Bài tập Kinh tế Asean và liên kết khu vực
Chủ đề: Brunei
I. Những cái nhìn sơ lược về Brunei
1. Quốc gia Brunei
Đất nước Brunei hay quốc gia hồi giáo Brunei có tên đầy đủ là Brunei
Darussalam, theo tiếng Malay có nghĩa là “nơi ở của hòa bình”. Brunei được chia
thành 4 quận chính: Brunei-Muara, Tutong, Belait và Temburong. Thủ đô Bandar
Seri Begawann tọa lạc tại quận Brunei-Muara - trung tâm dân số và hành chính của
đất nước Brunei. Quốc khánh của Brunei là ngày 23/2/1984.
Đây là quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu nhà nước và chính
phủ là quốc vương kiêm thủ tướng Hassanal Bolkiah. Hội đồng các bộ trưởng nội
các, hội đồng tôn giáo, hội đồng cơ mật, hội đồng truyền ngôi do quốc vương chỉ
định và bổ nhiệm làm nhiệm vụ cố vấn cho quốc vương. Tại Brunei hoàn toàn
không có bầu cử mà thực hiện theo luật cha truyền con nối. Dù vậy, truyền thông
đại chúng hoàn toàn ủng hộ chính phủ và gia đình Hoàng gia giữ được địa vị tôn
kính trong đất nước.
Brunei là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế: ASEAN, WTO, IMF, WB,
APEC, ADB,…
2. Lịch sử hình thành
Vương quốc Brunei là một nước rất mạnh trong khoảng thế kỷ 14 tới thế kỷ 16.
Lãnh thổ của Brunei bao gồm vùng phía nam Philippines, Sarawak và Sabah. Ảnh
hưởng từ cuộc khai thác thuộc địa của các nước tư bản châu Âu dần chấm dứt thời
gian hiện diện với tư cách một cường quốc trong khu vực của quốc gia này. Sau
đó, Brunei có một cuộc chiến ngắn với Tây Ban Nha và họ đã giành chiến thắng.
Tuy nhiên, tới thế kỷ 19, năm 1888 Brunei đã mất phần lớn đất đai của mình vào
tay các nước châu Âu và chịu sự bảo hộ của Anh. Trong chiến tranh thế giới lần
thứ 2, Brunei trở thành thuộc địa của Nhật Bản(1941-1945). Năm 1946, Anh quay
lại chiếm Brunei. Tuy nhiên dưới áp lực của phong trào giải phóng dân tộc Anh
quộc phải để Brunei có hiến pháp năm 1959. Đến ngày 1/1/1984, Brunei chính
thức tuyên bố là quốc gia độc lập.
3. Đặc điểm địa lí và dân số
Tọa độ địa lí: 4°30’N; 114°40’E
Vị trí địa lí: Brunei nằm trong khu vực Đông Nam Á, bên bờ phía tây bắc của
đảo Borneo, hòn đảo lớn thứ 3 thế giới. Phía bắc tiếp giáp biển Đông, 3 mặt còn lại
tiếp giáp Malaysia, nằm sát tuyến đường biển rất quan trọng đi xuyên qua biển
Đông nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Tổng diện tích của Brunei là 5.769km2 trong đó diện tích đất liền là 5629km2.
Đường bờ biển dài 160km. Địa hình cao dần từ tây sang đông với các đồng bằng
ven biển phía tây và đồi núi thấp ở phía đông.
Khí hậu: Brunei mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều. Nhiệt
độ trung bình trong khoảng từ 24°C đến 30°C, độ ẩm không khí cao, dao động từ
70-100%. Mùa mưa ở Brunei kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1, mùa khô từ tháng 2
đến tháng 8. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 2500mm ở khu vực ven
biển và 4000mm trên các ngọn đồi bao phủ bởi rừng rậm. Brunei là quốc gia không
phải hứng chịu các thiên tai nghiêm trọng như bão, động đất, lụt lội…
Tài nguyên: Tài nguyên chủ yếu của Brunei là dầu mỏ, khí đốt và tài nguyên
rừng. Brunei là quốc gia sản xuất dầu khí lớn thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á
sau Indonesia và Malaysia. Trữ lượng dầu của Brunei đã được chứng minh vào
khoảng 1.1 tỉ thùng vào năm 2009. Bên cạnh đó, tài nguyên rừng cũng là một thế
mạnh của Brunei. Đất nước Brunei có những thảm xanh trải đều khắp, là lá phổi
xanh che chắn làm cho đất nước nhiệt đới này tuy nóng nhưng không ngột ngạt và
oi bức vì bụi và ô nhiễm. Ở Brunei có những khu rừng nguyên sinh chưa hề bị bàn
tay con người tác động tới như rừng quốc gia Ulu Temburong.
Dân số: Dân số Brunei ước tính năm 2011 là khoảng 401.890 người, trong đó
97% dân sô sống ở phía tây, chỉ có khoảng 10.000 người sống ở khu phía đông
vùng Temburong. Brunei là quốc gia đa dân tộc với 66.3% là người gốc Malay,
11.2% là gốc Hoa, còn lại 22.5% là dân tộc khác.
