BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
o0o
GS.TS Trần Ngọc Thơ
NGHIÊN CỨU SƠ THẢO VỀ PHÁ GIÁ
TIỀN TỆ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MÃ SỐ: CS-2011-14
Thành viên đề tài: ThS.Nguyễn Hữu Tuấn
ThS.Bạch Thị Phương Thảo
GV.Trương Trung Tài
MỤC LỤC
TÓM TẮT 1
1. GIỚI THIỆU 2
1.1 Tiếp cận truyền dẫn tỷ giá hối đoái 2
1.1.1 Truyền dẫn tỷ giá hối đoái 2
1.1.2 Các kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái 3
1.1.3 Tầm quan trọng của nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái 4
1.2 Môi trường truyền dẫn tỷ giá hối đoái 5
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU GẦN ĐÂY 9
2.1 Các nghiên cứu đối với các nước phát triển 9
2.2 Các nghiên cứu đối với các nước đang phát triển 10
2.3 Các nghiên cứu trong nước 12
2.4 Lựa chọn mô hình đo lường truyền dẫn tỷ giá hối đoái 13
3. KHUNG PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM 15
3.1 Mô hình nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái 15
3.1.1 Mô hình nghiên cứu 15
3.1.2 Các bước thực hiện trong quá trình thực nghiệm mô hình VAR 17
3.2 Hệ số tương quan thứ hạng Spearman 18
3.3 Mô hình VECM- Ước lượng cân bằng dài hạn. 18
3.4 Dữ liệu nghiên cứu 19
4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 21
4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị và chọn độ trễ cho mô hình 21
4.2 Đo lường cú sốc bằng mô hình VAR 21
4.2.1 Hàm phản ứng xung (Impulse response function) 21
4.2.2 Kiểm định Robustness 25
4.3 Đo lường môi trường truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại Việt Nam 29
4.4 Đo lường mối quan hệ cân bằng dài hạn của truyền dẫn tỷ giá hối đoái. 33
4.4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị và lựa chọn bước trễ với mô hình VECM 34
4.4.2 Cân bằng dài hạn và cơ chế điều chỉnh sai số 35
5. KẾT LUẬN 39
5.1 Tổng kết kết quả nghiên cứu thực nghiệm 39
5.2 Một vài khuyến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
PHỤ LỤC 46
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB: Ngân hàng Phát triển
châu Á
ADF: Augmented Dickey-
Fuller
AIC: Tiêu chuẩn Akaike
DLN: Ký hiệu dạng sai phân
bậc 1 của các biến ở dạng log
DOT: Direction of Trade
Statistics
GAP: Chênh sản lượng
GMM: Generalized method of
moments
HQ: Tiêu chuẩn Hannan-
Quinn
ICOR: Incremental Capital
Output Ratio
IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế
IRF: Impulse Response
Function
KPSS: Kwiatkowski–Phillips–
Schmidt–Shin
LCP: Local currency pricing
LR: Tiêu chuẩn LR
NEER: Tỷ giá hối đoái danh
nghĩa đa phương
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
NHTW: Ngân hàng trung ương
OLS: Ordinary Least Squares
PPE: Tiêu chuẩn dự báo sai số
cuối cùng
PPI: Chỉ số giá sản suất
REER: Tỷ giá hối đoái thực đa
phương
SC: Tiêu chuẩn Schwarz
SVAR: Structural Vector
Autorgressive Model
USD: Đô la Mỹ
VAR: Vector Autorgressive
Model
VECM: Mô hình sai số dạng
véc tơ
VND: Việt Nam đồng
WB: Ngân hàng Thế giới
WTO: Tổ chức Thương mại
Thế giới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Cách tính các chỉ tiêu môi trường truyền dẫn 6
Bảng 1.2: Tóm tắt mối tương quan các yếu tố trong môi trường truyền dẫn tỷ giá
hối đoái 8
Bảng 4.1: Kết quả hàm phản ứng xung của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ NEER 23
Bảng 4.2: Độ lớn mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong nghiên cứu của Võ Văn
Minh (T1.2001 – T2.2007) 24
Bảng 4.3: Độ lớn mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong nghiên cứu của Bạch Thị
Phương Thảo (Q1.2001 – Q2.2011) 24
Bảng 4.4: Mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái của một số quốc gia châu Á 25
Bảng 4.5: Tầm quan trọng của các biến số trong sự thay đổi của CPI 28
Bảng 4.6: Dấu kỳ vọng hệ số tương quan thứ hạng Spearman 31
Bảng 4.7: Hệ số tương quan thứ hạng Spearman 33
Bảng 4.8: Tóm tắt kết quả mô hình VECM 35
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định nhân quả Granger 38
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái 4
Hình 4.1: Tác động tích lũy do sự thay đổi 1 đơn vị độ lệch chuẩn của NEER 22
Hình 4.2: Tổng hợp phản ứng của ba chỉ số giá với cú sốc 1% của NEER 23
Hình 4.3: Kết quả hàm phản ứng theo thứ tự Cholesky thứ 2 26
Hình 4.4: Kết quả hàm phản ứng theo thứ tự Cholesky thứ 3 26
Hình 4.5: Kết quả hàm phản ứng theo thứ tự Cholesky thứ 4 27
Hình 4.6: Tầm quan trọng của các biến số trong sự thay đổi của CPI 28
Hình 4.7: Môi trường truyền dẫn truyền dẫn tỷ giá hối đoáitại Việt Nam giai đoạn
2001-2011 32
1
TÓM TẮT
Khi xem xét tác động của phá giá tiền tệ trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ
hàm ý phạm vi nghiên cứu trong kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái (pass-through).
