Tải bản đầy đủ (.doc) (225 trang)

Bài Gi_Ng Kinh T_ Qu_N L_-Theo Đề Cương 2Tc.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.19 MB, 225 trang )

Tài liệu Kinh tế quản lý

Mục lục
Theo giáo trình (GT) gắn với đề cương 2TC của bộ môn
Chương 1: Giới thiệu kinh tế quản lý (C1GT)
Chương 2: Lý thuyết cầu (C3GT-C4GT)
Chương 3: Sản xuất (C7GT) và chi phí (C9GT)
Chương 4: Cấu trúc thị trường, hành vi chiến lược và đặt giá: (C10-C11-C12 GT)
Chương 5: Chính phủ và doanh nghiệp (C19GT)

Tài liệu tham khảo

[1] Nguyễn Thế Hòa (chủ biên), Kinh tế quản lý (2012) – NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, dịch từ cuốn Managerial Economics của W.B. Allen, N.A. Doherty, K.
Weigelt, E. Mansfield.
[2 ] Nguyễn Thế Hòa, Kinh tế học Vi mô (2009) - trường Đại học Thủy lợi, dịch từ
cuốn Microeconomics của D. Colander (2004).
[3] Nguyễn Thế Hòa & Vũ Ngọc Thanh, Giáo trình Kinh tế Vi mơ-Vĩ mơ (2005),
NXB Nông Nghiệp.

1


Chương 1
Giới thiệu Kinh tế quản lý
1.1 Ví dụ nghiên cứu điển hình
Hãng Boeing, Cơng ty Walt Disney, và cơng ty Toyota Motor có điểm gì chung? Cả ba, giống như
vô số các hãng khác, đã sử dụng các nguyên lý đã có từ lâu của kinh tế quản lý để cải thiện khả năng sinh
lợi nhuận của họ. Kinh tế quản lý dẫn tới việc phân tích các khái niệm như chi phí, cầu, lợi nhuận, cạnh
tranh, định giá, chiến lược nhập ngành, và chiến lược bảo vệ thị trường. Nó cố gắng làm giảm khoảng cách
giữa những vấn đề phân tích thuần tuý hấp dẫn nhiều nhà lý thuyết kinh tế và các quyết định hàng ngày mà


các nhà quản lý đối mặt. Nó đưa ra các cơng cụ và cách tiếp cận hữu hiệu cho việc ra chính sách quản lý,
như lý thuyết trị chơi và các chính sách định giá tinh vi ví dụ biểu thuế quan cả gói và hai phần.
Trong chương mở đầu này, chúng ta bắt đầu nghiên cứu bằng việc trình bày một số nghiên cứu điển
hình minh hoạ một số vấn đề mà kinh tế quản lý có thể giúp giải quyết. Mặc dù chúng chỉ là một mẫu nhỏ
các tình huống mà kinh tế quản lý xem là hữu ích, nhưng các minh hoạ đó đưa ra ấn tượng đầu tiên hợp lý
về bản chất của kinh tế quản lý và sự liên quan của nó tới các quyết định kinh doanh thực tế. Để giúp làm
sáng tỏ ứng dụng vào quyết định kinh doanh, các hộp công cụ được đưa vào có mục đích như Khái niệm
trong bối cảnh, Góc nhà tư vấn, và Phân tích quyết định quản lý, chỉ ra trực tiếp cho bạn đọc các ứng dụng
của khái niệm liền ngay trong bài học. Chúng ta cũng kiểm tra mối quan hệ giữa kinh tế quản lý và các mơn
học có liên quan như kinh tế vi mô và khoa học ra quyết định, bao gồm cả thống kê.
Tiếp theo, chúng ta lấy các mơ hình ra quyết định cơ bản cũng như lý thuyết về hãng. Do kinh tế
quản lý có liên quan tới cách thức mà các nhà quản trị kinh doanh và các nhà ra chính sách khác cần đưa ra
quyết định, nên điều quan trọng tại điểm bắt đầu này là bản chất của q trình ra quyết định được phân tích
và động cơ của hãng được thảo luận. Do lợi nhuận đóng một vai trị chính trong việc ra quyết định kinh
doanh, nên chúng ta định nghĩa lợi nhuận và nhận diện định nghĩa lợi nhuận của các nhà kinh tế khác với
người kế toán như thế nào. Cuối cùng, chúng ta trình bày tổng quan về những nguyên lý cơ bản của cầu và
cung, một chủ đề trọng tâm được nghiên cứu rất kỹ trong các chương tiếp theo.

1.1.1 Cuộc chiến của Boeing để duy trì sự lãnh đạo thị trường
Để minh họa kinh tế quản lý có thể giúp các nhà quản lý như thế nào, hãy xem xét vấn đề mà các
nhà nhà quản lý đối mặt tại công ty Boeing. Boeing đã từng là nhà sản xuất máy bay thương mại lớn nhất
thế giới. Vào đầu những năm1970, các nhà quản lý của Boeing đã vạch ra cách tiếp cận hai mũi nhọn nhằm
duy trì sự lãmh đạo thị trường. Công ty đáng ra đã là nhà sản xuất có chi phí thấp và cơng nghệ hàng đầu
trong ngành này. Năm 1980, công ty đã đạt được thị phần 81%, gấp 7 lần trên đối thủ cạnh tranh gần nhất.
Và, Boeing đã có thể đạt được kỳ cơng này trong khi vẫn duy trì lợi nhuận biên ở mức cao. Một chuyên gia
trong ngành ước tính rằng năm 1991, Boeing đã thu được 45 triệu $ lợi nhuận trên mỗi máy bay 747 được
bán với giá 150 triệu $.
Đối thủ chính của Boeing từ những năm 1980 là Airbus, một liên doanh của các hãng hàng không
Anh, Pháp, Đức và Tây ban Nha. Bắt đầu cung cấp chiếc máy bay đầu tiên của họ vào năm 1974, Airbus
nhanh chóng chiếm vị trí thứ hai sau Boeing. Năm 1997, Airbus đạt thị phần trên 33%, trong khi thị phần

của Boeing giảm xuống dưới 65%. Airbus không chỉ làm giảm thị phần của Boeing mà cơng ty này cũng
cịn được xem là dẫn đầu về tiến bộ công nghệ và thách thức Boeing về dẫn đầu chi phí thấp. Sự tiến lên
mạnh mẽ của Airbus cũng buộc các nhà quản lý của Boeing giảm mạnh giá và phụ thuộc nhiều vào việc hạ
giá để bán máy bay của họ. Năm 1994, thu nhập ròng của Boeing giảm 31% so với mức năm 1991, lý do

2


hàng đầu là sự cạnh tranh gia tăng của Airbus. Năm 2003, Airbus thơng báo rằng nó sẽ sản xuất nhiều máy
bay thương mại hơn Boeing.
Kinh tế quản lý có thể giúp chúng ta hiểu tốt hơn Airbus đã ăn mịn nhanh chóng sự thống lĩnh thị
trường của Boeing như thế nào. Chương 9 cung cấp một số cơ sở hợp lý để giải thích Airbus đã giảm
những chi phí của nó như thế nào nhằm tiếp cận với chi phí của Boeing. Ví dụ, chương này minh họa chi
phí sản xuất máy bay bị tác động bởi số máy bay được sản xuất ra như thế nào. Chương 8 giúp ta hiểu tiết
kiệm chi phí hơn nữa có thể thực hiện được bằng cách giảm thời gian phát triển các mơ hình máy bay mới
như thế nào. Cuối cùng, chương 20 giúp ta hiểu chính sách thương mại quốc gia có thể giúp Airbus như thế
nào trong việc tìm kiếm để thách thức Boeing.

1.1.2 Tập đoàn Disney: Sự mở rộng lĩnh vực ảo thuật
Tập đồn Disney ln được biết đến như là thánh địa về khả năng tiềm tàng và tài năng sáng tạo.
Tuy nhiên, sau khi người sáng lập ra nó, Walt Disney, mất vào năm 1966 cơng ty bị lênh đênh trôi dạt mất
hàng chục năm. Mặc dù công ty vẫn giữ được sự thừa nhận nhãn hiệu danh giá, nhưng các nhà quản lý của
nó dường như khơng thể chuyển sự thừa nhận đó thành lợi nhuận và tăng doanh thu. Do hoạt động yếu kém
này, mà đầu những năm 1980 công ty bị tấn công bởi hàng loạt các tập đồn đột kích, bao gồm cả Saul
Steinberg và Irwin Jacobs. Trong tuyệt vọng, các lãnh đạo đã thuê Michael Eisner làm tổng giám đốc mới.
Eisner và nhóm quản lý của mình đã mở ra giá trị cho tên tuổi của Disney và chiếm lĩnh vương
quốc ảo thuật thế kỷ 21. Trong 20 năm, nhóm của Eisner đã làm tăng doanh thu lên 10 lần để đạt trên 25 tỉ
$ vào năm 2002. Disney bây giờ được xếp hạng trong nhóm 100 hãng lớn nhất tồn cầu và là công ty
truyền thông lớn thứ hai thế giới (sau Time – Warner). Disney nắm giữ các hãng: Mạng phát thanh và vô
tuyến ABC; 10 trạm vô tuyến và 59 trạm phát thanh Mỹ; sở hữu trên 10 kênh truyền hình cáp, bao gồm cả

