẽ, siêu
thoát. Đồng bào quan niệm khi con người về với tổ tiên thì phải sạch sẽ nên mới hoả
táng.
Trong lễ hoả táng khơng thể thiếu con trâu hoặc con bị. Cúng tế xong, con trâu hoặc con
bò được mang đi giết mổ làm thịt cho dân bản ăn. Còn thủ trâu sẽ được cắt treo ở nhà mồ.
Mọi thủ tục được làm xong, ông mo cùng con cháu người đã khuất ra nghĩa địa nơi hoả
táng nhặt xương cốt cho vào vại hoặc tiểu. Xương cốt được rửa bằng rượu trắng sau đó
cho vào túi vải khâu lại, trong túi vải có luồn cuộn tơ tằm thịng lọng ra ngồi. Cúng tế
xong hài cốt được chôn chặt, nhà mồ được dựng lên cùng các đồ vật, đồ lễ cho nhà mồ

21

7


1


đầy đủ sắc màu. Đồng bào quam niệm sợi dây tơ tầm là sợi dây nối âm dương, để cho
hồn người đã khuất bay ra, hồn thiêng thì về nhà phù hộ, độ trì cho con cháu.
Lễ tang của người Mường
Người Mường ở Hịa Bình với nghi lễ tang ma của họ có đặc điểm chung là những đêm
mo. Một lễ tang có thể kéo dài từ một đêm, hai đêm, hoặc mười đêm, mười hai đêm hoặc
lâu hơn nữa. Điều này phụ thuộc vào tuổi tác và địa vị xã hội làng, bản của người chết.
Nhà ở của một số dân tộc vùng Tây Bắc:
Nhà sàn dân tộc Mường:
Nhà sàn dân tộc Mường thường sử dụng gỗ quý, tre nứa,… trong rừng tự nhiên để xây
dựng. Ngôi nhà được xây dựng trên một sườn đồi và trên sườn núi. Đây là phong tục của
người Mường khi chọn nơi làm nhà theo tiêu chuẩn cả thế, hướng tụ linh khí của trời đất
và vạn vật xung quanh để mang lại may mắn và sức khỏe cho mọi người sống trong nhà.
Người Mường chọn hướng nhà cẩn thận, bởi họ tin rằng xây nhà đúng hướng sẽ mang lại
may mắn cho gia đình. Theo quan niệm của người Mường, làm nhà không nên làm nhà
ngược hướng với những ngọn đồi.
Cách bài trí khơng gian sống của người Mường cũng rất đặc biệt. Một ngơi nhà sàn sẽ có
cầu thang lẻ, bởi theo quan niệm của người Mường, không dùng số chắn để thiết kế bậc
cầu thang vì đây là điều kiêng kỵ và không đem lại nhiều may mắn.
Nhà sàn dân tộc Thái:
Từ xa xưa, quan niệm của người Thái là tạo ra một ngơi nhà an tồn, có thể chống chọi
với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Chính vì vậy mà những ngôi nhà sàn truyền thống đã
ra đời cùng con người hàng nghìn năm và giúp họ tồn tại và phát triển.

22

7


1


Để làm được những ngôi nhà sàn, người Thái phải chọn loại gỗ tốt làm khung nhà và mái
tranh. Nhà sàn thường cách mặt đất khoảng 2 mét, sàn được lát bằng cây bương, nguyên
liệu tre hoặc gỗ. Điều đặc biệt của một ngơi nhà sàn truyền thống là nó không sử dụng
những mảnh sắt nhỏ trong thiết kế xây dựng, mặc dù nó bao gồm các loại gỗ và cây có
dóng… Tất cả là hệ thống buộc, chằng đều rất cơng phu và cầu kì banhwf những thanh
tre, giàn mây đan bằng vỏ cây quý trong rừng.
Tuy đơn sơ, mộc mạc nhưng ngôi nhà sàn rất chắc chắn, bền bỉ, chống chọi được mưa
rừng quanh năm, gió núi, và khí hậu ẩm ướt. Có ngơi nhà tồn tại lên tới hàng trăm năm
tuổi.
Nhà sàn dân tộc Tày:
Rong ruổi khắp các tỉnh phía Tây Bắc, ta bắt gặp rất nhiều ngôi nhà sàn dân tộc Tày cũ
kỹ nhưng vẫn đứng vững. Có những ngơi nhà sàn được người dân thiết kế và ở từ rất lâu
khoảng vài chục năm.
Người dân cần chuẩn bị đầy đủ vật liệu trong tự nhiên phù hợp để thiết kế nhà sàn như:
gỗ, lá cọ, ván… Bà con cần phải leo lên những ngọn núi cao sâu trong rừng và tìm kiếm
những cây lâu năm tốt tươi.
Tất cả ngôi nhà sàn đều được lợp bằng lá cọ, đây có lẽ là đặc điểm nổi bật của nhà sàn
Tây Bắc. Mái lợp lá cọ khiến ngôi nhà trở nên mát mẻ và duyên dáng hơn, đậm sắc văn
hóa dân tộc Tày. Mỗi ngơi nhà trên tầng cao cần hơn 1000 lá cọ để lợp mái.
Nhà sàn dân tộc Tày có đặc điểm riêng khác với kiến trúc của người Mường và Thái là
chỉ có một chiếc cầu thang chung để đi lên xuống nhà. Đi hết tháng là cửa nhà, vào sâu
trong nhà có các gian sinh hoạt, nấu nướng, sinh hoạt. Chính vì thế mà các vật liệu làm
nhà đều được quay ngọn về phía cửa chính. Đặc điểm này cũng rất độc đáo trong văn hóa
làm nhà sàn của người Tày.