Chúng tôi sử dụng mô hình VAR để tiếp cận truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ
số giá của Việt Nam gồm chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu
dùng. Kết quả phân tích mô hình VAR cho thấy mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập
khẩu là lớn nhất, sau đó mới đến chỉ số giá sản xuất và thấp nhất là chỉ số giá tiêu
dùng. Trong dài hạn, chúng tôi phát hiện truyền dẫn tỷ giá hối đoái hoàn toàn đến
chỉ số giá nhập khẩu của Việt Nam.
Từ khóa: Phá giá tiền tệ, hệ số truyền dẫn tỷ giá, chỉ số giá, lạm phát, VAR, phân
rã phương sai
2
1. GIỚI THIỆU
1.1 Tiếp cận truyền dẫn tỷ giá hối đoái
1.1.1 Truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Khi nghiên cứu về vấn đề truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại các nước công nghiệp, các
nhà kinh tế học thường chú ý mức tác động của biến động tỷ giá hối đoái lên chỉ số
giá nhập khẩu và mức ấn định giá bán của từng lĩnh vực sản xuất.
Jonathan McCarthy (2000) thì xem xét khái niệm truyền dẫn tỷ giá hối đoái dưới
góc độ là sự tác động của biến động tỷ giá hối đoái và giá nhập khẩu đến giá sản
xuất và giá tiêu dùng trong nước tại 9 nền kinh tế phát triển.
Sophocles N. Brissimis (2006) nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái dựa trên xây
dựng mô hình mối liên kết giữa giá nhà sản xuất nội địa và giá nhà sản nước ngoài
và mối liên hệ giữa giá sản phẩm trong nước với tỷ giá. Tác giả cho rằng truyền dẫn
tỷ giá hối đoái có thể nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn 1, nó tùy thuộc vào phỏng đoán
biến động giá của các công ty xuất khẩu và công ty trong nước.
Các nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại các nước đang phát triển cũng sử
dụng các mô hình tương tự như các nước phát triển, nhưng vấn đề truyền dẫn tỷ giá
hối đoái lại được xem xét rõ hơn. Các nghiên cứu cũng tập trung làm rõ cơ chế
truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá
tiêu dùng. Ito và Sato(2006) đã nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến ba chỉ số
giá vừa nêu tại các nước châu Á. Rudrani Bhattacharya (2008) đã nghiên cứu truyền
dẫn tỷ giá hối đoái tại Ấn Độ, tác giả xem xét truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ
số giá trong nước.
Việt Nam nằm trong nhóm nước đang phát triển nên chúng tôi cho rằng có thể hiểu
“truyền dẫn tỷ giá hối đoái là phần trăm thay đổi của các chỉ số giá trong nước khi
tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi một phần trăm”. Các chỉ số giá trong nước bao
gồm chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng. Nếu tỷ giá hối
đoái thay đổi 1% khiến cho giá cả thay đổi 1% thì sự truyền dẫn được gọi là hoàn
3
toàn và nếu nhỏ hơn 1% thì sẽ được gọi là sự truyền dẫn không hoàn toàn.
1.1.2 Các kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Biến động tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến các chỉ số giá trong nước qua kênh trực
tiếp hoặc gián tiếp. Theo cách tiếp cận của Hyder và Shah (2004), kênh truyền dẫn
trực tiếp diễn ra khi biến động tỷ giá ảnh hưởng đến giá trong nước thông qua thay
đổi của hàng hoá nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng hoặc hàng hoá nhập khẩu sử dụng
làm đầu vào cho sản xuất trong nước. Khi đó một sự phá giá đồng nội tệ sẽ làm giá
nhập khẩu sẽ tăng, ngược lại một sự nâng giá nội tệ sẽ làm giá nhập khẩu giảm.
Trong trường hợp phá giá, chi phí nhập khẩu nguyên liệu cao hơn sẽ làm tăng chi
phí biên và dẫn tới chi phí sản xuất hàng nội địa tăng. Măt khác, các công ty nhập
khẩu hàng hoá tiêu dùng cuối cùng có thể tăng giá bán để phản ứng lại việc tăng chi
phí hàng nhập khẩu. Như vậy, kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái đầu tiên là các thay
đổi của tỷ giá hối đoái làm tăng giá nhập khẩu ảnh hưởng đến giá sản xuất đầu vào
rồi đến ảnh hưởng đến mức giá sản xuất, và cuối cùng ảnh hưởng đến mức giá tiêu
dùng. Kênh thứ hai là những thay đổi trong tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá nhập
khẩu hàng hoá cuối cùng và do đó tác động vào mức độ giá tiêu dùng trong nước.
Trong kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái gián tiếp, trong trường hợp phá giá tiền tệ
chẳng hạn, sẽ làm thay đổi xu hướng tiêu dùng trên thị trường trong nước và nước
ngoài. Khi quốc gia phá giá đồng tiền, hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn nên
người dân trong nước có xu hướng chuyển sang tiêu dùng sản phẩm sản xuất trong
nước. Đối với thị trường nước ngoài, cầu về hàng hóa của nước có đồng tiền phá giá
có xu hướng tăng lên. Cả hai yếu tố này đều tạo áp lực tăng giá hàng nội địa. Theo
Hyder và Shah (2004), nếu sản xuất trong nước sử dụng yếu tố đầu vào từ nhập
khẩu thì giá của của nhà sản xuất dự kiến sẽ tăng và điều này cũng sẽ làm tăng mức
giá tiêu dùng, nếu các sản phẩm nhập khẩu là hàng hóa tiêu dùng cuối cùng, các nhà
sản xuất trong nước và nhà bán lẻ có thể tăng giá của họ để phản ứng mức tăng của
tỷ giá nhằm duy trì lợi nhuận biên. Kết quả là giá cả hàng hóa nội địa tăng lên. Các
kênh truyền trực tiếp và gián tiếp được minh họa trong Hình 1.1.