ESPN International, kênh dẫn đầu toàn cầu về mạng thể thao (với 24 giờ phát sóng bằng 21 thứ tiếng cho
trên 165 nước); một số hãng phim, video và vơ tuyến chính, bao gồm Disney, Miramax, và Buena Vista;
một số nhãn hiệu ghi âm đĩa hát lớn; các cơng viên giải trí ở Mỹ, Nhật, và Pháp; Disney Cruise Line; và
600 cửa hàng bán lẻ Disney trên khắp thế giới.
Để mở rộng lĩnh vực ảo thuật, nhóm của Eisner đã sử dụng những phân tích dựa trên các nguyên lý
kinh tế quản lý. Ví dụ, sau khi nghiên cứu chỉ ra rằng tăng cường quảng cáo có thể làm tăng lượng người
đến cơng viên giải trí và lợi nhuận, nhóm này đã tiến hành hàng loạt các chiến dịch quảng cáo thắng lợi.
Nhóm của Eisner cũng cho thấy khả năng của mình sử dụng cả hai kỹ thuật định giá giản đơn và
tinh vi để cải thiện hoạt động của hãng. Khi bộ phim cổ điển sinh động Pinocchio của Disney được phát
hành trên băng video, ban đầu nó đặt giá 79,95$ (như hầu hết các băng video khác). Với giá này chỉ có
100.000 phiên bản được bán trong hai tháng đầu. Nhóm Eisner quyết định hạ giá mạnh xuống cịn 29,95$
và nhanh chóng bán được trên 300.000 phiên bản. Disney cũng là người dẫn đầu trong việc sử dụng các
chiến lược định giá tinh vi, như bán theo gói. Họ đã kết hợp cả gói tua thăm Disney cùng với nghỉ lại cơng
viên giải trí Disneyworld của họ ở Florida, bữa ăn trẻ em của McDonald cùng với tranh ảnh hành động từ
phim của họ, và một số kênh truyền hình cáp cho khách hàng dùng cáp truyền hình. Họ cũng tiến hành
phân biệt giá. Khách hàng mua băng video Disney được kèm theo phiếu mua hàng tại các cửa hàng bán lẻ
của Disney. Các chiến lược trên và định giá khác được nghiên cứu trong chương 12. Với sự hỗ trợ của các
phương pháp đó, Disney đã chia cho cổ đơng của mình liên tục trong 14 năm 20% tăng trưởng thu nhập
mỗi năm và khoản thu nhập cổ phiếu hàng năm 18,5%.

1.1.3 Toyota cần sản xuất ô tô theo chu kỳ sản xuất nào?
Các hãng phải quyết định sản xuất sản phẩm của họ như thế nào. Các hãng sản xuất đa sản phẩm
trên một dây chuyền lắp ráp phải quyết định sản xuất bao nhiêu mỗi loại sản phẩm định trước trong một

3


chu kỳ sản xuất - về thực chất, là độ dài của chu kỳ sản xuất. Các chu kỳ sản xuất dài hạn làm giảm chi phí
liên quan tới việc thay đổi trên dây chuyền sản xuất để sản xuất một sản phẩm khác biệt hóa (chi phí cơ
cấu), trong khi đó chu kỳ sản xuất ngắn hạn làm giảm chi phí liên quan tới vật liệu thơ và sản phẩm tồn kho

(sản phẩm tồn kho chịu phí). Chu kỳ sản xuất nhỏ, tần suất cao có nghĩa là chi phí cơ cấu lớn và chi phí
hàng tồn kho thấp. Chu kỳ sản xuất lớn, tần suất thấp có ảnh hưởng ngược lại.
Công ty Toyota Motor (và nhiều nhà sản xuất khác) đối diện với chính vấn đề này. Chu kỳ sản xuất
nào là tối ưu để cực tiểu hóa tổ hợp chi phí cơ cấu và sản phẩm tồn kho? Trong chương 7, chúng ta bàn đến
việc giảm đáng kể chi phí cơ cấu của Toyota đã tạo khả năng cho nó rút ngắn đáng kể chu kỳ sản xuất tối
ưu như thế nào và do đó giảm được tổng chi phí.
Mơ hình được sử dụng trong trường hợp của Toyota được gọi là mơ hình về lượng đặt hàng kinh tế
(EOQ). Nó là cơ sở chính của sự quản lý dây chuyền cung ứng. Sử dụng nó (theo phiên bản tinh vi), các
công ty xác định số lượng tối ưu của một sản phẩm cần thiết mỗi lần họ đặt hàng. Trong mơ hình đơn giản,
hãng đánh đổi chi phí đặt hàng với chi phí hàng tồn kho. Khi mơ hình được mở rộng, sự tin vậy vào thời
gian cung ứng đóng một vai trị chính trong việc xác định mơ hình EOQ tối ưu. Chúng ta bàn về mơ hình
này trong chương 7.

1.2 Mối quan hệ của Kinh tế quản lý với các môn học khác
Sau khi xét ba nghiên cứu điển hình minh họa các loại vấn đề mà kinh tế quản lý có thể giúp giải
quyết, chúng ta bắt đầu mô tả kinh tế quản lý có mối qua hệ như thế nào với các mơn học khác. Như minh
họa trong Hình 1.1, kinh tế quản lý thiết lập mối quan hệ giữa lý thuyết kinh tế và khoa học ra quyết định
trong phân tích việc ra quyết định quản lý. Lý thuyết kinh tế truyền thống, gồm kinh tế vi mô (tập trung vào
người tiêu dùng, hãng, và các ngành riêng lẻ) và kinh tế vĩ mô (tập trung vào tổng sản lượng, thu nhập và
việc làm), chứa đựng nhiều tài liệu liên quan tới việc ra quyết định quản lý; trong đó vai trị của kinh tế vi
mơ đặc biệt quan trọng. Kinh tế quản lý rút ra chủ yếu từ kinh tế vi mô, cũng như từ các lĩmh vực khác của
lý thuyết kinh tế.
Nhưng kinh tế quản lý hoàn toàn khác với kinh tế vi mô. Trong khi kinh tế vi mơ phần lớn mang
tính mơ tả (tức là, nó cố gắng mô tả nền kinh tế hoạt động như thế nào mà không chỉ ra nền kinh tế cần phải
vận hành như thế nào), thì kinh tế quản lý lại phần lớn mang tính đề xuất ra các qui tắc (tức là, nó cố gắng
thiết lập các qui tắc và phương pháp để thực hiện các mục tiêu cụ thể). Ví dụ, kinh tế vi mơ quan tâm đến
phương thức mà các nhà sản xuất máy tính như IBM định giá cho sản phẩm của họ, trong khi kinh tế quản
lý lại quan tâm đến việc họ cần đặt giá sản phẩm của họ như thế nào. Dĩ nhiên, đây mới chỉ là một sự khác
biệt về mức độ và tầm quan trọng chứ không phải là khác biệt về phân loại, nhưng dù sao cũng rất quan
trọng.

Như minh họa trong hình 1.1, kinh tế quản lý rút ra chủ yếu từ khoa học ra quyết định, cũng như từ
kinh tế học truyền thống. Khoa học ra quyết định đưa ra các phương thức để phân tích ảnh hưởng của
những tiến trình hành động có khả năng lựa chọn thay thế. Kinh tế quản lý sử dụng các phương pháp tối ưu
hóa, chẳng hạn như phép tính vi phân và qui hoạch tốn học, để xác định tiến trình hành động tối ưu cho
người ra quyết định. Để thực hiện các phương pháp này cần phải sử dụng các phương pháp thống kê để ước
lượng mối quan hệ giữa các biến có liên quan và dự báo các giá trị của chúng. Vì vậy, kinh tế quản lý ra
đời từ sự pha trộn tổng hợp của các phần khác nhau của kinh tế học và khoa học ra quyết định, bao gồm cả
thống kê.
Kinh tế quản lý đóng hai vai trò quan trọng trong nghiên cứu quản trị kinh doanh. Thứ nhất, khóa
học về kinh tế quản lý, giống như các khóa học về kế tốn, các phương pháp số và hệ thống thông tin, cung
cấp các công cụ phân tích cơ bản mà có thể và cần được sử dụng trong các khóa học khác như marketing,
tài chính, và sản xuất. Thứ hai, khóa học về kinh tế quản lý giống như các khóa học về chính sách kinh

4


doanh, có thể phục vụ vai trị tổng hợp, chỉ ra các lĩnh vực khác như marketing, tài chính, và sản xuất phải
được xem xét như là một thể thống nhất để thực hiện các mục tiêu của hãng.
Mặc dù kinh tế quản lý là trọng tâm nghiên cứu của quản trị kinh doanh, như nó đóng vai trị khơng
nhỏ trong quản lý của các tổ chức không kinh doanh như các cơ quan của chính phủ, bệnh viện và trường
học. Không cần chú ý tới người ta quản lý Eastman Kodak, bệnh viện Mayo Clinic, hay Đại học tổng hợp
Hawaii thế nào, thì người ta cũng phải chú ý tới việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Lãng phí vẫn là lãng
phí dù nó xảy ra ở đâu. Các nguyên lý của kinh tế quản lý là quan trọng trong việc làm giảm lãng phí trong
các tổ chức không kinh doanh như trong các hãng.

Kinh tế quản lý thiết lập mối quan hệ giữa lý thuyết kinh tế và khoa học ra quyết định
trong phân tích việc ra quyết định quản lý

Hình 1.1 Mối quan hệ giữa kinh tế quản lý và các mơn học có liên quan


1.3 Quá trình ra quyết định cơ bản
Đối với cả hãng và tổ chức khơng kinh doanh, q trình ra quyết định có thể được chia thành 5
bước, như minh họa trong hình 1.2. Các bước này như dưới đây.