Ngôn ngữ: Ứng với các nhóm dân tộc trên là các nhóm ngôn ngữ lớn ở Brunei:
tiếng Malay là ngôn ngữ chính thức, ngoài ra tiếng Hoa và tiếng Anh cũng được sử
dụng rộng rãi.
Tôn giáo: Đạo Hồi là tôn giáo chính thức của Brunei, quốc vương là người
đứng đầu về tôn giáo của đất nước và hơn 70% người dân Brunei theo đạo Hồi.
Tuy nhiên ở Brunei cũng có tôn giáo khác như đạo Phật (chủ yếu là người Hoa),
Thiên chúa giáo và những cộng đồng rất nhỏ vẫn theo tôn giáo bản địa.
Văn hóa: Nhìn tổng thể có thể nhận thấy rằng văn hóa Brunei chịu ảnh hưởng
của khá nhiều nền văn hóa lân cận đặc biệt là Malaysia và Indonesia – hai đất nước
có nhiều điểm tương đồng về đặc điểm địa lí cũng như lịch sử hình thành. Ngoài ra
những quy định của văn hóa của Hồi giáo và Hindu giáo cũng ảnh hưởng sâu sắc
đến lối sống và phong tục tập quán của người Brunei. Những quy định trong cuộc
sống thường ngày của người Brunei đã phản ánh rõ điều này: trang phục của người
Brunei thường không để tay trần hoặc váy ngắn trên gối, đặc biệt cần chú ý cách ăn
mặc khi đến những nơi thờ cúng. Về ăn uống, người dân Brunei thường nhịn ăn từ
lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn trong tháng thánh lễ Ramandam, trong các
bữa tiệc công cộng nam, nữ không được phép ngồi cùng bàn kể cả tiệc cưới…
4. Thế mạnh quốc gia
Với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, Brunei có rất nhiều thế mạnh để
phát triển đất nước trong đó tập trung vào 3 thế mạnh sau:
• Thế mạnh về dầu khí
• Thế mạnh về du lịch
• Thế mạnh về kinh tế biển
II. Kinh tế Brunei
1. Khái quát chung
Brunei là nước nhỏ nhưng nền kinh tế khá thịnh vượng, dựa chủ yếu vào xuất
khẩu dầu khí. Hiện nay dầu hỏa và khí đốt chiếm 80% tổng thu nhập trong nước và
90% thu nhập về xuất khẩu. Theo số liệu thống kê năm 2009, tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) của Brunei là 16.313 tỉ $, tính theo giá ngang sức mua (PPP) là 21.237
tỉ $. GDP bình quân đầu người (GDP/người) đạt 38.192$, tính theo giá ngang sức
mua đạt 49.719$ cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Tốc độ tăng trưởng là
-1.9%, tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp ở mức thấp, lần lượt là 1% và 3.7%.
2.Cơ cấu kinh tế
Brunei có một nền kinh tế nhỏ bé với ba thành phần chính là: công nghiệp-
nông nghiệp - dịch vụ
Biểu đồ tỉ trọng các ngành trong cơ cấu nền kinh tế của Brunei
2.1 Công nghiệp
Brunei đặc biệt phát triển trong các lĩnh vực như: dầu khí và công nghiệp xây dựng
• Về lĩnh vực dầu khí
- Kể từ khi Brunei tìm ra mỏ khí đốt đầu tiên cho đến nay thì nghành dầu khí là
ngành kinh tế mũi nhọn và có một đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của
Brunei:
+ Brunei hiện nay là nước sản xuất dầu mỏ đứng thứ 3 Đông Nam Á và đứng
thứ 14 trên thế giới.sản xuất trung bình 200000 thùng dầu/ngày và Brunei là nước
sản xuất khí thiên nhiên lớn thứ 9 trên thế giới.