4
Hình 1.1 Kênh truyền dẫn tỷ giá hối đoái
1.1.3 Tầm quan trọng của nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Hiểu được độ lớn, thời gian ảnh hưởng và các nhân tố ảnh hưởng đến mức truyền
dẫn tỷ giá hối đoái rất quan trọng. Nhà hoạch định chính sách khi hiểu được các vấn
đề này có thể đưa ra các quyết định thích hợp về độ lớn của mức điều chỉnh tỷ giá
hối đoái, thời gian đưa ra quyết định điều chỉnh để đảm bảo sự ổn định xã hội và đạt
hiệu quả cao đối với các mục tiêu mà việc phá giá muốn hướng đến.
Độ lớn của mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại mỗi quốc gia có thể cho ta biết được
Phá giá đồng nội tệ
Truyền dẫn trực
tiếp
Truyền dẫn gián
tiếp
Hàng tiêu dùng
cuối cùng
Giá hàng trung gian,
đầu vào sản xuất
Chi phí sản xuất tăng
Chỉ số giá hàng
tiêu dùng
Cầu về hàng xuất
khẩu tăng
Mở rộng khả
năng sản xuất
5
mức tác động của biến động tỷ giá hối đoái đến tỷ lệ lạm phát tại quốc gia đó. Nếu
một quốc gia có mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát quá lớn thì một khi
đồng nội tệ bị phá giá tất yếu sẽ ảnh hưởng mạnh đến tỷ lệ lạm phát và ảnh hưởng
đến an sinh xã hội. Nếu một quốc gia có mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm
phát thấp, nghĩa là biến động tỷ giá hối đoái không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát
tại quốc gia đó, tuy nhiên nước này đang phải đối mặt với tình trạng nhập siêu cao
thì một biện pháp phá giá mạnh hơn đồng tiền trong nước có thể được xem xét áp
dụng mà không ảnh hưởng nhiều đến tình hình lạm phát trong nước. Theo Choudhri
và Hakura (2001), mức độ tác động của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá cũng là
một vấn đề quan trọng trong các thảo luận để lựa chọn một chính sách điều hành
tiền tệ và tỷ giá hối đoái thích hợp cho từng nước. Một sự tác động ở mức độ thấp
của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá sẽ giúp một quốc gia có nhiều cơ hội hơn để
theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập và giúp quốc gia đó dễ dàng triển khai
chính sách lạm phát mục tiêu hơn so với quốc gia có mức độ tác động của tỷ giá hối
đoái đến các chỉ số giá cả lớn.
1.2 Môi trường truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Trong phần này nghiên cứu tập trung vào việc các yếu tố ảnh hưởng đến độ lớn của
truyền dẫn tỷ giá hối đoái, những yếu tố ảnh hưởng này được chúng tôi gọi chung là
“môi trường truyền dẫn tỷ giá hối đoái”. Lian An và Jian Wang (2011) đã đề cập
đến khái niệm môi trường trong bài nghiên cứu của mình bao gồm (1) quy mô nền
kinh tế, (2) độ mở nền kinh tế, (3) mức độ bất ổn tỷ giá hối đoái, (4) cú sốc dai dẳng
của tỷ giá hối đoái, (5) mức độ bất ổn tổng cầu, (6) lạm phát lâu dài và (7) môi
trường chính sách tiền tệ. Các yếu tố này được xác định trong bảng 1.1.
6
Bảng 1.1 Cách tính các chỉ tiêu môi trường truyền dẫn
STT
Yếu tố
Ký hiệu
Cách tính
1
Quy mô nền kinh tế
GDP
Giá trị GDP thực tại thời kỳ t
2
Độ mở nền kinh tế
Open
Giá trị nhập khẩu thời kỳ t so với GDP
danh nghĩa cùng thời kỳ.
3
Bất ổn tỷ giá hối đoái
ERV
Phương sai phần dư thu được từ mô
hình VAR
4
Cú sốc dai dẳng tỷ giá
hối đoái
ERP
Phản ứng của tỷ giá hối đoái đến
chính nó sau mỗi 12 tháng
5
Bất ổn tổng cầu
ADV
Phương sai của tỷ lệ tăng trưởng GDP
thực
6
Tỷ lệ lạm phát
Inf
Inf = LogCPI
t
- LogCPI
t-1
7
Bất ổn chính sách tiền
tệ
MPV
Tỷ lệ tăng trưởng trung bình của cung
tiền M2
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Quy mô nền kinh tế (GDP) ảnh hưởng cùng chiều đến mức độ truyền dẫn bởi hai lý
do sau. Thứ nhất, lạm phát dẫn đến sức ép phá giá nội tệ và làm giảm cầu nhập
khẩu. Khi các quốc gia này là nhà nhập khẩu lớn trên thị trường thế giới như Mỹ
chẳng hạn, cầu nhập khẩu giảm sẽ làm giảm giá của mặt hàng này trên thế giới.
Như vậy, việc phá giá ở những nền kinh tế lớn như Mỹ chẳng những vừa có lợi kích
thích sản xuất trong nước phát triển mà còn nhập khẩu với giá giảm hơn trước.
Nghĩa là giảm mức độ truyền dẫn của tỷ giá đến giá nhập khẩu. Thứ hai, Lian An và
Jian Wang phát hiện, khi cầu nhập khẩu ở những nền kinh tế lớn giảm, nhà xuất
khẩu nước ngoài phải tăng cường hoạt động bán hàng để giữ thị phần. Điều này dẫn
đến họ có thể chịu thiệt hại phần nào từ sự tăng lên của tỷ giá hối đoái bằng cách
chấp nhận giảm lợi nhuận biên.
Độ mở nền kinh tế (OPEN) đại diện cho sự lấn át của các công ty nước ngoài đối
với thị trường nội địa. Khi sự lấn át tăng lên có nghĩa năng lực cạnh tranh của các
công ty nội địa chưa bằng với công ty nước ngoài. Điều này có khả năng làm cho
chỉ số giá nhập khẩu nhạy cảm nhiều hơn với tỷ giá. Từ đây có thể thấy rằng quốc
7
gia có tỷ lệ nhập khẩu cao sẽ có mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái lớn hơn vào các
mức giá chung.