Bước 1. Thiết lập hay xác định các mục tiêu
Khi đưa ra bất cứ quyết định nào, bạn, là người ra quyết định, cần xác định cái gì là các mục tiêu
của tổ chức (hay của cá nhân). Nếu không biết bạn đang cố gắng đạt được cái gì, thì khơng có cách hợp lý
nào để ra quyết định. Ví dụ, xét các nhà quản lý của Black và Decker, nhà sản xuất dụng cụ điện, phải ra
quyết định trong những năm 1970 là liệu có phải thiết kế lại các dụng cụ điện cho người tiêu dùng của hãng
hay không. Các mục tiêu của họ là hỗ trợ lợi nhuận của hãng, đạt được tỉ lệ tăng trưởng 15% hàng năm,
duy trì độc lập, và cung cấp dịch vụ cho các thị trường thế giới.

5


Bước 2. Xác định vấn đề
Một trong những phần khó nhất của việc ra quyết định là xác định được chính xác cái gì là vấn đề.
Thường xun các nhà quản trị phải đương đầu với một tình huống được đánh giá là khơng vừa ý. Ví dụ,
ban quản lý của Black và Decker cảm thấy nó phải thay đổi hoạt động một cách quyết liệt nếu nó muốn tiếp
tục là nhà chế tạo trong nước đang tiến hành kinh doanh quốc tế. Để đáp ứng thách thức này nó phải xác
định được chính xác cái gì là vấn đề, vì nếu khơng nó có rất ít cơ may giải quyết vấn đề đó. Sau khi nghiên
cứu kỹ nó kết luận rằng vấn đề là cạnh tranh với nước ngoài gia tăng và khả năng gấp đôi lớp cách điện của
dụng cụ điện có thể là địi hỏi mang tính pháp lý. (gấp đơi lớp cách điện có nghĩa là thêm một lớp chắn
cách điện đặt vào trong đồ dùng diện để bảo vệ người sử dụng khỏi điện giật nếu hệ thống cách điện chính
bị hỏng.)

Q trình này có thể được chia thành năm bước cơ bản
Hình 1.2 Quá trình ra quyết định cơ bản

Bước 3. Nhận diện các giải pháp có thể

Một khi vấn đề đã được xác định thì chỉ cịn cố gắng xây dựng và nhận diện các giải pháp có thể.
Ví dụ, Black và Decker xem xét một loạt các lựa chọn, bao gồm việc sản xuất hiệu quả hơn và hoạt động
marketing sản phẩm của nó dựa trên các thiết kế hiện tại, cũng như việc thiết kế lại toàn bộ dây chuyền sản
xuất của nó.

Bước 4. Chọn giải pháp có thể tốt nhất
Sau khi nhận diện tập các giải pháp có thể lựa chọn thay thế, tiến hành đánh giá mỗi giải pháp và
xác định giải pháp nào là tốt nhất, căn cứ vào các mục tiêu của tổ chức. Trong trường hợp của Black và
Decker, nghiên cứu chỉ ra rằng giải pháp tốt nhất là thiết kế lại dụng cụ điện cho người tiêu dùng của hãng.
Các nhà quản lý của Black và Decker “quyết định rằng cánh cửa cơ hội thực sự là cải tiến các dây chuyền
sản xuất và công suất chế tạo của họ. Hơn nữa, họ đã quyết định nếu họ không dành thời gian để ưu tiên
làm ngay, thì họ sẽ khơng bao giờ có thời gian và nguồn lực để làm về sau”.

6


Bước 5. Thực hiện quyết định
Một khi giải pháp cụ thể đã được lựa chọn, thì nó phải được thực hiện để có hiệu quả. Ngay những
tổ chức có tính kỷ luật cao như quân đội cũng thường gặp khó khăn thực thi hiệu quả các mệnh lệnh. Vì các
quyết định tốt nhất cũng trở thành số không nếu không thực thi, giai đoạn này của quá trình ra quyết định
có tầm quan trọng đặc biệt. Trong trường hợp của Black và Decker, tổ chức hãng đã thay đổi, và một vị trí
mới – phó chủ tịch phụ trách hoạt động sản xuất - được lập ra sao cho tất cả các khâu chế tạo, phát triển sản
phẩm, và kỹ thuật sản xuất tiên tiến được đặt dưới quyền một nhà quản lý. Ban quản lý cao nhất của hãng
đảm bảo quyết định này được được hiện đúng.

1.4 Lý thuyết về hãng
1.4.1 Giá trị của hãng
Mặc dù kinh tế quản lý không chỉ quan tâm đến quản trị kinh doanh của hãng, nhưng đây là lĩnh
vực áp dụng chính của nó. Để áp dụng kinh tế quản lý vào quản trị kinh doanh, chúng ta cần đến một lý
thuyết về hãng, lý thuyết chỉ ra hãng có hành vi như thế nào và cái gì là mục đích của chúng. Hãng là

những tổ chức đồng bộ và biến đổi rất mạnh. Mỗi lý thuyết hay mơ hình (có ý nghĩa như lý thuyết) phải ở
dạng đơn giản hóa. Thủ thuật để xây dựng một mơ hình theo cách thức như vậy là các biến và những xem
xét khơng có liên quan hay không quan trọng được bỏ qua, nhưng cần đưa vào những yếu tố cơ bản –
những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng tới hiện tượng mà mơ hình được thiết kế để giải thích.
Mơ hình doanh nghiệp kinh doanh cơ bản có nguồn gốc từ những gì các nhà kinh tế thiết kế như là
lý thuyết về hãng. Trong phiên bản thô thiển nhất, lý thuyết này giả thiết rằng hãng cố gắng cực đại hóa lợi
nhuận của mình. Nhưng phiên bản này quá cứng nhắc để có thể hữu dụng trong nhiều hồn cảnh, đặc biệt
khi vấn đề mà hãng đối mặt có những nhân tố động quan trọng và liên quan tới rủi ro. Một phiên bản phong
phú hơn của lý thuyết này giả thiết rằng hãng cố gắng cực đại hóa sự giàu có hay giá trị của mình. Hiện
nay, phiên bản này là lý thuyết phổ biến được sử dụng trong kinh tế quản lý.
Để nắm bắt lý thuyết này chúng ta phải giải thích rõ kinh tế quản lý muốn nói điều gì về giá trị của
hãng. Do giá trị của một hãng có thể được định nghĩa bằng nhiều cách, nên để tránh nhầm lẫn nếu chúng ta
đưa ra một định nghĩa chi tiết ngay tại thời điểm này. Nói ngắn gọn, giá trị của một hãng sẽ được định
nghĩa ở đây là giá trị hiện tại của dòng tiền mặt kỳ vọng trong tương lai của nó. Trong các chương sau,
chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn “dịng tiền mặt” có nghĩa là gì. Với mục đích hiện tại, chúng ta có thể xem
dịng tiền mặt của hãng giống như là lợi nhuận của nó.(Với những người chưa quen khái niệm “giá trị hiện
tại” hay muốn xem lại khái niệm này, nội dung chi tiết được đưa ra trong phụ chương A).
Do đó, khi biểu diễn bằng một phương trình, giá trị của hãng bằng
Giá trị hiện tại của lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai =
=

+

+...+
(1.1)

trong đó πt là lợi nhuận kỳ vọng trong năm t, i là mức lãi suất, và t chạỵ từ 1 (năm sau) đến n (năm cuối
cùng trong phạm vi lập kế hoạch). Do lợi nhuận bằng tổng doanh thu (TR) trừ đi tổng chi phí (TC), nên
phương trình này cũng có thể biểu diễn bằng
Giá trị hiện tại của lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai =


(1.2)

7


trong đó TRt là tổng doanh thu của hãng trong năm t, và TC t là tổng chi phí của hãng trong năm t.
Một nghiên cứu kỹ lưỡng phương trình (1.2) đề xuất nhà quản lý và công nhân của hãng có thể tác
động tới giá trị của nó. Ví dụ, hãy xét công ty Ford Motor. Các giám đốc maketing và đại diện bán hàng
làm việc tích cực để tăng doang thu của hãng, trong khi các giám đốc sản xuất và kỹ sư chế tạo cố gắng làm
giảm tổng chi phí của nó. Cùng lúc đó, các giám đốc tài chính của hãng đóng vai trị tìm cách có được vốn,
và vì vậy cũng có ảnh hưởng tới phương trình (1.2); trong khi bộ phận nghiên cứu và phát triển phát minh
sáng chế sản phẩm và qui trình sản xuất mới vừa làm tăng tổng doanh thu vừa làm giảm tổng chi phí của
hãng. Tất cả các nhóm khác nhau này tác động tới giá trị của Ford Motor, nó được định nghĩa ở đây như là
giá trị hiện tại của lợi nhuận kỳ vọng của hãng.

1.4.2 Vai trò của các điều kiện ràng buộc
Để nhắc lại, kinh tế quản lý nói chung giả thiết rằng nhà quản lý muốn cực đại hóa giá trị của hãng,
như định nghĩa trong các phương trình (1,1) và (1,2). Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là nhà quản lý
hồn tồn kiểm sốt giá trị của hãng và có thể đặt ra bất kỳ mức nào mà họ lựa chọn. Ngược lại, các nhà
quản lý phải đương đầu với việc là có rất nhiều điều kiện ràng buộc khống chế những gì mà họ có thể giành
được.
Các điều kiện ràng buộc giới hạn qui mơ để có thể gia tăng giá trị của hãng có nhiều loại khác nhau.
Có một loại là số lượng các kiểu đầu vào nhất định có thể bị hạn chế. Trong khoảng thời gian có liên quan,
các nhà quản lý có thể khơng có khả năng nhận được nhiều hơn một số lượng cụ thể về thiết bị chuyên
dụng, lao động có tay nghề, vật liệu cơ bản, hay các đầu vào khác. Đặc biệt nếu khoảng thời gian này tương
đối ngắn, thì các ràng buộc đầu vào này là rất gay gắt. Ví dụ, do mất nhiều tháng mới mở rộng được công
suất của một nhà máy luyện thép, nên nhiều vấn đề trong ngắn hạn đặt ta mà một hãng sản xuất thép phải
giải quyết trên cơ sở chấp nhận rằng công suất nhà máy cơ bản là cố định. Tuy nhiên, khi xử lý các vấn đề
trong dài hạn hãng có nhiều linh hoạt hơn và có thể thay đổi (trong phạm vi giới hạn) cơng suất của nó.