+ Ngày càng đóng góp cao vào sự phát triển kinh tế của Brunei. Năm 2009
ngành dầu khí đóng góp 80% về GDP và 90% về kim ngạch xuất khẩu
Biểu đồ sự phụ thuộc của Brunei vào dầu khí
+ Có vai trò lớn trong định hướng phát triển nền kinh tế trong tương lai dựa
trên nền tảng cơ sở hạ tầng có sẵn để làm bàn đạp thúc đẩy kinh tế
+ Đồng thời là nguồn cung cấp tài chính cho các lĩnh vực về giáo dục an sinh
xã hội…và cung cấp tài chính cho các hoạt động của bộ máy chính trị
- Bên cạnh những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước thì ngành
này còn có những tồn tại yếu kém vốn có:
+ Theo những nghiên cứu đánh giá mới nhất thì trữ lượng dầu của Brunei
đang giảm dần và có khả năng sẽ cạn kiệt trong hai thập kỉ nữa cũng tương tự viễn
cảnh của các mỏ khí đốt cũng không mấy sáng sủa nguồn dự trữ khí đốt sẽ cạn kiệt
trong vòng 40 năm tới
+ Chưa có chiến lược khai thác rõ ràng mà khai thác theo sự biến động của giá
dầu và khí đốt trên thị trường thế giới
Biểu đồ sản lượng khai thác dầu mỏ của brunei
Ta thấy vào những năm 2001 khi Mĩ phát động cuộc chiến ở Afghanistan và
Irac thì thị trường dầu mỏ có nhiều biến động giá dầu tăng mạnh nên sản lượng
khai thác lớn và sau đó giảm dần.Đặc biệt từ năm 2008 tới nay do cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính thế giới nên nhu cầu về dầu giảm mạnh do đó sản lượng
khai thác giảm
Biểu đồ sản lượng khai thác khí đốt của Brunei
2.CÔNG NGHIỆP XÂY DỰNG
• Về xây dựng
Do đặc thù của quốc gia chỉ mạnh về dầu khí các ngành công nghiệp khác hầu như
không phát triển. Vì vậy ngành xây dựng của Brunei khá nhỏ bé, chủ yếu chỉ tập
trung vào một số lĩnh vực:
- Xây dựng các công trình phục vụ ngành dầu khí :các dàn khoan và các nhà
máy lọc dầu
- Xây dựng các công trình phục vụ vui chơi giải trí phát triển du lịch như: công
viên vui chơi giải tri các khu resort…
- Xây dựng các công trình mang tình tâm linh như:các thánh đường hội giáo
2.2 Nông nghiệp
Do diện tích nhỏ hẹp nên ngành nông nghiệp của Brunei rất nhỏ bé.Nông nghiệp
tập trung vào các lĩnh vực:
+ Trồng cây lương thực :lúa, rau màu…
+ Trồng các cây công nhiệp :cây lấy gỗ…
+ Chăn nuôi gia súc
-Để khắc phục những khó khăn do diện tích nhỏ hẹp thì Brunei đã đi thuê diện
tích dất nông nghiệp ở các quốc gia khác để đáp ứng một phần nhu cầu trong nước
+ Hiện nay chính phủ đang thuê 2.262 dặm vuông đất nông nghiệp ở Úc để
chăn nuôi bò lấy thịt,bò sau khi đã được chế biến sẽ được chuyển về trong nước.
2.3 Dịch vụ
Brunei có thế mạnh lớn về tự nhiên nên lĩnh vực dịch vụ phát triển khá mạnh
đặc biệt là lĩnh vực du lịch và hàng hải
2.3.1 Du Lịch
Brunei Darussalam là một quốc gia nhỏ bé nằm khiêm tốn ở phía Tây Bắc của
thiên đường xinh đẹp Borneo. Không chỉ giàu có về tài nguyên thiên nhiên, đặc
biệt là dầu khí, vương quốc này còn là điểm đến thú vị đối với khách du lịch nhờ
những cung điện, đền đài và bản sắc văn hóa độc đáo. Đến đây, du khách sẽ ngạc
nhiên trước sự lộng lẫy của những thánh đường trải thảm Ả Rập, tường bằng gạch
châu Âu, vàng dát khắp chốn, hòa mình với những chùm đèn pha lê lung linh sắc
màu. Một đất nước được ưu ái gọi là “Hòn ngọc xanh “ của Đông Nam Á, “Đất
nước của những thánh đường”, “Xứ sở bình yên”….
Du lịch tâm linh
Bandar Seri Begawan là thủ đô của Brunei, nơi giao thoa kiến trúc theo hai
trường phái Đông - Tây với một bên là những thánh đường hồi giáo nguy nga tráng
lệ và ngôi làng nổi lớn nhất châu Á, một bên là những khu cửa hàng, khách sạn
sang trọng, hấp dẫn khách du lich ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Công trình kiến trúc độc đáo nhất thủ đô là Hoàng cung Istana Nurul
Iman được xây dựng vào năm 1984 với chi phí gần 400 triệu đôla Mỹ, có 1.788
phòng, 257 phòng tắm, 5 hồ bơi, một chuồng ngựa có điều hòa nhiệt độ cho 200
chú ngựa Ponydành cho nhà vua chơi bộ môn polo, một gara chứa 110 chiếc xe,
một phòng ăn có thể mở rộng cho 5.000 khách, một thánh đường có sức chứa
1.500 người. Mái vòm do kiến trúc sư Leandro V. Locsinthiết kế theo môtip kiến
trúc Hồi giáo và Malaysia được làm bằng vàng, trong khi sàn nhà cung điện được
lát bằng đá cẩm thạch nhập từ 38 nước trên thế giới.
Istana Nurul Iman
Với hơn 100 thánh đường lớn nhỏ khác nhau, Brunei được mệnh danh là xứ sở
của các thánh đường Hồi giáo tại Đông Nam Á, trong đó thánh đường Omar Ali
Saifuddien được bao bọc bởi khu làng nổi trên sông Kampong Ayer là một điển
hình của sự giàu có và sung túc của Vương quốc Brunei. Mái vòm hình và những
nóc tháp mạ vàng rực rỡ. Trong khi những bức tường, cột, vòm cung và tháp đều
được làm bằng đá cẩm thạch có xuất xứ từ Italia, kính nhập từ Anh, thảm lót sàn từ
Ả Rập Saudi
Riêng thánh đường Hồi giáo Jame Asr với đỉnh mái vòm dát vàng, được xem
là nơi linh thiêng nhất thành phố với ngàn người đến cầu nguyện ngày đêm, hay
như thánh đường Sir Omar Ali Saifuddien nổi bật với chóp mái nạm bằng năm
tấn vàng nguyên chất. Có thể nhận thấy tất cả trang trí nội thấy đều được chăm
chút đến từng chi tiết trong đó chất lượng và nghệ thuật luôn được đặt lên hàng
đầu.