Bất ổn tỷ giá hối đoái (ERV), sử dụng mô hình định giá theo từng phân khúc thị
trường, Lian An và Jian Wang (2011) cho rằng mức độ bất ổn tỷ giá hối đoái có
tương quan ngược chiều với độ lớn truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Nếu giá nhập khẩu
được thiết lập bằng đồng tiền quốc gia nhập khẩu và nếu bất ổn tỷ giá hối đoái là
tạm thời, các nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ không tăng giá để tránh các chi phí liên
quan đến điều chỉnh giá bán như chi phí in ấn, quảng cáo Trong trường hợp này họ
sẽ chấp nhận điều chỉnh lợi nhuận biên. Vì vậy độ lớn truyền dẫn tỷ giá hối đoái sẽ
giảm.
Nếu sự thay đổi tỷ giá hối đoái là lâu dài (ERP), nó sẽ làm gia tăng mức độ truyền
dẫn tỷ giá hối đoái. Nếu các công ty kỳ vọng việc nâng giá hoặc phá giá tiền tệ
trong một giai đoạn dài, họ sẽ chuyển sự thay đổi này vào giá bán.
Đối với bất ổn tổng cầu (ADV), Mann (1986) cho rằng khi tổng cầu bất ổn, các nhà
xuất khẩu nước ngoài lo sợ mất thị phần nên họ sẽ ít có ý định tăng giá bán khi tỷ
giá tăng lên. Do đó, họ sẽ thay đổi lợi nhuận biên khi tổng cầu có biến động lớn
trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Kết quả là làm giảm mức độ
truyền dẫn của tỷ giá hối đoái.
Trong môi trường lạm phát (Inf), Lian An và Jian Wang (2011) thấy rằng sự dai
dẳng của việc thay đổi chi phí của nhà sản xuất có mối tương quan cùng chiều với
mức tích lũy lạm phát. Khi môi trường kinh tế vĩ mô với mức lạm phát thấp, mức
độ dai dẳng của việc tăng chi phí biên sẽ thấp theo. Vì vậy các công ty thường ít
điều chỉnh hoặc điều chỉnh giá bán trong biên độ hẹp và ngược lại. Trong trường
hợp này, lạm phát thấp có thể gây ra mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái nhỏ đến giá giá.
Trong trường hợp bất ổn của chính sách tiền tệ (MPV), Devereux và cộng sự
(2003)
1
thấy rằng tại các quốc gia nhập khẩu mà giá cả cứng nhắc và chính sách tiền
tệ ổn định lâu dài sẽ có mức truyền dẫn thấp. Bởi vì các côngty xuất khẩu nước
1
Trích trong Lian An và Jian Wang (2011)
8
ngoài sẽ định giá cho nhà nhập khẩu bằng đồng tiền của nhà nhập khẩu. Trong
trường hợp tất cả giá nhập khẩu được thiết lập bằng đồng tiền của nhà nhập khẩu,
khi đó giá nhập khẩu sẽ không thay đổi để phản ứng lại thay đổi của tỷ giá trong
ngắn hạn khi giá cả là cứng nhắc.
Mối tương quan các yếu tố trong môi trường truyền dẫn tỷ giá hối đoái được thể
hiện trong bảng 1.2.
Bảng 1.2 Tóm tắt mối tương quan các yếu tố trong môi trường truyền dẫn tỷ
giá hối đoái
STT
Yếu tố
Mối tương
quan
Ghi chú
1
GDP
-
Nền kinh tế lớn
2
OPEN
+
3
ERV
-
Chính sách tỷ giá tương đối
linh hoạt
4
ERP
+
5
ADV
-
Nền kinh tế Mỹ
6
Inf
+
7
MPV
+
Nguồn: Tác giả tổng hợp
9
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU GẦN ĐÂY
Trong nghiên cứu thực nghiệm, theo Xiaowen Jin (2010) có ba phương pháp chính
để đo lường truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Thứ nhất là sử dụng mô hình hồi quy tuyến
tính. Thứ hai là tiếp cận theo mô hình VAR. Cách tiếp cận này giúp người nghiên
cứu biết được truyền dẫn tỷ giá hối đoái khi giá cả phản ứng lại cú sốc cấu trúc của
tỷ giá. Thứ ba là tiếp cận theo phương pháp kiểm định đồng liên kết và mô hình
ECM. Thuận lợi của cách tiếp cận này là xem xét được mối quan hệ truyền dẫn dài
hạn trong mối quan hệ đồng liên kết giữa tỷ giá với giá nhập khẩu, giá nội địa và
nhiều biến khác.
Trong phần này chúng tôi tóm lược các nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn tỷ
giá hối đoái theo các phương pháp vừa nêu. Nhưng để liên kết với tiếp cận khái
niệm truyền dẫn tỷ giá hối đoái trình bày ban đầu, chúng tôi quyết định phân các
nghiên cứu theo nhóm các quốc gia đối với các nghiên cứu ở ngoài.