Một kiểu ràng buộc quan trọng khác làm hạn chế các hoạt động quản lý là tính pháp lý hay trạng
thái tự nhiên của hợp đồng. Ví dụ, một hãng có thể buộc phải trả lương cao hơn một mức nhất định vì luật
về mức lương tối thiểu qui định nó phải làm như vậy. Cũng như vậy, nó phải đóng thuế phù hợp với luật
qui định theo liên bang, bang hay địa phương. Hơn nữa, nó phải hành động theo hợp đồng với người tiêu
dùng và nhà cung ứng – hay nhận được những hậu quả theo luật. Sự đa dạng về nhiều loại luật (từ luật môi
trường, cho tới luật chống độc quyền, rồi tới luật thuế) hạn chế những gì các nhà quản lý có thể làm, và các
hợp đồng hay thoả thuận hợp pháp khác làm cho họ bị ràng buộc hơn nữa các hoạt động. Như minh họa
trong hình 1.3, các điều ràng buộc này làm hạn chế lợi nhuận một hãng có thể tạo ra cũng như giá trị của
chính nó như thế nào.
Vì có những điều kiện ràng buộc áp đặt lên các hoạt động và hành vi của hãng, nên các phương
pháp có liên quan được sử dụng để phân tích nhiều vấn đề của hãng là các phương pháp tối ưu hóa có điều
kiện ràng buộc, cũng như các nhân tử Lagrange (được trình bày trong chương 2).

1.4.3 Lợi nhuận là gì?
Trong phần trước chúng ta đã gặp nhiều lần khái niệm lợi nhuận. Thực tế tất cả số liệu lợi nhuận
được công bố dựa trên việc xác định lợi nhuận kế toán. Điều quan trọng ngay từ đầu phải thừa nhận kinh tế
quản lý định nghĩa lợi nhuận có khác đơi chút. Cụ thể, khi các nhà kinh tế nói về lợi nhuận, họ cho rằng lợi
nhuận sau khi tính cả lượng cung vốn và lao động của chủ doanh nghiệp. Vì vậy, giả sử rằng chủ cửa hàng
San Jose Shoe có thể nhận được 40.000$ năm 2004 nếu như họ làm thuê cho ai đó; Đồng thời nếu họ đầu
tư vốn của họ vào đâu đó khơng phải hãng này và có thể nhận được 24.000$ từ vốn trong năm 2004. Dưới
hồn cảnh đó, nếu lợi nhuận kế toán của hàng này năm 2004 là 60.000$, thì các nhà kinh tế sẽ nói rằng lợi

8


nhuận kinh tế của hãng là 60.000$-40.000$-24.000$, hay -4.000$, chứ khơng phải là 60.000$ như trong
báo cáo kế tốn của cửa hàng. Nói cách khác, khái niệm lợi nhuận của các nhà kinh tế bao gồm khơng chỉ
những gì chủ doanh nghiệp làm ra ở trên mà hơn nữa còn gồm cả những gì mà vốn và lao động của họ
được sử dụng kinh doanh để kiếm lời ở đâu đó. Trong trường hợp như vậy, số lợi nhuận là âm.
Sự khác nhau giữa khái niệm được sử dụng bởi kế toán và nhà kinh tế phản ánh sự khác nhau về

chức năng của chúng. Kế toán quan tâm đến việc giám sát hoạt động hàng ngày của hãng, phát hiện ra gian
lận hay thụt két, đáp ứng thuế và các luật khác, và làm báo cáo sổ sách cho các nhóm có mục đích khác
nhau. Nhà kinh tế quan tâm trước hết tới việc ra quyết định và lựa chọn hợp lý trong số các khả năng có thể
lựa chọn thay thế trong tương lai. Trong khi số liệu về lợi nhuận được công bố luôn chiếu theo kế tốn chứ
khơng phải nhà kinh tế, thì khái niệm của nhà kinh tế lại là khái niệm thích đáng hơn nhiều đối với nhiều
kiểu ra quyết định. (Và vì vậy, nó được các nhà kế tốn tinh vi chấp nhận.) Ví dụ, giả sử chủ cửa hàng San
Jose Shoe đang kiểm tra để ra quyết định xem liệu liệu họ có nên tiếp tục kinh doanh nữa hay khơng. Nếu
họ quan tâm đến việc tạo ra nhiều tiền hơn như có thể được, thì câu trả lời phụ thuộc vào lợi nhuận của
hãng đo bởi nhà kinh tế chứ không phải là kế toán. Nếu lợi nhuận kinh tế của hãng lớn hơn (hoặc bằng) 0,
thì thì hãng nên tiếp tục trong ngành; ngược lại thì thơi. Vì vậy, nếu năm 2004 là một chỉ số tốt cho khả
năng sinh lợi trong tương lai của nó, thì cửa hàng San Jose Shoe không nên tồn tại trong ngành.

Giá trị của một hãng phụ thuộc vào các nhân tố gây ảnh hưởng tới TR t, TCt, và i
cũng như các ràng buộc mà hãng đối mặt.
Hình 1.3 Các nhân tố xác định giá trị của hãng

1.4.4 Các lý do tồn tại lợi nhuận
Tại sao lợi nhuận kinh tế lại tồn tại? Ba lý do quan trọng là sự đổi mới, rủi ro và sức mạnh độc
quyền. Giả sử một nền kinh tế được cấu thành bởi các ngành cạnh tranh, sự ra nhập các ngành này là hoàn
toàn tự do, và được thừa nhận là khơng có những thay đổi về cơng nghệ - khơng có qui trình mới, khơng có
sản phẩm mới và khơng có những đổi mới khác. Và giả sử rằng mọi người có thể dự đốn tương lai với độ
chính xác cao. Dưới những điều kiện đó, sẽ có lợi nhuận, vì mọi người sẽ ra nhập những ngành đang có lợi

9


nhuận, cuối cùng làm giảm lợi nhuận đó tới 0, và rời bỏ những ngành đang bị lỗ, cuối cùng làm giảm lợi
nhuận âm này tới 0.
Nhưng trong thực tế, sự đổi mới với nhiều dạng khác nhau luôn được tạo ra. Ví dụ, hãng Boeing
đưa ra kiểu 777 của nó (một loại máy bay phản lực mới cỡ lớn có hai động cơ), hay Intel hãng sản xuất

điện tử California đưa ra bộ vi xử lý (một máy tính trên một con chip). Những người tiến hành các kế
hoạch táo bạo này là nhà đổi mới, đó là người với tầm nhìn và sự dũng cảm ủng hộ điều đó. Nhà đổi mới
khơng nhất thiết là nhà phát minh ra các kỹ thuật hay sản phẩm mới, mặc dù trong một số trường hợp nhà
đổi mới và nhà phát minh là một. Thường thường nhà đổi mới tiếp nhận phát minh của người khác, phỏng
theo nó, và đưa nó ra thị trường. Lợi nhuận là phần thưởng có được bởi nhà đổi mới thành công.
Rủi ro cũng tồn tại trong thực tế. Thực ra người mạo hiểm để cố gắng đổi mới đều liên qua tới rủi
ro. Lợi nhuận là một phần thưởng cho việc chịu đựng rủi ro. Giả sử mọi người thích tránh rủi ro, họ thích
tương đối ổn định, tức là đảm bảo khoản tiền kiếm được trước sự bất ổn tương đối, hay khoản tiền kiếm
được không chắc chắn - nếu như mức tiền kiếm được trung bình là như nhau. Cho nên, để khiến cho mọi
người chấp nhận rủi ro liên quan tới các hoạt động kinh doanh của mình ở các ngành khác nhau, thì lợi
nhuận phải được trả cho họ - đó là khoản tiền thưởng cho rủi ro.
Một lý do khác nữa cho sự tồn tại lợi nhuận là các thị trường thường khơng cạnh tranh hồn hảo.
Trong cạnh tranh hồn hảo, có một xu hướng trong dài hạn là lợi nhuận kinh tế biến mất. Nhưng điều này
không xảy ra nếu một ngành là độc quyền hay độc quyền tập đồn. Thay vào đó, lợi nhuận lại ln tồn tại
trong dài hạn ở những ngành khơng cạnh tranh hồn hảo như vậy. Lợi nhuận độc quyền về cơ bản là kết
quả của “những khan hiếm có tính tốn”. Nhà độc quyền tính tốn rằng nó sản xuất càng nhiều, thì giá nó
nhận được càng thấp. Nói cách khác, nhà độc quyền nhận ra rằng nó sẽ làm hỏng thị trường nếu nó sản xuất
q nhiều. Vì vậy, điều đó làm cho nhà độc quyền hạn chế sản lượng của mình, và sự khan hiếm có tính
tốn này là ngun nhân để tồn tại lợi nhuận của nó.