Ngoài công trình kiến trúc hoàng cung, Bandar Seri Begawan còn sở hữu Viện bảo
tàng lịch sử, Viện bảo tàng hồi giáo…và nhiều công trình nổi tiếng khác.
Nhà thờ Hồi giáo nổi tiếng Sultan Omar Ali Saifuddien nằm ở trung tâm
thủ đô Bandar Seri Begawan.
Thánh đường hồi giáo Jame Assr Hassanil Bolikah
Du lịch sinh thái
Hấp dẫn làng nổi Kampong
Làng nổi Kampong Ayer là địa điểm du lịch nổi tiếng nhất của Brunei. Người ta
thường nói đến Brunei mà chưa đến thăm Kampong Ayer thì coi như chưa đến
Brunei. Du khách đến đây thường miêu tả Kampong Ayer như “Venice của
phương Đông”. Kampong Ayer theo tiếng Malay có nghĩa là “làng nước”, tức là
làng nổi trên mặt nước. Với diện tích hơn 10km2 và khoảng 3000 cư dân sinh sống
trong 42 làng nằm dọc theo bờ sông Brunei. Kampong Ayer là làng nổi lớn nhất
thế giới đồng thời là cảng quan trọng trong khu vực. Cư dân ở đây kiểm soát phần
lớn các giao dịch thương mại tại cảng này, chủ yếu là buôn bán các hàng hóa địa
phương như long não, quế, ngọc trai, tảng ong, kim cương, vàng nước hoa, chanh
và thực phẩm. Nó từng là trung tâm hành chính, là kinh đô của đế chế Brunei cũ và
là niềm tự hào của người dân Brunei. Kampong Ayer được biết đến do chính các
du khách Trung Quốc, Hà Lan, đã viết về sự tráng lệ của Kamhpong Ayer – nơi
tụ họp của những thương gia phương tây cũng như các nước láng giềng khác. Ngày
nay, Kampong Ayer là một địa điểm thu hút khách du lịch, là một di sản sống động
là một biểu tượng của tự do, thống nhất, phát triển của Brunei.
Làng nổi Kampong Ayer
Tutong
Tutong
Một địa danh của Brunei cũng nổi tiếng không kém đó là Tutong. Cách thủ đô
không xa nhưng Tutong lại có một không gian hoàn toàn khác biệt – không gian
sống độc đáo nơi thôn dã. Phong cách thiên nhiên ở Tutong nổi bật với những bãi
đá và cát trắng trải dài trên bãi biển Pantai Seri Kanangan đến hồ Tasek Merimbum
cùng cảnh vật nên thơ, huyền bí được bao bọc bởi những đầm lầy và những nghĩa
trang từ thế kỉ 15. Tuy nhiên, điểm thật sự hấp và lôi cuốn khách tham quan chính
là con người ở Tutong. Dân bản địa với nhiều đan tộc khác nhau ở Ruma Badaya
đã làm cho nền văn hóa ở khu vực này thật sự đa dạng và phong phú.
Vườn quốc gia Temburong
Công viên quốc gia Brunei Ulu Temburong
Temburong, món quà thiên nhiên đã ban tặng cho Brunei là một trong những khu
vực có hệ sinh thái đa dạng vào bậc nhất thế giới. Tại đây, ngoài những vẻ đẹp
hoang sơ chưa hề bị bàn tay con người tác động tới, khách du lịch còn được tham
gia nhiều hoạt động thú vị khác như leo núi, câu cá, lặn xem dải đá ngầm, đi bộ
xuyên qua rừng rậm, đi tàu cao tốc đến những vườn quốc gia khác nhau của
Brunei… Đặc biệt, ngồi trên bè xuyên qua những cánh rừng thanh bình trên sông
là một trải nghiệm thú vị cho hầu hết du khách khi đến với xứ sở này.
Brunei, vùng “đất vàng lỏng” của Đông Nam Á là nơi nhiều du khách tìm đến trú
chân để tìm kiếm sự thanh bình qua vẻ đẹp hoang dã và môi trường trong lành yên
ả. Brunei hiện đại àm không mất đi nét đẹp truyền thống của nó. Đó là sự pha trộn
độc đáo của hiện đại hóa với môi trường tự nhiên, giá trị tôn giáo và truyền thống
dân tộc Malay.
2.3.2 Hàng hải
Do nằm ở vị trí đắc địa trên tuyến hàng hải lớn chiếm đến 20% lượng hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển trên toàn thế giới, Brunei có thế mạnh lớn về kinh tế
biển đặc biệt là dịch vụ hàng hải bao gồm dịch vụ trung chuyển hàng hóa và dịch
vụ hậu cần hàng hải
• Brunei đã và đang xây dựng các cảng biển lớn để đáp ứng nhu cầu về trung
chuyển hàng hóa đồng thời phục vụ nhu cầu trong nước.