2.1 Các nghiên cứu đối với các nước phát triển
Faruquee (2006) dùng mô hình VAR nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại khu
vực chung EURO. Tác giả tìm thấy truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn ở mức
thấp và có xu hướng tăng dần theo thời gian. Joey Chew và cộng sự (2011) nghiên
cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại nền kinh tế Singapore thấy rằng truyền dẫn tỷ giá
hối đoái lên giá nhập khẩu là hoàn toàn gần bằng 1, truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong
giai đoạn kinh tế tăng trưởng thấp hơn truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong giai đoạn suy
thoái. Điều này hàm ý chính sách tiền tệ có thể linh hoạt hơn trong chu kỳ kinh tế
tăng trưởng. Thierry Tressel và cộng sự (2011) dùng mô hình VECM nghiên cứu
truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại Thụy Sĩ đã cho thấy rằng mức truyền dẫn tỷ giá hối
đoái lên CPI là khá thấp mặc dù truyền dẫn tỷ giá hối đoái lên giá nhập khẩu tương
đối cao. Giải thích cho điều này, tác giả cho rằng có hiện tượng LCP (Local
currency pricing) nghĩa là nhà nhập khẩu trong nước thanh toán bằng chính đồng
nội tệ vì vậy sự biến động của tỷ giá không ảnh hưởng nhiều nếu trên quan điểm
người tiêu dùng trong nước. Thêm nữa, khi giá cả hàng hóa đến tay người tiêu dùng
10
thì tỷ trọng chi phí ngoài chi phí nhập khẩu hàng hóa (ví dụ chi phí phân phối và
quảng cáo trong nước) chiếm tỷ trọng lớn. Và một lý do nữa là mức độ thay thế
hàng nhập khẩu của hàng hóa trong nước. Nếu khả năng thay thế cao thì hành vi
thay đổi giá cả khi tỷ giá biến động sẽ là rất thấp. McCarthy (2000) là người tiên
phong trong việc sử dụng mô hình VAR để thực hiện nghiên cứu về truyền dẫn tỷ
giá hối đoái. Mô hình VAR đệ qui (recursive VAR) được sử dụng để nghiên cứu
mức tác động của tỷ giá hối đoái và chỉ số giá nhập khẩu đến chỉ số giá sản xuất và
chỉ số giá tiêu dùng tại một số nền kinh tế phát triển giai đoạn 1976 – 1998.Kết quả
nghiên cứu cho thấy việc nâng giá đồng nội tệ sẽ làm giảm giá cả nhập khẩu và điều
này kéo dài với thời gian ít nhất là 1 năm ở hầu hết các nước khảo sát. Phản ứng của
chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng đối với chỉ số giá nhập khẩu là dương và
có ý nghĩa thống kê ở hầu hết các nước được khảo sát
2.2 Các nghiên cứu đối với các nước đang phát triển
Nkunde Mwase (2006) sử dụng mô hình SVAR và tìm thấy truyền dẫn tỷ giá hối
đoái lên lạm phát tại Tazania (nhỏ hơn 1) có xu hướng giảm dần theo thời gian mặc
dù có sự giảm giá trị đồng nội tệ. Việc truyền dẫn tỷ giá hối đoái đôi khi không
giống với lý thuyết có thể một phần là do sự tái cơ cấu kinh tế tại nước này trong
thời gian qua. Nombulelo Duma (2008) dùng mô hình VAR với dữ liệu 2003-2007
để nghiên cứu tác động các yếu tố bên ngoài lên lạm phát tại Sri Lanka đã cho thấy
truyền dẫn tỷ giá hối đoái lên giá cả ở mức thấp. Điều này được tác giả diễn giải là
do chế độ kiểm soát chặt chẽ giá cả, tỷ trọng lương thực trong rổ hàng hóa tiêu dùng
cao và tỷ lệ biến động của tỷ giá khá thấp và ổn định. Rudrani Bhattacharya và cộng
sự (2011) dùng mô hình VECM với dữ liệu 1997-2009 đã tìm thấy truyền dẫn tỷ giá
hối đoái tại Ấn Độ tương đối thấp. Mặc dù có ý kiến cho rằng truyền dẫn tỷ giá hối
đoái thấp là do môi trường lạm phát thấp hỗ trợ, tác giả bổ sung thêm có thể còn có
các lý do khác như là thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước cao, tỷ
trọng các sản phẩm nội địa trong rổ hàng hóa tiêu dùng cao. Abdelhak Senhadji và
cộng sự (2007) dùng nhiều mô hình khác nhau (từ OLS đến GMM) với dữ liệu từ
1995-2006 tại Tunisia cho thấy truyền dẫn tỷ giá hối đoái là khá thấp từ 0.9 –1,2%
11
trên cú sốc 10% của tỷ giá. Bài nghiên cứu cũng cho thấy một số kết quả khác đáng
chú ý: (1) việc nới lỏng chế độ kiểm soát giả cả có thể làm tăng truyền dẫn tỷ giá
hối đoái dù tác giả chưa định lượng được chính xác hiện tượng này (2) truyền dẫn tỷ
giá hối đoái thấp ở Tunisia củng cố quan điểm cho rằng các nước có lạm phát thấp
sẽ có truyền dẫn tỷ giá hối đoái thấp. Miguel Savastano và cộng sự (2005) dùng mô
hình VAR với dữ liệu 1995-2004 khi nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại một
số nền kinh tế mới nổi. Kết quả cho đa phần hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái sẽ
được truyền dẫn hết vào CPI ở các nước mới nổi sau khoảng 12 tháng. Còn tốc độ
truyền dẫn vào chỉ số WPI thì cao hơn rất nhiều chỉ mất hơn 6 tháng. Daniel Leigh
và Marco Rossi (2002) cũng sử dụng mô hình VAR để nghiên cứu sự truyền dẫn
của tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá tiêu dùng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá tại Thổ Nhĩ Kỳ kéo dài
trên 1 năm và có mức tác động mạnh nhất sau 4 tháng, sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái
đến giá bán sỉ có mức độ mạnh hơn giá cả tiêu dùng và sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái
là hoàn toàn trong một thời gian ngắn và với mức độ lớn hơn so với các ước lượng
được thực hiện tại các nước đang phát triển khác trong nghiên cứu. Michele Ca’
Zorzi và cộng sự (2007) sử dụng mô hình VAR để nghiên cứu sự truyền dẫn tỷ giá
hối đoái đối với 12 nước đang phát triển thuộc châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông
Âu. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với các nước đang phát triển có lạm phát chỉ ở
mức một con số thì mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng
là thấp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một mối quan hệ cùng chiều rõ rệt giữa
độ lớn của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái và lạm phát. Trong khi mối tương quan
cùng chiều giữa độ mở của một quốc gia và độ lớn của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái
chỉ được hỗ trợ ở mức yếu. Ito và Sato (2007) dùng mô hình VAR để nghiên cứu sự
truyền dẫn tỷ giá hối đoái đối với các nước thuộc khu vực Đông Á. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy độ lớn của mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập
khẩu là cao nhất, sau đó đến chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng. Mức truyền
dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu khá cao ở các nước bị ảnh hưởng bởi
cuộc khủng hoảng tiền tệ. Mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá tiêu dùng
12
nhìn chung tương đối thấp ở các nước được khảo sát ngoại trừ Indonesia. Phản ứng
của lãi suất đối với cú sốc tỷ giá hối đoái là dương ở các nước được khảo sát và đạt
mức lớn nhất tại Indonesia. Điều này cho thấy NHTW các nước, đặc biệt là NHTW
Indonesia, đã áp dụng chặt chẽ chính sách thắt chặt tiền tệ để hạn chế lạm phát và
hạn chế mức phá giá mạnh hơn đồng nội tệ trong tương lai.