1.4.5 Các yếu tố tổ chức và sự “tìm cách thoả mãn”
Mặc dù các nhà kinh tế quản lý nói chung giả thiết rằng các giám đốc muốn cực đại hóa lợi nhuận
(và từ đó giá trị của họ được xác định trong phương trình (1.1)), nhưng các giả thiết khác có thể được đưa
ra. Để thấy được tại sao đơi khi rất có ý nghĩa khi đưa ra các giả thiết khác, bạn phải nhận ra rằng trong
nhiều hãng, đặc biệt là những hãng lớn, rất khó biết chính xác các quyết định được đưa ra ở đâu, như thế
nào và do ai. Một số hãng, không phải do một chủ sở hữu quản lý, có rất nhiều người ở cấp quản lý trung
gian, cũng như người chiếm giữ những vị trí quản lý chủ chốt cấp cao đều tham gia dưới những mức độ
khác nhau trong việc hình thành chính sách của cơng ty. Các nhóm khác nhau bên trong hãng hình thành
nên các đường lối riêng của họ, và chính trị nội bộ là một phần quan trọng của của quá trình xác định chính
sách cơng ty. Ví dụ, một hãng gồm hai bộ phận (mỗi bộ phận làm ra một sản phẩm khác nhau), mỗi bộ

phận có thể đấu tranh để duy trì và mở rộng phần ngân sách hãng của mình, và mỗi bộ phận có thể cố gắng
nhằm đặt bộ phận kia vào một vị trí thấp hơn. Các cuộc tranh đấu bên trong hãng có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc xác định các mục tiêu của nó.
Dưới những hồn cảnh như vậy, một hãng có thể “tìm cách thoả mãn” hơn là cố gắng cực đại hóa
lợi nhuận. Nói cách khác, nó có thể đặt ra mục tiêu thoả mãn với một tỉ lệ lợi nhuận chứ không phải là con
số cực đại. Mức mong muốn của hãng là ranh giới giữa kết cục thoả mãn và kết cục khơng thoả mãn. Ví
dụ, mức mong muốn của hãng có thể là một mục tiêu cụ thể “Lợi nhuận của chúng ta năm nay cần đạt 5
triệu $”. Hãng này có thể từ bỏ cố gắng cực đại hóa lợi nhuận vì chính trị nội bộ loại bỏ một mục tiêu như
vậy – và vì các tính tốn cần có là q phức tạp và số liệu sẵn có lại rất nghèo nàn. Thay vào đó, hãng có
thể cố gắng duy trì các mức hoạt động tối thiểu nhất định.

10


Nếu môi trường mà hãng đối mặt là tương đối khơng thay đổi, thì mức mong muốn của
hãng có xu hướng cao hơn một chút so với hoạt động của hãng. Nếu hoạt động đang cải thiện, thì mức
mong muốn có xu hướng thấp hơn hoạt động hiện tại. Và nếu hoạt động đang suy giảm, thì mức mong
muốn có xu hướng cao hơn mức hoạt động hiện tại. Dĩ nhiên, mức mong muốn là rất gần với lợi nhuận cực
đại, các khám phá thu được từ giả thiết tìm cách thoả mãn là gần như tương tự với những khám phá thu
được từ giả thiết cực đại hóa lợi nhuận.

1.4.6 Lợi ích quản lý và vấn đề thân chủ-người đại diện
Việc tìm cách thoả mãn khơng chỉ là lựa chọn thay thế cho giả thiết cực đại hóa lợi nhuận. Khi có
sự khác nhau xuất hiện giữa cực đại hóa lợi nhuận và lợi ích của nhóm quản lý, thì ban quản lý dường như
theo đuổi các chính sách thiên vị cho lợi ích của riêng họ. Tầm quan trọng theo cách nhìn này là sự tách
biệt quyền sở hữu khỏi việc kiểm sốt trong một tập đồn lớn ở Mỹ. Chủ sở hữu hãng – các cổ đông thường có rất ít kiến thức chi tiết về hoạt động của hãng. Ngay cả khi ban giám đốc được bố trí trên qui mơ
lớn mà khơng chỉ có ban quản lý cấp cao, thì thường thường ban quản lý cấp cao vẫn có mức độ tự do rất
lớn chừng nào nó đang hoạt động hợp lý. Cho nên, hành vi của hãng có thể bị điều khiển một phần bởi lợi
ích của nhóm quản lý, kết quả là tiền trả lớn hơn và đặc quyền nhiều hơn (và một bộ máy lớn hơn) cho các
nhà quản lý so với mức thực sự cần.

Các nhà kinh tế nêu vấn đề này thành vấn đề thân chủ-người đại diện. Các nhà quản lý là người đại
diện làm việc cho các chủ sở hữu của hãng, hay thân chủ. Vấn đề thân chủ-người đại diện là nhà quản lý có
thể theo đuổi những mục tiêu của riêng họ, ngay cả khi điều đó làm giảm lợi nhuận của chủ sở hữu. Hãy
xem xét Joseph Wagner, nhà quản lý của một hãng may mặc địa phương. Do chi phí cho các lợi ích (bộ
máy lớn, đi lại cơng ty thanh tốn, vân vân) mà anh ta nhận được từ hãng là hoàn toàn do chủ sở hữu chi
trả, nên anh ta có động cơ làm tăng những lợi ích đó lên đáng kể. Do chủ sở hữu của hãng rất khó phân biệt
sự khác nhau giữa lợi ích làm tăng lợi nhuận và lợi ích khơng làm tăng lợi nhuận, nên các nhà quản lý có
một số hành động tự do nào đó.
Để xử lý vấn đề này, các hãng thường lập ra hợp đồng với nhà quản lý của mình làm cho nhà quản
lý có động cơ theo đuổi những mục tiêu hợp lý gần với cực đại hóa lợi nhuận. Vì vậy, chủ sở hữu của hãng
có thể trao cho nhà quản lý một phần quyền lợi tài chính trong thành cơng của hãng. Nhiều tập đồn đã đưa
ra các kế hoạch về quyền mua cổ phiếu đặt trước, trong đó nhà quản lý có quyền mua cổ phiếu của các cổ
phần chung với giá thấp hơn giá thị trường. Các kế hoạch này trao cho các nhà quản lý một động cơ thúc
đẩy lợi nhuận của hãng và hành động phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu. Một số bằng chứng cho thấy các
kế hoạch này là có tác dụng. Ví dụ, theo một nghiên cứu gần đây, nếu nhà quản lý sở hữu từ 5% đến 20%
hãng, thì hãng dường như hoạt động tốt hơn (theo nghĩa khả năng sinh lợi nhuận) so với nếu họ sở hữu ít
hơn 5%. Trong một số hãng, các nhà quản lý bị buộc phải mua cổ phiếu, và ban giám đốc được đền bù
bằng cổ phiếu. Vấn đề này, và các vấn đề về thảm họa đạo đức khác được bàn đến sâu hơn trong chương
17.

1.5 Cầu và cung: Nhìn nhận ban đầu
1.5.1 Thị trường
Như đã mô tả bản chất của kinh tế quản lý, bây giờ chúng ta quay lai xem xét tổng quan về các
nguyên lý cơ bản của cầu và cung. Bất kỳ nhà quản lý nào, dù ở Tokyo, Singarpore, New York hay Toronto
cũng phải hiểu các nguyên lý cơ bản này, chúng được diễn giải chi tiết trong các chương tiếp theo. Mục
đích của chúng ta ở đây là đưa ra nhìn nhận ban đầu về chủ đề này, nhiệm vụ đầu tiên là để xác định xem
chúng ta hiểu thị trường là gì.

11



Với mục đích hiện tại, thì một thị trường có thể được định nghĩa là một nhóm các hãng và các cá
nhân liên hệ với nhau để mua hoặc bán một hàng hóa nào đó. Dĩ nhiên, khơng phải mỗi người trong một thị
trường đều có mối liên hệ với người khác trong thị trường đó. Một người hay một hãng là một phần của thị
trường ngay cả khi nó có mối liên hệ chỉ với một tập hợp con những người khác hoặc hãng khác trong thị
trường.
Về việc kiểm tra các khái niệm như “thị trường” và “hàng hóa” dường như hồn tồn rõ ràng,
nhưng định nghĩa chính xác về những thị trường và hàng hóa cụ thể có thể là rất phức tạp, vì những lý do
khá thú vị. Hãy xét trường hợp công ty Staples Inc. năm 1997 cố gắng hợp nhất với Office Depot. Như
trường hợp trong nhiều hợp nhất có qui mơ lớn, Uỷ ban thương mại liên bang Mỹ (FTC) đánh giá hợp nhất
được kiến nghị cần đảm bảo hãng mới khơng kiểm sốt sức mạnh quá đáng trong thị trường cung ứng về
văn phịng. Staples cho rằng thực thể tổ hợp có ít hơn 6% thị phần của thị trường 185 tỉ $ này. Lập luận của
Staples cho là bạn có thể mua kẹp giấy tại bất kỳ cửa hàng văn phòng phẩm, hiệu thuốc, Wal-Mart, Kmart
nào ở đâu đó. Bạn có thể mua máy tính từ nhiều của hàng bn bán máy tính cũng như online. Và tương tự
như vậy với bất kỳ đồ dùng cung ứng cho văn phịng khác. Vì vậy, Staples lập luận có vấn đề gì với một
thực thể mới lập ra mà chỉ kiểm sốt có 6% thị trường? Ngược lại, FTC lại xem thị trường như là một thực
thể gồm nhiều người có vai trị quyết định (“category killers”) - một thị trường trong đó khi người ta dừng
lại mua hàng, thì người ta có thể thoả mãn tất cả mọi nhu cầu cung ứng về văn phịng của mình. Trừ một số
nhà cung ứng ở địa phương và khu vực, cịn nói chung FTC xem thị trường này là một thị trường có 3 nhà
cung ứng chính là: Staples, Office Depot, và Office Max. Một hợp nhất giữa Staples và Office Depot sẽ để
lại chỉ cịn hai nhà cung ứng có vai trị quyết định trên thị trường. Một nghiên cứu của FTC cho thấy rằng
thị trường có ba nhà cung ứng có vai trị quyết định thì “giá sẽ thấp hơn đáng kể so với thị trường chỉ có
hai”.
Vì vậy, người ta có thể thấy được những gì làm tăng thêm vẻ đẹp trong mắt người chứng kiến thì ở
trường hợp những gì tạo nên một thị trường (hay một hàng hóa) cũng như vậy trong mắt những người tham
gia. Quan điểm của FTC đã thắng thế và Staples đã từ bỏ cố gắng hợp nhất của nó với Office Depot.
Quản lý kinh doanh hiệu quả thường đòi hỏi tư duy thận trọng về thị trường. Bây giờ xét trường
hợp của Công ty Coca-Cola. Bổ sung cho các biến thể của coca-cola (đồ uống ăn kiêng, cây có chất
caphêin, cây khơng có chất caphêin) Công ty cũng tạo ra những đồ uống như Spirit và nước cam Minute
Maid Orange. Đối thủ cạnh tranh chính của nó trong kinh doanh đồ uống nhẹ là Pepsy. Nếu người ta xem