• Xây dựng các trung tâm dịch vụ hậu cần để phục vụ nhu cầu của tàu thuyền
quốc tế khi qua các cảng của Brunei.
3. Thương mại và đầu tư quốc tế
3.1 Thương mại quốc tế
Là một nước phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu dầu mỏ do đó hoạt động thương
mại của Brunei rất tấp nập,tuy nhiên các mặt hàng xuất nhập khẩu không đa dạng
chỉ tập chung vào một số mặt hàng chính:
Về mặt xuất khẩu
+ Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 10,67 tỷ $
+ Các mặt hàng xuất khẩu chính là: dầu thô,khí đốt,dệt may
+ Các bạn hàng chủ yếu là : Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc.Đặc biệt có quan hệ
thương mại mật thiết với Nhật Bản chiếm 38,4% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu
Về mặt nhập khẩu: do công nghiệp nặng không phát triển và nông nghiệp thì qui
mô nhỏ không đáp ứng được nhu cầu trong nước do đó hai mặt hàng này chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng lượng nhập khẩu của Brunei cụ thể:
+ Năm 2010 kim ngạch nhập khẩu đạt 2,61 tỷ $
+ Các mặt hàng nhập khẩu chính : máy móc, lương thực thực phẩm
+ Các bạn hàng chính: Malaysia, Singapo…
3.2 Đầu tư quốc tế
Thu hút đầu tư quốc tế: do hạn chế về mặt diện tích nên Brunei không có các
khu công nghiệp lớn nhưng bù lại họ có thế mạnh về dầu khí và một nền chính trị
ổn định do đó họ cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể
+ Cụ thể trong 6 tháng đầu năm 2011 dòng vốn FDI đầu tư vào Brunei đã tăng
121,8% (theo công bố chính thức từ văn phòng chính phủ) so với cùng kì năm
ngoái
+ Trong ba tháng đầu năm lượng vốn đầu tư đạt 390 triệu $. Dẫn đầu trong
danh sách đầu tư là các doanh nhân đến từ Anh
+ Dẫn đầu trong các dự án đầu tư là kinh tế chiếm hơn 90% tỷ trọng đầu tư
Chính sách đầu tư ra nước ngoài:do có được một nguồn thu lớn từ dầu khí mà
thị trường trong nước nhỏ bé do đó chính phủ đã quyết định mang tiền đầu tư ra
nước ngoài
+ Cụ thể Brunei đã đầu tư khoảng 20 tỷ $ ra nước ngoài
+ Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là về lĩnh vực du lịch dịch vụ mà ít quan tâm
đến đầu tư vào các khu công nghệ cao
4. Định hướng phát triển tương lai
4.1 Khó khăn trong phát triển
1. Tỷ lệ thất nghiệp cao:
- Theo cơ quan phát triển kinh tế Brunei (BEDB), ngành công nghiệp dầu khí
chiếm 80% nền kinh tế, đóng góp trên 90% nguồn thu từ xuất khẩu nhưng chỉ sử
dụng 3% lực lượng lao động. Khu vực kinh tế công, nguồn sử dụng chính lực
lượng lao động, không thể hấp thụ hết số lao động trẻ. Khoảng cách giữa khát
vọng, năng lực của thế hệ trẻ và cơ hội việc làm được tạo ra của nền kinh tế ngày
một rộng thêm.
- Có một nghịch lý là nguồn lao động trong nước thì dư thừa nhưng Brunei lại
là một trong số những quốc gia thuê nhiêù lao động nước ngoài.Theo ước tính hiện
có hơn 100000 lao động nước ngoài đang làm việc tại Brunei (gần bằng 1/3 dân số
của đất nước) khiến cho tình trạng thất nghiệp càng tăng cao
2. Phụ thuộc quá lớn vào dầu khí :
- Nền kinh tế của Brunei quá nhỏ bé.Công nghiệp nặng hầu như không phát
triển,công nghiệp nhẹ thi phát triển chậm chạp.cả một quốc gia mà không có một
khu công nghiệp lớn nào. Đất nước chỉ phát triển mạnh trong lĩnh vực dầu khí vì
thế cho nên sự phát triển kinh tế quá phụ thuộc vào ngành dầu khí. Một ngành mà
đóng góp tới 80% vào GDP thì chúng ta có thể biết được sự lệ thuộc lớn tới mức
nào.
3. Tệ quan liêu tham nhũng
- Do đặc thù của đất nước là theo chế độ gia đình trị với người có quyền lực cao
nhất là vua do đó không thể tránh khỏi sự chuyên quyền.Tệ quan lieu tham nhũng
đang là một vấn nạn với đất nước . Mới đây nhất là việc một hoàng thân của
Brunei tham nhũng tới gần 20 tỷ $ tiền dùng để đầu tư của quốc gia vào việc chi
tiêu dùng cá nhân
- Luật pháp của Brunei vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của các luật lệ hà khắc
của đạo hồi : đơn cử đàn ông Brunei có thể lấy được tới 4 vợ
4. Tài nguyên cạn kiệt
- Đã là tài nguyên thì không thể khai thác mãi được. Brunei hiện đang phải đối
mặt với vấn đề tài nguyên cạn kiệt
- Trong vòng vài thập kỉ tới thì trữ lượng dầu khí của Brunei sẽ cạn kiệt, nguồn
sống của quốc gia sẽ bị đe dọa
4.2 Định hướng phát triển
Đứng trước những khó khăn thách thức đó thì chính phủ Brunei đã đưa ra một
loạt các giải pháp trung hạn và dai hạn nhăm giải quyết các khó khăn thách thức đó
4.2.1. Phát triển nguồn nhân lực
Trong nền kinh tế tri thức, cạnh tranh cao, vấn đề phát triển nhân lực có vai trò
quyết định trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong phát
triển nguồn nhân lực, công tác giáo dục - đào tạo đóng vai trò quan trọng.