23


7

1


2.4. Tập qn - tín ngưỡng
Người Thái cịn có một thái độ rất kính trọng đối với rừng. Chẳng phải rừng có ma thiêng
mà vì rừng cịn là nơi con người nương tựa để tồn tại.
Người Thái cũng có tín ngưỡng với nước, đó là đặc điểm chung của người làm nơng
nghiệp, tâm thức đó được “thể chế hố” bằng hình tượng thần nước dưới dạng thuồng
luồng và bằng các lễ cụ thể.
Văn hóa nơng nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng bởi hệ thống tưới tiêu thích hợp, được
đúc kết như một thành ngữ: “Mương – Phai – Lái – Lịn”. Tức, lợi dụng độ dốc của dòng
chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao – đó là cái phai. Phía trên phai xẻ
một đường chảy lớn dẫn vào cánh đồng đó là mương. Từ mương xẻ những rãnh chảy
vào ruộng đó là lái. Cịn lịn là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà
bằng các cây tre đục rỗng mấu, nối tiếp nhau có khi dài hàng cây số. Do chủ động tưới
tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo
nước bắt cá. Cho nên, món dân cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xơi và cá nướng.
Người Thái cịn có tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”. Nếu người Kinh cho rằng có 3 hồn 7
vía, cịn người Thái có đến 80 hồn (Xam xíp khoăn mang nả, Hả xếp khoăn mang lăng):
như hồn tóc, hồn lơng mày, lơng mi, tai, mũi, trán, ... người chết không biến mất mà trở
về sống ở bản của tổ tiên.
Người Thái có truyền thống sống chân thật, giản dị và rất hoà thuận, tôn trọng người
già, thương yêu trẻ nhỏ và giúp đỡ nhau vô tư.
2.5. Lễ hội
Lễ hội hoa ban: Đây là lễ hội của đồng bào dân tộc Thái và lễ hội này cịn có tên gọi khác
là hội Xên bản, Xên mường. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng Hai âm lịch, khi hoa
ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Hội hoa ban là ngày hội của tình yêu đôi lứa; ngày hội


24

7

1


của hạnh phúc gia đình; hội cầu mùa, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài,
vui chơi, hát giao duyên trong những đêm trăng sáng.
Lễ hội cầu an bản Mường: Đây là lễ hội của đồng bào dân tộc Thái ở Mai Châu, Thuận
Châu, Mộc Châu và đồng bào dân tộc Mường. Đây là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
rất quan trọng đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Lễ hội được tổ chức vào
cuối tháng Giêng, đầu tháng Hai âm lịch hằng năm. Lễ hội này được gắn với tục giết trâu
và tạ thần linh được thể hiện qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng… Nội dung của lễ
hội có nhiều hoạt động liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh, mùa màng,
sức khỏe và sự làm ăn của cả cộng đồng trong năm diễn ra lễ hội. Chính vì thế mà lễ hội
này được tổ chức rất trọng thể, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng.
Lễ hội Lồng Tồng: Là một lễ hội truyền thống đặc trưng của cộng đồng người Tày. Lễ
hội này được tổ chức hàng năm vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch theo từng địa
phương, mang ý nghĩa cầu phúc, cầu mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên, no ấm.
Trong lễ hội thường diễn ra các trò chơi dân gian cổ truyền, như: Ném còn, bịt mắt bắt
dê, hát lượn….
2.6. Ảnh hưởng của văn hóa Tây Bắc đến nền văn hóa Việt Nam - Hạn chế và khắc
phục:
2.6.1. Ảnh hưởng của văn hóa Tây Bắc đến nền văn hóa Việt Nam
Văn hóa tộc người là một trong những tài nguyên du lịch quý giá của quốc gia. Vùng
văn hóa Tây Bắc là một trong số đó, đây là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em như
người Thái, Tày, H ’mông, Dao, Mường, Khơ mú, Laha, Xinh mun, Kháng, Mảng,... mỗi
dân tộc mang những nét phong tục tập quán riêng đã tạo cho vùng văn hoá Tây Bắc nói
riêng và văn hóa Việt Nam nói chung - một nền văn hoá đa dạng, nhiều màu sắc độc

đáo.
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là khơng gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với điệu
múa xòe, tiêu biểu là điệu múa xòe hoa được rất nhiều người biết đến, khi đến với

25

7

1


×