thị trường này là thị trường đồ uống nhẹ có cacbonát màu nâu, thì Coca-cola và Pepsy kết hợp lại chiếm tới
80% thị trường. Con số vẫn như vậy nếu thị trường là tất cả đồ uống nhẹ.
Nhưng Coca-cola nhìn nhận thị trường của nó như thế nào? Theo Douglas Ivester, tổng giám đốc
mới về hưu của Coca-cola, “phần trong bụng” của nó, tức là thị phần của Coca-cola về nước có thể uống
được mà người ta có thể cho vào bụng của mình, là cách Coca-cola nhìn nhận thị trường của nó. Coca-cola
ước tính mỗi người cần tiêu dùng trung bình 64 ounce nước uống mỗi ngày để tồn tại. Coca-cola tính ra chỉ
có ít hơn 2 ounce trong tổng số đó. Nên điều đó khơng phải là 40% hay thị phần như vậy, mà Coca-cola
xem mình có khoảng 3% thị phần - cạnh tranh với cà phê, chè, nước (Coca-cola bây giờ có nước đóng chai)
hay bất cứ thứ gì uống được.
Một hãng quá thiển cận có thể sao lãng tìm hiểu xem người tiêu dùng muốn gì để thoả mãn và
khơng cần đến sản phẩm của hãng. Nếu Coca-cola có cảm giác thị trường là đồ uống nhẹ, thì nó sẽ thấy lợi
nhuận nhanh chóng tiêu tan vì các loại nước có thể uống được khác có thể thoả mãn nhu cầu của người tiêu
dùng.
Hãng FedEx khẳng định rằng người tiêu dùng chỉ quan tâm đến đóng gói, hàng hóa, tài liệu của họ
và sao cho có được hàng đến nơi trong một khoảng thời gian nhất định. Người tiêu dùng khơng quan tâm
nó được chuyển đến như thế nào, nên FedEx đã chuyển từ một hãng hàng không sang một công ty vận tải

12


thành một nhà cung cấp hậu cần - một công ty sử dụng bất cứ kiểu vận tải hay phương tiện gì sẵn có để
cung cấp hàng hóa đúng thời hạn. Hãng UPS cũng làm như vậy nhưng cơ sở xuất phát là từ xe tải.
Các nhà quản lý phải nắm bắt được thị trường của họ hiện tại khi họ và những người khác nhận ra
nó và có kế hoạch cho thị trường trong tương lai. Để làm như vậy họ phải quan sát sự cạnh tranh về sản
phẩm (các sản phẩm khác thay thế cho sản phẩm của họ để thoả mãn nhu cầu khách hàng), sự cạnh tranh về
địa lý (sự tách biệt về khơng gian có thể cô lập bạn khỏi cạnh tranh), và sự cạnh tranh về thời gian (số giờ
hoạt động và tính chất mùa vụ có thể ảnh hưởng tới thị trường).
Bây giờ, chúng ta quay lại mơ hình cung và cầu, cơng cụ cơ bản nhất của các nhà kinh tế để phân
tích thị trường.


1.5.2 Phía cầu của một thị trường
Mỗi thị trường đều có phía cầu và phía cung. Phía cầu có thể được minh họa bởi một đường cầu thị
trường, nó cho biết số lượng hàng hóa người mua thích mua tại các mức giá khác nhau. Hãy xét hình 1.4,
nó cho biết đường cầu về đồng trên thị trường thế giới trong những năm 1990. Hình này cho thấy khoảng
11,7 triệu tấn đồng sẽ được cầu mỗi năm nếu giá là 1$ mỗi cân, khoảng 11 triệu tấn sẽ được cầu mỗi năm
nếu giá là 1,1 $ mỗi cân, và khoảng 10,3 triệu tấn sẽ được cầu mỗi năm nếu giá là 1,2 $ mỗi cân. Một lý do
quan trọng tại sao đồng được cầu một lượng lớn như vậy là nó rất hữu dụng trong việc lắp các thiết bị để
phát và truyền tải điện.
Đường cầu trong hình 1.4 cho thấy tổng lượng cầu - toàn thế giới - tại mỗi mức giá. Mỗi đường
cầu gắn với một khoảng thời gian cụ thể, và hình dạng và và vị trí của đường cầu phụ thuộc vào chiều dài
khoảng thời gian đó. Đường cầu về đồng dốc xuống về bên phải. Nói cách khác, lượng cầu về đồng tăng
khi giá giảm. Điều này cũng đúng cho các đường cầu của hầu hết các loại hàng hóa: Chúng đều dốc xuống
về bên phải. Điều này có nghĩa, người ta kỳ vọng việc tăng giá hàng hóa dẫn tới lượng cầu ít đi.
Mỗi đường cầu đều dựa trên giả thiết về sở thích, thu nhập và số người tiêu dùng, cũng như giá các
hàng hóa khác giữ ngun khơng đổi. Sự thay đổi về mỗi yếu tố này làm dịch chuyển vị trí của một đường
cầu hàng hóa. Vì vậy, nếu sở thích của người tiêu dùng thay đổi hướng tới những hàng hóa sử dụng nhiều
đồng hoặc thu nhập của người tiêu dùng tăng lên (và do đó họ mua nhiều hàng hóa sử dụng đồng hơn), thì
đườngcầu về đồng sẽ dịch chuyển sang bên phải. Nói cách khác, giữ cho giá đồng khơng đổi, thì lượng cầu
về đồng sẽ nhiều hơn trước đây. Nhiều điều sẽ được bàn đến về chủ đề này trong các phần tiếp theo (và
trong chương 3).

13


Đường cầu thị trường về đồng cho thấy lượng đồng mà người mua sẽ thích mua
tại các mức giá khác nhau.
Hình 1.4 Đường cầu thị trường đồng, Thị trường Thế giới

1.5.3 Phía cung của một thị trường
Phía cung của một thị trường có thể được minh họa bởi một đường cung thị trường, nó cho biết số

lượng hàng hóa người bán đưa ra tại các mức giá khác nhau. Chúng ta hãy tiếp tục với trường hợp về đồng.
Hình 1.5 cho biết đường cung về đồng trên thị trường thế giới trong những năm 1990, dựa trên ước lượng
khơng chính thức của các chun gia ngành cơng nghiệp. Theo hình này, khoảng 9,5 triệu tấn đồng được
cung ra mỗi năm nếu mức giá là 1 $ mỗi cân, khoảng 11 triệu tấn nếu giá là 1,1 $ mỗi cân, và khoảng 12,5
triệu tấn nếu giá là 1,2 $ mỗi cân.
Lưu ý đường cung về đồng dốc lên về bên phải. Nói cách khác, lượng cung đồng tăng lên khi giá
tăng. Điều này có vẻ hợp lý, vì tăng giá tạo động cơ lớn hơn để các hãng sản xuất đồng và đưa ra bán. Cũng
như vậy, có động cơ lớn hơn để rút đồng ra từ kim loại phế liệu. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng
các đường cung của rất nhiều hàng hóa cũng có đặc điểm dốc lên về bên phải này.

14


Đường cung thị trường về đồng cho thấy lượng đồng mà người bán sẽ muốn bán
tại các mức giá khác nhau.
Hình 1.5 Đường cung thị trường đồng, Thị trường Thế giới
Bất cứ một đường cung nào đều dựa trên giả thiết về công nghệ (khái niệm được chúng ta định
nghĩa là sự tập hợp kiến thức xã hội hướng tới những kỹ xảo công nghiệp) là không đổi. Khi công nghệ tiến
bộ, thì nó có khả năng sản xuất hàng hóa rẻ hơn, nên các hãng thường sẵn sàng cung một lượng cho trước
với mức giá thấp hơn truớc. Vì vậy, thay đổi công nghệ thường làm cho đường cung dịch chuyển sang bên
phải. Điều này chắc chắn đã xảy ra với trường hợp về đồng. Đã có rất nhiều đổi mới công nghệ về sản xuất
đồng, từ những ô đãi quặng rất lớn đến những máy nghiền quặng và đến băng chuyền để vận chuyển quặng
tới nhà máy luyện kim.
Đường cung về một sản phẩm cũng bị tác động bởi giá cả các nguồn lực (lao động, vốn, và đất đai)
được sử dụng để sản xuất ra nó. Việc giảm giá các đầu vào này tạo khả năng sản xuất hàng hóa rẻ hơn, nên
các hãng sẵn sàng cung ra một lượng cho trước với mức giá thấp hơn so với trước đây. Vì vậy, giảm giá
đầu vào làm cho đường cung dịch chuyển sang phải. Ngược lại, tăng giá đầu vào làm cho đường cung dịch
chuyển sang trái. Ví dụ, nếu mức lương cơng nhân trong ngành cơng nghiệp đồng tăng lên, thì đường cung
về đồng sẽ dịch chuyển sang trái.