Để trang bị cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước, những kiến thức và kỹ
năng trong một thế giới hiện đại, Brunei, ngay từ năm 2007, đã đề ra một số định
hướng về chính sách giáo dục và đào tạo, nổi lên là:
• Tập trung đầu tư vào giáo dục mầm non
• Đầu tư nhiều hơn cho giáo dục phổ thông, chủ yếu là cấp II và III, kể cả các
trường chuyên nghiệp để đào tạo các chuyên gia, kỹ thuật viên có khả năng đáp
ứng nhu cầu mở rộng thương mại và phát triển công nghiệp
• Áp dụng công nghệ thông tin (ICT) trong các chương trình đào tạo học sinh và
sinh viên
• Đề xuất, thiết kế các chương trình đào tạo, tạo điều kiện, tiền đề cho hướng
học tập và nghiên cứu lâu dài, lên cao học
• Thúc đẩy công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) trong các trường Đại học,
các viện nghiên cứu được chính phủ đầu tư và thông qua mối liên kết giữa khu vực
công và tư và gia tăng hợp tác quốc tế
• Áp dụng những phương pháp giáo dục hiệu quả, tiên tiến nhất trong công tác
giảng dạy, học tập thông qua việc sử dụng khoa học, công nghệ và cải tiến công tác
quản lý các trường, các viện
• Nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên, những người làm công tác giảng
dạy.
Để triển khai định hướng trên, từ năm 2007, nhất là năm 2008 và 2009, Brunei
đã tiến hành cải cách toàn diện hệ thống giáo dục. Chương trình này được gọi là
"Hệ thống giáo dục Quốc gia cho thế kỷ XXI- SPN 21". Triển khai chương trình
này, Brunei tiến hành sửa đổi giáo trình, cả bậc đại học và phổ thông, hướng tới
đào tạo con người phát triển cả về trình độ và kỹ năng, đáp ứng nhu cầu của các
ngành, nghề cần thiết trong thế kỷ XXI. Theo chương trình cải cách này, ở cấp phổ
thông, nhà nước chủ trương thay thế các môn lịch sử và địa lý bằng các môn khoa
học xã hội với kiến thức tổng hợp, đan xen với các gía trị của Hồi giáo Mã-lai
như: khoa học, kinh doanh, kinh tế và xã hội học. Các môn khác như kịch, âm nhạc
cũng được đưa vào giáo trình giảng dạy làm thay đổi môi trường đào tạo, tạo sự
phấn khích, lòng tự tin và sự mạnh dạn của học sinh, sinh viên. Ở cấp bậc giáo dục
đại học, chủ trương của Brunei là giảm bớt các khoa, tập trung vào một số phân
khoa chính như kinh tế, quản trị kinh doanh, chính sách công, công nghệ thông tin,
thương mại và công nghiệp, đầu tư nhiều hơn cho ngành chế tạo và khoa học ứng
dụng. Đào tạo tại chức, kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng cho đội ngũ
công chức, chuyên gia cũng là một ưu tiên trong đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao
trình độ kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ giáo viên, những người làm công tác
giảng dạy, có tính chất quyết định đối với công tác đào tạo thế hệ tương lai. Đây
cũng là một hướng ưu tiên đầu tư của Brunei. Trong một chỉ thị có liên quan đến
giáo dục, Quốc Vương Brunei nêu rõ: " Điều tôi thực sự mong muốn ở một hệ
thống giáo dục là nó có thể đào tạo một cách thành công một thế hệ, những người
có tư duy sáng tạo - The Thinkers. Nếu thiếu lớp người đó, chúng ta sẽ thất bại
trong mọi lĩnh vực".
Bộ trưởng Giáo dục Brunei Haji Abdul Rahman nhấn mạnh: “ưu tiên của ngành
giáo dục Brunei là: (i) Xây dựng một nền giáo dục có chất lượng, (ii) Nâng cao
năng lực dạy và học và (iii) Xây dựng một hệ thống giáo dục có tính chuyên
nghiệp và tin cậy”.
Trong kế hoạch 5 năm 2007-1012, Brunei đã đầu tư lớn vào các dự án giáo dục và
đào tạo. Chính phủ đã đành 597,6 triệu USD cho 68 dự án thuộc lĩnh vực giáo dục
và đào tạo. Ngoài ra, Chính phủ còn đầu tư 214,5 triệu USD cho các dự án phát
triển nguồn nhân lực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học, công nghệ cho các
trường học và cơ sở nghiên cứu, kể cả việc cấp học bổng cho sinh viên ra nước
ngoài học tập, nghiên cứu.