2.3 Các nghiên cứu trong nước
Số lượng nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại Việt Nam hiện rất ít. Theo tìm
hiểu của chúng tôi hiện có rất ít nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái sử dụng
mô hình VAR. Gần đây nhất có Võ Văn Minh (2009) và Bạch Thị Phương Thảo
(2011), hai tác giả này sử dụng mô hình VAR để ước lượng mức tác động của cú
sốc tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu và tỷ lệ lạm phát trong nước.
Võ Văn Minh (2009) sử dụng dữ liệu nghiên cứu từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 2
năm 2007 đã tìm thấy mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu sau 6
tháng là 1,04; sau 1 năm là 0,21. Tuy nhiên mức truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng
trong 4 tháng đầu là âm và mức tác động tích lũy sau 1 năm chỉ là 0,13 – ở mức
thấp so với các nước trong khu vực. Hạn chế của nghiên cứu này là không có mặt
chỉ số giá sản xuất trong chuỗi chỉ số giá cần đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối
đoái. Chỉ số giá nhập khẩu không có số liệu thống kê chính thức mà được tác giả
ước lượng bằng cách tính toán từ chỉ số giá xuất khẩu của các đối tác thương mại
chính của Việt Nam.
Bạch Thị Phương Thảo (2011) cũng sử dụng mô hình VAR và kết quả mô hình định
lượng cho thấy mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu là lớn nhất. Mức truyền
dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá sản xuất cũng lớn không kém mức truyền dẫn đến
chỉ số giá nhập khẩu. Độ lớn của mức truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng là thấp
nhất. Ảnh hưởng của cú sốc NEER đến chỉ số giá nhập khẩu IMP có ý nghĩa thống
kê sau 3 tháng có cú sốc tỷ giá hối đoái và kéo dài đến gần 2 năm sau khi xảy ra cú
sốc tỷ giá hối đoái. Cú sốc NEER cũng có tác động nhanh đến chỉ số giá sản xuất
PPI nhưng thời gian tác động ngắn hơn và chỉ có ý nghĩa thống kê trong khoảng 18
13
tháng sau khi có cú sốc tỷ giá hối đoái. Thời gian ảnh hưởng của cú sốc tỷ giá hối
đoái đến chỉ số giá tiêu dùng CPI là chậm nhất, chỉ bắt đầu có ý nghĩa thống kê sau
11 tháng kể từ khi có cú sốc tỷ giá hối đoái.
Cuối cùng chúng tôi nhận thấy các nghiên cứu trong nước còn một số vấn đề cần bổ
sung khi tiếp cận nội dung truyền dẫn tỷ giá hối đoái như: (1) Tổng kết các khung lý
thuyết cơ bản các kênh truyền dẫn trực tiếp và gián tiếp của tỷ giá hối đoái đến các
chỉ số giá, các hướng tiếp cận khi nghiên cứu thực nghiệm truyền dẫn tỷ giá hối
đoái; (2) Ngoài phân tích truyền dẫn theo mô hình VAR đệ quy, cũng nên ứng dụng
mô hình hiệu chỉnh sai số dạng véc tơ (VECM) để tìm hiểu mối cân bằng dài hạn
giữa các biến và cơ chế điều chỉnh về trạng thái cân bằng dài hạn khi một cú sốc
diễn ra; (3) Ứng dụng phân tích hệ số tương quan để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
đến độ lớn truyền dẫn tý giá hối đoái.
2.4 Lựa chọn mô hình đo lường truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Như đã đề cập, có ít nhất ba cách tiếp cận khi nghiên cứu thực nghiệm truyền dẫn tỷ
giá hối đoái. Nhưng theo chúng tôi, cách tiếp cận theo mô hình VAR là có nhiều ưu
điểm hơn hết. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mô hình VAR để
thực hiện mô hình thực nghiệm. Ngoài việc mô hình VAR có ưu điểm trong phân
tích cơ chế truyền tải sốc, nghĩa là xem xét tác động của một cú sốc trên một biến
phụ thuộc lên các biến phụ thuộc khác trong hệ thống nó còn có những ưu điểm
khác đã được Dimitrios Asterious và cộng sự (2001) đề cập đến như sau:
i. Khi sử dụng mô hình VAR không cần phân biệt biến nào là biến nội sinh và
biến nào là biến ngoại sinh, mà tất cả các biến sẽ được xem xét như những
biến nội sinh. Các biến số trong mô hình đều đóng vai trò như nhau.
ii. Với một số ít biến trong mô hình nhưng tính tin cậy của dự báo thu được
thường tốt hơn nhiều so với một mô hình hệ phương trình đồng thời cồng
kềnh nhiều biến và nhiều phương trình.