1.5.4 Giá cân bằng
Hai phía của một thị trường, cầu và cung, tương tác với nhau xác định nên giá của một hàng hóa.
Để minh hoạ, hãy xét thị trường đồng. Chúng ta hãy đặt cả đường cầu về đồng (hình 1.4) và đường cung về
đồng (hình 1.5) vào cùng một đồ thị. Kết quả, như thấy trong hình 1.6, giúp ta xác định giá cân bằng của
đồng. Giá cân bằng là một mức giá có thể được duy trì. Bất cứ mức giá nào khơng phải giá cân bằng thì
khơng thể duy trì lâu dài, vì các yếu tố cơ bản đang vận hành làm cho thay đổi giá.
Hãy xem điều gì sẽ xảy ra nếu các mức giá khác nhau được thiết lập trên thị trường này. Ví dụ, nếu
giá là 1,2 $ mỗi cân, thì đường cầu chỉ cho thấy sẽ có lượng cầu 10,3 triệu tấn đồng, trong khi đó đường
cung chỉ cho thấy sẽ có lượng cung 12,5 triệu tấn đồng. Vì vậy, nếu giá là 1,2$ một cân, sẽ khơng có sự phù

15


hợp giữa lượng cung và lượng cầu mỗi năm, vì tỉ lệ đồng được cung lớn hơn tỉ lệ được cầu. Cụ thể, như
thấy trong hình 1.6, sẽ có sự dư cung là 2,2 triệu tấn. Dưới những hoàn cảnh như vậy, một lượng đồng được
người sản xuất cung ra không thể bán được, và tạo ra đồng tồn kho, nên các nhà cung ứng có xu hướng cắt
giảm giá của họ để tránh lượng hành tồn kho không mong muốn. Do đó, mức giá 1,2 $ mỗi cân khơng thể
duy trì lâu dài – và vì lý do này mà mức giá 1,2 $ mỗi cân không phải là giá cân bằng.

Giá cân bằng là 1,1 $ mỗi cân, do lượng cầu bằng lượng cung tại mức giá này.
Hình 1.6 Giá cân bằng của đồng, Thị trường Thế giới
Ngược lại, nếu giá là 1.0$ mỗi cân, thì đường cầu chỉ cho thấy sẽ có lượng cầu 11,7 triệu tấn đồng,
trong khi đó đường cung chỉ cho thấy sẽ có lượng cung 9,5 triệu tấn đồng. Một lần nữa, ta lại thấy khơng có
khơng có sự phù hợp giữa lượng cung và lượng cầu mỗi năm, vì tỉ lệ đồng được cung nhỏ hơn tỉ lệ được
cầu. Cụ thể, như thấy trong hình 1.6, sẽ có sự dư cầu là 2,2 triệu tấn. Dưới những hoàn cảnh như vậy, một
số người tiêu dùng muốn mua đồng tại mức giá này phải quay về tay khơng. Ở đây có sự thiếu hàng. Và,
dựa vào sự thiếu hàng này các nhà cung ứng sẽ thấy có lợi khi tăng giá, và sự cạnh tranh giữa những người
mua làm cho giá tăng lên. Do đó, mức giá 1,0 $ mỗi cân khơng thể duy trì lâu dài – nên mức giá 1,0 $ mỗi
cân không phải là giá cân bằng.
Giá cân bằng phải là mức giá khi lượng cầu bằng với lượng cung. Rõ ràng, đó là mức giá duy nhất

tại đó khơng có sự khơng phù hợp giữa lượng cung và lượng cầu, và vì vậy mức giá duy nhất đó có thể
được duy trì lâu dài. Trong hình 1.6, mức giá tại đó lượng cung bằng lượng cầu là 1,1$ mỗi cân, đó là là
mức giá tại điểm đường cung cắt đường cầu. Do đó, 1,1$ là giá cân bằng của đồng, tại đó như thấy trong
hình 1.6 lượng cân bằng là 11 triệu tấn.

1.5.5 Giá thực tế
Dĩ nhiên, giá mà chúng ta thực sự quan tâm là mức giá thực tế - mức giá thực sự phổ biến - chứ
không phải giá cân bằng. Nói chung, các nhà kinh tế đơn giản giả thiết rằng mức giá thực tế xấp xỉ với giá

16


cân bằng, điều này dường như có đủ tính hợp lý, vì các quyền năng cơ bản vận hành có xu hướng đẩy giá
thực tế hướng tới giá cân bằng. Vì vậy, nếu các điều kiện duy trì tương đối ổn định trong một khoảng thời
gian, thì giá thực tế sẽ di chuyển hướng tới giá cân bằng.
Để thấy điều này là đúng, hãy xét thị trường về đồng, như mơ tả trong hình 1.6. Điều gì xày ra nếu
giá được đặt bằng cách nào đó tại 1,2 $ mỗi cân? Như ta đã thấy trong mục trước, trong điều kiện này có
một sức ép hướng xuống vào giá đồng. Giả sử, đáp lại sức ép này giá giảm xuống 1.15 $ mỗi cân. So sánh
lượng cầu với lượng cung tại mức giá 1,15 $ mỗi cân, ta thấy rằng vẫn còn sức ép xuống vào giá, do lượng
cung lớn hơn lượng cầu tại mức giá 1,15 $ mỗi cân. Giá đáp lại sức ép này có thể giảm xuống 1,12 $ mỗi
cân, nhưng so sánh lượng cầu với lượng cung tại mức giá này, chúng ta vẫn thấy còn sức ép xuống vào giá,
do lượng cung lớn hơn lượng cầu tại mức giá 1,12 $ mỗi cân.
Chừng nào giá thực tế cịn lớn hơn giá cân bằng, thì vẫn còn sức ép xuống vào giá. Tương tự,
chừng nào giá thực tế cịn nhỏ hơn giá cân bằng, thì vẫn cịn sức ép lên vào giá. Bởi vậy, ln ln có xu
hướng để giá thực tế hướng tới giá cân bằng. Nhưng sự di chuyển này có thể khơng nhanh. Đôi khi mất khá
nhiều thời gian để giá thực tế tiệm cận với giá cân bằng, vì khi nó đạt tới gần thì giá cân bằng lại thay đổi
(do sự dịch chuyển đường cầu, hoặc đường cung hoặc cả hai). Chắc chắn nhất có thể nói rằng giá thực tế
ln hướng tới giá cân bằng. Nhưng dĩ nhiên thông tin này là rất có giá trị, vì phần lớn những gì một giám
đốc cần biết là hướng mà giá sẽ thay đổi.


1.5.6 Điều gì xảy ra nếu đường cầu dịch chuyển?
Bất cứ đồ thị cung-và-cầu nào giống hình 1.6 về cơ bản là một ảnh chụp của về tình huống trong
một khoảng thời gian cụ thể. Các kết quả trong hình 1.6 bị hạn chế ở một khoảng thời gian cụ thể vì các
đường cung và cầu trong hình , cũng như bất cứ các đường cung cầu nào, đều liên quan đến chỉ một khoảng
thời gian nhất định. Điều gì xảy ra với giá cân bằng của một sản phẩm khi đường cầu của nó thay đổi? Đây
là một câu hỏi quan trọng vì các nhà quản lý phải cố gắng lường trước và dự đoán những thay đổi sẽ xuất
hiện về giá cả các sản phẩm của họ (cũng như giá các đầu vào).
Để minh họa ảnh hường của sự dịch chuyển đường cầu sang trái, hãy xét tình huống ở ngành cơng
nghiệp đồng trong những năm 1980. Do đình đốn sản xuất trong đầu những năm 1980 và giảm mức tăng
sản lượng điện năng, nên có sự suy giảm cầu về đồng. Cũng do một phần có sự thay thế của sợi cáp quang
và các vật liệu khác cho đồng, nên cầu về đồng càng giảm. Điều này có nghĩa đường cầu về đồng dịch
chuyển sang trái, như trong hình bên trái của hình 1.7. Theo hình này, người ta kỳ vọng rằng sự dịch
chuyển sang trái của đường cầu sẽ dẫn đến giảm giá đồng từ P tới P 1.
Thực tế, giá đồng giảm mạnh trong suốt thời kỳ này. Năm 1980, giá khoảng 1$ mỗi cân; năm 1986
khoảng 0,60 $ mỗi cân. Vì vậy, lý thuyết của chúng ta dự đốn chính xác điều gì đã xảy ra. Điều quan trọng
là nhận ra giá này tạm thời giảm xuống như thế nào – và điều thật quan trọng với các nhà quản lý khi hiểu
được tại sao nó xảy ra. Kennecott Copper, nhà sản xuất đồng lớn nhất nước đã cắt giảm hoạt động chi
nhánh sản xuất đồng Utah của nó đi hai phần ba và bị thua lỗ nặng nề trong giữa những năm 1980. Chủ tịch
tập đoàn Kennecott G. Frank Joklik đã quá biết rõ rằng việc cắt giảm giá mạnh mẽ này là một phần do có
sự dịch chuyển sang trái của đường cầu về đồng.