4.2.2. Đa dạng hóa nền kinh tế
Do nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt vì vậy đa dạng hóa nền kinh tế
để thoát khỏi sự lệ thuộc quá lớn vào tài nguyên thiên nhiên là ưu tiên lớn nhất
trong định hướng phát triển kinh tế của Brunei
- Công nghiệp hồi giáo: Một trong những định hướng là phát triển ngành công
nghiệp Hồi giáo (Halal Industry) với thương hiệu Brunei. Liên tục trong 4 năm
qua, Brunei đã tổ chức hội chợ triển lãm sản phẩm Hồi giáo cùng với việc tổ chức
hội nghị quốc tế về sản phẩm Hồi giáo. Năm 2008, có 14 nước tham gia Hội chợ
này với chủ đề "Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường Hồi giáo". Thương hiệu
sản phẩm Hồi giáo được sản xuất, chế biến và đăng ký theo một quy trình rất
nghiêm ngặt nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn cao cho người tiêu dùng. Chính
phủ Brunei đã đầu từ hàng tỷ USD vào dự án này.
- Công nghiệp dầu khí: Đầu năm 2009, một tư duy mới xuất hiện, cho rằng, đa
dạng hóa kinh tế không có nghĩa là tách khỏi ngành dầu khí mà cần sử dụng danh
tiếng của Brunei, một nước sản xuất dầu khí, để phát triển chính ngành này. Theo
hướng này, Brunei đã đề ra kế hoạch triển khai một số dự án, chủ yếu là dịch vụ
dầu khí và hóa dầu như xây dựng nhà máy lọc dầu, khu công nghiệp khí hóa lỏng
methanol, khu chế xuất… với vốn đầu tư hàng tỷ USD và sự trợ giúp kỹ thuật từ
bên ngoài.
- Công nghệ nano: Ngoài hai hướng chủ yếu trên, Brunei tập trung phát triển
ngành công nghiệp nano với sự trợ giúp kỹ thuật của Nhật Bản. Thành tựu của
ngành công nghiệp này sẽ được ứng dụng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thực
phẩm và dược phẩm…
- Nông lâm ngư nghiệp: Nuôi trồng thủy sản cũng là một thế mạnh của Brunei.
Hiện nay, Brunei đang triển khai một số dự án nuôi trồng thủy sản với sự hợp tác
kỹ thuật của Đài Loan. Điển hình là dự án nuôi cá hồng để xuất sang thị trường
Trung Quốc. Dự tính, dự án này sản xuất khoảng 2.000 tấn cá/năm để xuất khẩu.
Để đảm bảo an ninh lương thực, Brunei đang triển khai dự án trồng lúa với sự trợ
giúp kỹ thuật của Philippines. Tại Hội nghị phát triển quốc gia lần thứ 8 (năm
2007), Brunei đặt mục tiêu đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, từng bước tự túc và
tiến tới tự túc một phần về lương thực trong 10 - 15 năm tới. Chính phủ Brunei dự
kiến đầu tư khoảng 50 triệu đô la Bru-nây (1,00 BND = 1,45 USD) cho dự án phát
triển nông nghiệp trong giai đoạn 2009-2015. Dự án được chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu từ 2009-2010, với vốn đầu tư 10 triệu đô la, phấn đấu đến 2010
đạt 5.800 tấn.
+ Giai đoạn hai từ 2011 - 2015, với vốn đầu tư 40 triệu đô la, phấn đấu đạt
18.000 tấn, đáp ứng 60% nhu cầu lương thực của Brunei (mỗi năm Brunei phải
nhập trên 30.000 tấn gạo, chủ yếu từ Thaí Lan).
- Hệ thống tài chính: Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 Brunei
dang trong quá trình khôi phục lại lĩnh vực này. Trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, Brunei đang triển khai một số dự án nhằm biến Brunei thành một trung tâm
tài chính Hồi giáo trong những năm tới.
4.2.3.Cải cách hành chính
Brunei đang trong quá trình cải cách mạnh mẽ đặc biệt là về luật pháp để có thể
tạo ra một môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài.
- Đưa ra các đạo luật về phòng chống tham nhũng đẩy lùi tệ quan liêu tiến tới
làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.
- Sau hơn hai thập niên bị xóa tên nghị viện Brunei chính thức được thành lập
trở lại đây là một tín hiệu mà Brunei muốn phát đi cho thế giới biết rằng họ
đang thực sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
III. Brunei và liên kết khu vực ASEAN
1. Khái quát quá trình tham gia vào ASEAN
- Sau khi dành được độc lập hoàn toàn thì vào ngày 8/1/1984 Brunei đã chính
thức trở thành thành viên thứ 6 của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN).
- Kể từ khi gia nhập vào ASEAN Brunei đã có một vị thế khác trên trường
quốc tế đồng thời Brunei cũng có nhiều đóng góp tích cức cho sự phát triển
của khối.
2. Các đóng góp của Brunei vào sự phát triển của ASEAN
2.1 Về kinh tế
- Tích cực tham gia vào các lĩnh vực kinh tế nội khối
+ Gia nhập vào khu vực mậu dịch tự do AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu
của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa
phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình
giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối
với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.