Trong nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái chúng tôi đã ứng dụng tính năng quan
14
trọng của mô hình VAR là: Phân tích cơ chế truyền tải sốc thông qua hàm phản ứng
xung (Impulse response function - IRF), hàm phản ứng sẽ cho biết các biến còn lại
trong mô hình phản ứng như thế nào khi xảy ra cú sốc đối với một biến trong mô
hình. Cơ chế sắp xếp thứ tự Cholesky (Cholesky Ordering) được sử dụng để xây
dựng thứ tự tác động của các biến. Ngoài ra, để xem xét trong dài hạn tỷ giá hối
đoái có mối quan hệ như thế nào với chỉ số giá nhập khẩu chúng tôi sử dụng thêm
mô hình VECM. Mô hình này tỏ ra rất hữu ích trong việc thể hiện không chỉ mối
quan hệ dài hạn giữa các biến số mà còn thể hiện được động thái trong ngắn hạn
trong quan hệ giữa các biến số trong việc giữ cho hệ thống quy về mối quan hệ cân
bằng dài hạn.
15
3. KHUNG PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
3.1 Mô hình nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái
3.1.1 Mô hình nghiên cứu
Để đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá, tác giả sử dụng mô
hình tương tự như nghiên cứu của McCarthy (2006).
Trong mô hình này, các chỉ số giá – chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ
số giá tiêu dùng – thời kỳ t được giả định chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau:
- Yếu tố thứ nhất là độ trễ của các biến khác trong mô hình
- Yếu tố thứ hai và thứ ba là tác động của cú sốc cung và cú sốc cầu lên các
chỉ số giá.
- Yếu tố thứ tư là tác động của cú sốc tiền tệ lên các chỉ số giá
- Yếu tố thứ năm là tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái
- Tiếp theo là sự tác động lẫn nhau của các yếu tố trong chỉ số giá
- Và cuối cùng là tác động của cú sốc của chính bản thân mỗi chỉ số giá lên
bản thân nó ở thời kỳ t.
Hai giả định khác đáng chú ý của mô hình là: thứ nhất, giả định rằng cú sốc của chỉ
số giá nhập khẩu ảnh hưởng đến chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng theo
hướng từ chỉ số giá nhập khẩu (IMP) ảnh hưởng đến chỉ số gián sản xuất (PPI) tiếp
đó ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI); thứ hai, không có sự phản hồi tức thời
của các biến trong chuỗi chỉ số giá, nghĩa là các biến này chỉ tác động lẫn nhau theo
hướng trên chứ không theo hướng ngược lại mặc dù thực tế cho thấy biến động của
chỉ số CPI có ảnh hưởng đến chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá sản xuất.
Với các giả định trên, các biến được sử dụng trong mô hình do đó sẽ bao gồm: biến
giá dầu thế giới (Oil) tượng trưng cho cú sốc cung, biến GDP thực (GDP) tương
trưng cho cú sốc cầu, mức cung tiền M2 (M2), tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa
phương (NEER), chỉ số giá nhập khẩu (IMP), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giá
16
tiêu dùng (CPI)
2
.
Các chỉ số giá trong thời kỳ t sẽ được viết lại như sau:
(1)
(2)
(3)
Với:
: lần lượt là cú sốc giá dầu, cú sốc gdp, cú sốc cung tiền và cú sốc tỷ
giá hối đoái.
: lần lượt là cú sốc giá nhập khẩu, cú sốc giá sản xuất và cú sốc giá tiêu
dùng
E
t-1
: độ trễ các biến trong phương trình tác động lên biến chỉ số giá
Các cú sốc được giả định là không tương quan với nhau.
Cấu trúc của mô hình từ (1) tới (3) có dạng giống mẫu mô hình VAR đệ qui, vì vậy
để hoàn thành mô hình thực nghiệm, tiếp tục thực hiện giả định sau: (1) cú sốc giá
dầu thế giới tượng trưng cho cú sốc cung, chỉ chịu tác động từ cú sốc của chính nói
trong quá khứ; (2) cú sốc GDP thực tượng trương cho cú sốc cầu, chịu tác động
đồng thời từ cú sốc cung; (3) cú sốc cung tiền M2 tượng trưng cho cú sốc tiền tệ,
chịu tác động đồng thời từ cú sốc cung, cú sốc cầu; (4) cú sốc tỷ giá hối đoái danh
nghĩa hiệu lực (NEER) tượng trưng cho cú sốc tỷ giá hối đoái, chịu tác động đồng
thời từ cú sốc cung, cú sốc cầu, cú sốc tiền tệ.
(4)
(5)
(6)
2
: So với mô hình trong nghiên cứu của McCarthy (2006), chúng tôi đã bớt đi biến lãi suất trong mô hình do
số liệu thống kê về lãi suất tại Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu. Điều này tuy nhiên không
phá vỡ tính hợp lý của các biến trong mô hình vì đã được sử dụng tại rất nhiều nghiên cứu cho các quốc gia
đang phát triển, ví dụ như nghiên cứu của Ito và Sato (2006)
17
(7)
Dưới tất cả các giả định trên, các phương trình từ (1) đến (7) có dạng giống một mô
hình VAR đệ qui. Để xác định các cú sốc, chúng tôi áp dụng phương pháp phân rã
Cholesky đối với ma trận hiệp phương sai của phần dư của các biến từ mô hình
VAR đệ qui trên. Mối quan hệ giữa các phần dư (u
t
) và các cú sốc (ε
t
) có thể được
viết như sau:
3.1.2 Các bước thực hiện trong quá trình thực nghiệm mô hình VAR
Để đo lường cú sốc của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá trong nước, chúng tôi thực
hiện theo các bước sau:
Bước một, thực hiện việc kiểm định tính dừng và không dừng của chuỗi thời
gian của các biến sử dụng trong mô hình thực nghiệm.