Ngược lại, giả sử rằng đường cầu thị trường về đồng dịch chuyển sang phải, như vào cuối
những năm 1980. Trong giai đoạn này, nước Mỹ đã thấy có sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và cầu về
đồng tăng lên. Như chỉ ra trong hình bên phải của hình 1.7, chúng ta kỳ vọng rằng một sự dịch chuyển
sang phải như vậy của đường cầu sẽ làm tăng giá của đồng, từ P lên P 2. Thực tế, giá đồng đã tăng lên
vào cuối những năm 1980, từ khoảng 0,6$ mỗi cân năm 1986 lên khoảng 1,3 $ mỗi cân năm 1989. Vì
vậy, cả ở đầu và cuối những năm 1980, giá đồng đã thay đổi phù hợp với sự phân tích cầu-và cung đơn
giản của chúng ta.
17



Mỗi dịch chuyển sang trái của đường cầu dẫn tới giá cân bằng giảm;
mỗi dịch chuyển phải của đường cầu dẫn tới giá cân bằng tăng.
Hình 1.7 Ảnh hưởng do dịch chuyển sang trái, sang phải của đường cầu
tới giá đồng cân bằng

1.5.7 Điều gì xảy ra nếu đường cung dịch chuyển?
Điều gì xảy ra với giá cân bằng của một sản phẩm khi đường cung của nó thay đổi? Ví dụ, chẳng
hạn do tiến bộ cơng nghệ về sản xuất đồng nên các hãng như Kennecott Copper sẵn sàng và có khả năng
cung nhiều đồng hơn tại một mức giá cho truớc so với trước đó, kết quả là đường cung dịch chuyển sang
phải, như mình họa trong hình bên phải của hình 1.8. Ảnh hưởng tới giá cân bằng là gì? Rõ ràng, nó sẽ
giảm từ P (nơi đường cung ban đầu cắt đường cầu) xuống P A (nơi đường cung mới cắt đường cầu).
Ngược lại, giả sử có sự tăng lương rõ rệt của cơng nhân sản xuất đồng, kết quả là đường cung này
dịch sang trái, như mình họa trong hình bên trái của hình 1.8. Ảnh hường sẽ là gì? Giá cân bằng sẽ tăng từ
P (nơi đường cung ban đầu cắt đường cầu) lên P 3 (nơi đường cung mới cắt đường cầu).

1.5.8 Nước Nga đã cung quá nhiều ra thị trường nhôm như thế nào:
Nghiên cứu điển hình
Các nguyên lý cơ bản của cung và cầu là rất hữu ích để nắm bắt được nhiều thị trường, chứ khơng
chỉ thị trường đồng. Ví dụ, hãy xét trường hợp về nhôm rất hấp dẫn và thú vị (Hình 1.9). Trước khi Liên
Xơ sụp đổ năm 1991, ngành cơng nghiệp nhơm của nó phục vụ chủ yếu cho các nhu cầu quân sự. Khi các
nhu cầu này giảm xuống do giảm căng thẳng chiến tranh lạnh, Nga và các quốc gia độc lập mới khác thuộc
Liên Xô trước đây bắt đầu bán nhôm ra thị trường thế giới. Trong bốn năm, xuất khẩu của Nga tăng lên
trên 600%, đẩy đường cung nhôm dịch chuyển sang phải. Kết quả, như minh hoạ trong Hình 1.9, có sự sụt
giảm mạnh về giá, từ khoảng 80 cents mỗi cân năm 1990 xuống khoảng 47 cents vào tháng 11 năm 1993.
Do giá nhôm thấp xuống, nên khoảng 20% công suất sản xuất nhôm của mỹ bị cắt giảm vào cuối
năm 1993, và 5.000 công nhân sản xuất nhôm mất việc làm. Công nhân sản xuất nhôm ở Mỹ phản đối

18



Mỗi dịch chuyển sang trái của đường cung dẫn tới giá cân bằng tăng; mỗi dịch chuyển phải của
đường cầu dẫn tới giá cân bằng giảm.
Hình 1.8 Ảnh hưởng do dịch chuyển sang trái và sang phải của đường cung
tới giá đồng cân bằng

Do đường cung dịch chuyển sang phải bởi tác động với qui mô lớn lên thị trường thế giới từ Nga và
các nước thuộc khối Xô Viết trước đây, nên giá cân bằng giảm từ 80 cents xuống 70 cents.
Hình 1.9 Ảnh hưởng của sự dịch chuyển đường cung trong
đầu những năm 1900 đến giá nhôm cân bằng

19


mạnh mẽ chính quyền liên bang, để chính phủ đề cập vấn đề này với chính phủ Nga. Vào tháng 1 năm
1994, các nước sản xuất nhôm hàng đầu thế giới đã gặp nhau tại Brussel để đưa ra một kế hoạch đối phó
với việc cung q nhiều nhơm. Một kết quả đạt được là Nga đồng ý cắt giảm sản lượng hàng năm của mình
đi 15% trong hai năm tiếp theo. Các nhà sản xuất phương tây cũng được kỳ vọng làm giảm sản lượng. Ảnh
hưởng kỳ vọng là có sự dịch chuyển đường cung sang trái, để làm tăng giá. Thực tế, giá đã tăng lên 56
cents mỗi cân vào tháng 2 năm 1994 và tăng mạnh tới khoảng 90 cents mỗi cân vào tháng 12 năm 1994.
Trong khi đây là giai đoạn rất khó chịu với nhà sản xuất nhơm (và cơng nhân), thì nó lại là mối lợi
đối với người sử dụng nhôm khi trả giá thấp hơn. Rõ ràng, các nhà quản lý của cả các hãng sản xuất nhôm
và cả các hãng sử dụng nhơm đều có mối quan tâm rất lớn đến sự lên xuống của thị trường nhôm – và để
nắm bắt được sự lên xuống đó thì họ cần phải biết những nguyên lý cơ bản về cung và cầu mà chúng ta đã
bàn đến. Các nhà quản lý trong những ngành khác cũng phải hiểu được những nguyên lý đó. Chi tiết hơn
về trọng tâm này được bàn đến trong các chương tiếp theo. Hầu như mỗi số phát hành của tạp chí Wall
Street Journal và tạp chí Financial Times (trong mục hàng hóa) đều có một mẩu chuyện về sự thay đổi giá
một hàng hóa do sự dịch chuyển hay khả năng dịch chuyển của các đường cung và cầu. Hãy kiểm tra kiến
thức của bạn về các khái niệm đường cung và đường cầu thông qua việc xem lại các câu chuyện đó và giải
thích điều gì xảy ra trong thị trường thơng qua hình vẽ các đường cung và đường cầu sau đó dịch chuyển.


Tóm tắt
1. Kinh tế quản lý dựa chủ yếu vào kinh tế học (đặc biệt là kinh tế học vi mô) và khoa học quản lý.
Khác với kinh tế học vi mô phần lớn mang tính mơ tả, kinh tế quản lý đề ra các qui tắc. Môn học
kinh tế quản lý cung cấp những cơng cụ phân tích cơ bản cũng như đóng vai trị tổng hợp. Kinh tế
quản lý là trọng tâm quản lý của các tổ chức phi kinh doanh như các văn phịng chính phủ cũng như
hoạt động quản lý hãng.
2. Đối với cả các tổ chức phi kinh doanh và cả các hãng, thì quá trình ra quyết định có thể được chia
thành năm bước: (1) Thiết lập hay nhận dạng các mục tiêu của tổ chức. (2) Xác định vấn đề. (3)
Nhận diện các giải pháp có thể. (4) Lựa chọn giải pháp khả thi tốt nhất. (5) Thực thi quyết định.
3. Để áp dụng kinh tế quản lý vào quản lý kinh doanh, chúng ta cần một lý thuyết về hãng. Theo lý
thuyết được các nhà kinh tế quản lý thừa nhận, thì hãng cố gắng cực đại hóa giá trị của nó, được
xác định là giá trị hiện tại của những dòng tiền mặt kỳ vọng trong tương lai của hãng (mà ở đây
được coi là tương đương với lợi nhuận). Tuy nhiên, việc cực đại hóa này xảy ra chịu những ràng
buộc, vì hãng có đầu vào hạn chế, nhất là trong ngắn hạn, và phải hành động phù hợp với rất nhiều
đạo luật và hợp đồng.
4. Nhà kinh tế quản lý xác định lợi nhuận khác với kế tốn. Khi nói về lợi nhuận, thì nhà kinh tế đề
cập tới lợi nhuận có được dựa trên những gì mà mà lao động và vốn của chủ sở hữu được thuê
trong kinh doanh mà có thể kiếm được ở bất cứ đâu. Với một mức độ đáng kể, sự khác nhau giữa
khái niệm lợi nhuận được sử dụng bởi kế toán và nhà kinh tế phản ánh sự khác nhau về các chức
năng của họ.
5. Ba nguyên nhân quan trọng để tồn tại lợi nhuận là sự đổi mới, rủ ro và sức mạnh độc quyền. Lợi
nhuận và lỗ là những động lực chính của một nền kinh tế kinh doanh tự do. Chúng là những dấu
hiệu chỉ ra ở đâu nguồn lực là cần thiết và ở đâu là quá thừa. Chúng là những động cơ quan trọng
để đổi mới và chấp nhận rủi ro. Chúng là phần thưởng của xã hội cho tính hiệu quả.
6. Mặc dù kinh tế quản lý nói chung giả thiết rằng các hãng muốn cực đại hóa lợi nhuận (và giá trị của
chúng), điều được thừa nhận là vấn đề thân chủ-người đại diện nảy sinh nếu các nhà quản lý theo
đuổi lợi ích riêng của họ, dù cho điều đó làm giảm đi lợi nhuận của chủ sở hữu. Để xử lý vấn đề

20




×