Xác định tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá bằng cách sử
dụng hàm phản ứng xung cho các phần dư của mô hình VAR 7 biến. Thứ tự
Cholesky được thiết lập với vector của 7 biến như sau:
Vì thứ tự sắp xếp của các biến trong mô hình VAR rất quan trọng nên để
kiểm tra sự nhạy cảm của kết quả mô hình với sự sắp xếp thứ tự các biến,
chúng tôi sẽ đảo vị trí các biến (còn được gọi là kiểm định robustness) theo
các lý thuyết kinh tế để đảm bảo sự phù hợp của kết luận rút ra từ mô hình.
Để rõ hơn về tầm quan trọng của cú sốc các biến trong việc giải thích biến
18
động lạm phát tại Việt Nam, chức năng phân rã phương sai được áp dụng để
giải thích sâu hơn.
3.2 Hệ số tương quan thứ hạng Spearman
Để đánh giá mối liên hệ giữa môi trường truyền dẫn và độ lớn truyền dẫn, chúng tôi
sử dụng hệ số tương quan thứ hạng Spearman. Ðây là số đo phi tham số để đo mức
độ liên hệ giữa hai biến số. Giá trị của mỗi biến số được sắp hạng độc lập và số đo
dựa trên hiệu số giữa các cặp số liệu của hai biến.
Có 3 bước căn bản để tính hệ số tương quan thứ hạng Spearman:
(1) Sắp hạng các giá trị của mỗi biến riêng, nếu bất kì giá trị nào giống nhau, lấy
trung bình hạng của chúng. Nếu có một số lớn các giá trị giống nhau cần phải
dùng công thức điều chỉnh để tính tương quan.
(2) Tính hiệu số d, giữa mỗi cặp sắp hạng, bình phương chúng và cộng lại.
(3) Tính tương quan sắp hạng Spearman được kí hiệu bằng r
s
Trong đó n là số các đối đượng. Tương quan này có giá trị giữa -1 và +1, và cách lí
giải tương tự như tương quan thông thường. Với r
s
bằng 1 tương ứng với sự phù
hợp hoàn toàn giữa hạng của hai biến số, bằng 0 tương ứng với sự không tương
quan và bằng -1 tương ứng với sự phù hợp nghịch đảo hoàn toàn giữa các hạng.
3.3 Mô hình VECM- Ước lượng cân bằng dài hạn.
Chúng tôi sử dụng mô hình VECM để ước lượng mối quan hệ truyền dẫn tỷ giá hối
đoái trong dài hạn. Chúng tôi thực hiện ước lượng tương tự như John Beirne và
Martin Bijsterbosch (2009). Với việc thực hiện phân tích một hệ thống gồm 7 biến
quan sát và biến phụ xu hướng với số mẫu quan sát hạn hẹp là không khả thi nên
chúng tôi chỉ phân tích cân bằng dài hạn của hệ thống gồm chỉ số giá nhập khẩu,
giá dầu, chênh lệch sản lượng
3
, cung tiền M2 và NEER.
3
Trong dài hạn chúng tôi cho rằng chênh sản lượng (output gap) sẽ thể hiện được khả năng sản xuất trong
nước tác động thế nào đến giá nhập khẩu. Chênh sản lượng được tính bằng hiệu giữa GDP thực tế và GDP
tìm năng.
19
Mô hình VECM có dạng:
Y
t
là k vector biến nội sinh, Y
t-m
là quan sát của Y ở độ trễ m. x là vector d biến
ngoại sinh, A
i
là ma trận kxk, B là vector hằng số. Y bao gồm các biến: LNIMP,
LNOil, LNGAP, LNM2, LNNEER.
Trong dài hạn chúng tôi kỳ vọng mối quan hệ giữa các biến cùng chiều.
3.4 Dữ liệu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng dữ liệu hàng quý từ quý 1 năm 2001 đến
quý 4 năm 2011. Nguồn dữ liệu và cách xử lý dữ liệu ban đầu như sau:
Giá dầu thế giới (Oil): được lấy theo giá dầu U.K Brent, đơn vị đôla Mỹ; giá
dầu được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương pháp Census X12 và được
qui về kỳ gốc (Q1.2001 = 100). Nguồn: Bloomberg.
GDP thực (GDP): nghiên cứu sử dụng GDP giá cố định 1994 và xem đây là
GDP thực của Việt Nam. GDP thực được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo
phương pháp Census X12. Nguồn: GSO.
Cung tiền M2 (M2): M2 được xác định bao gồm tiền và chuẩn tệ, được điều
chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương pháp Census X12. Nguồn: IFS và GSO.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương (NEER): giỏ tiền tệ mà tác giả lựa
chọn để tính NEER ở đây bao gồm đồng tiền 9 đối tác thương mại chính của
Việt Nam là Trung Quốc, Hongkong, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Mỹ,
EURO, Nhật và Úc. Chín đối tác thương mại trên chiếm trung bình khoảng
90% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Việt Nam. NEER được qui về kỳ
gốc (Q1.2001 = 100). Dữ liệu dùng để tính NEER được thu thập từ IFS,
20
DOT và GSO.
IMP, PPI, CPI: lần lượt là chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số
giá tiêu dùng. Chỉ số giá sản xuất (PPI) được tính bằng các lấy trung bình
của 2 chỉ số giá sản xuất công nghiệp và chỉ số giá sản xuất nông nghiệp.
Các chỉ số giá này được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương pháp Census
X12 và được qui về kỳ gốc (Q1.2001 = 100). Nguồn: GSO.
Tất cả các giá trị chuỗi dữ liệu đều được đưa về dạng logarit cơ số mũ tự nhiên.