+ Tích cực tham gia và đóng góp vào các dự thảo để tiến tới tạo lập một nền
kinh tế chung của ASEAN
2.2 Về an ninh-chính trị
- Brunei có nhiều đóng góp cho an ninh khu vực:
+ Quân đội Brunei giúp quan sát lệnh ngừng bắn giữa chính phủ Philippines
và mặt trận Hồi giáo giải phóng Moro (một nhóm nổi dậy đấu tranh cho quyền tự
trị Hồi giáo) ở khu vực miền nam Philippines Mindanao , và Brunei cũng là một
thành viên của sứ mệnh giám sát hòa bình ở tỉnh Aceh của Indonesia.
- Về chính trị.
+ Tích cực tham gia vào quá trình thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2020
+ Tham gia vào các hoạt động chính trị lớn của khu vực : tổ chức Hội nghị Bộ
trưởng ASEAN và Diễn Đàn Khu VựcASEAN vào tháng 7,8/2002
2.3 Về đối ngoại
Tăng cường hợp tác với các đối tác chiến lược của khối để tăng cường sự hiểu
biết lẫn nhau không chỉ giới hạn với Brunei mà là cả khối ASEAN:
- Tháng 12/2002 ,Brunei đã kí Hiệp định thương mại và hiệp định khung về
đầu tư TIFA với Mỹ
- Tháng 8/2005 ,Brunei ký kết quan hệ đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPSEP) với Chile, New Zealand và Singapore
- Brunei đóng góp một cách tích cực cho sự phát triển các mối quan hệ thương
mại chặt chẽ hơn giữa ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Brunei
và Nhật Bản cũng đã tổ chức đàm phán về một thỏa thuận thương mại tự do
song phương (FTA)
IV. Quan hệ giữa Việt Nam và Brunei
1. Thiết lập quan hệ ngoại giao
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (29/2/1992), quan hệ hữu
nghị và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Brunei phát triển tốt đẹp.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, “mối quan hệ láng giềng,
hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Brunei trong thời gian qua có những bước phát
triển hết sức tốt đẹp, tuy nhiên quan hệ hợp tác về kinh tế vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng của mỗi nước. Hai bên cần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, khai thác và
chế biến dầu khí, hợp tác lao động, du lịch Việc hai nước tăng cường mối quan
hệ hợp tác toàn diện không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi nước mà còn
góp phần quan trọng vào việc xây dựng một ASEAN hòa bình, ổn định và vững
mạnh về mọi mặt.”
2. Hợp tác trên các lĩnh vực
2.1 Về chính trị
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (29/2/1992), quan hệ hữu
nghị và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Brunei phát triển tốt đẹp, đặc biệt
trong lĩnh vực chính trị.Đã có nhiều cuộc viếng thăm giữa lãnh đạo cấp cao hai
nước như: Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah đã thăm chính thức Việt Nam
(5/1998), dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 6 tại Hà Nội (12/1998); dự Hội nghị Cấp
cao ASEM5 tại Hà Nội (10/2004). Chủ tịch Trần Đức Lương cũng đã sang thăm
chính thức Brunei (11/2001); Thủ tướng Phan Văn Khải dự Hội nghị Cấp cao
ASEAN 7 tại Brunei (11/2001).
Hai bên cũng đã ký Hiệp định hợp tác Hàng không; Hiệp định Thương mại,
Hiệp định hợp tác Hàng hải, Bản ghi nhớ về hợp tác Du lịch, và Thỏa thuận hợp
tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Brunei. Tháng 11/2005,
hai bên đã ký bản hoà thuận về hợp tác quốc phòng. Quan hệ hợp tác giữa hai nước
trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thể thao cũng đang được thúc đẩy.
2.2. Về hợp tác kinh tế
Quan hệ thương mại và đầu tư giữa 2 nước đạt ở mức rất thấp, chưa tương xứng
với quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước. Kim ngạch buôn bán hai chiều năm
Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang Brunei đạt gần 7,7 triệu USD, Việt Nam
nhập khẩu hơn 1,6 triệu USD. Đến năm 2010, Việt Nam xuất khẩu sang Bru-nây
đạt hơn 10 triệu USD và nhập khẩu đạt hơn 14 triệu USD.
Kim ngạch buôn bán hàng năm với Việt Nam trong 3 năm qua
(Đơn vị tính : USD)
Năm Việt Nam xuất Việt Nam nhập Tổng KN
2008 4,491,596 1,497,790 5,989,386
2009 7,689,674 1,645,874 9,335,548
2010 10,006,281 14,235,233 24,241,515
- Các mặt hàng nhập khẩu chính: 6 tháng đầu năm 2011 (USD)
BRUNEI Giá trị (USD)
Hoá Chất 3,376,712
Vải các loại 662,060
Xơ, sợi dệt các loại 174,883
- Các mặt hàng xuất khẩu chính: 6 tháng đầu năm 2011 (USD)
BRUNEI
Giá trị
(USD)
Gạo 4,706,065
Hàng thủy sản 973,930
Sản phẩm hóa chất 123,042
Sản phẩm từ sắt thép 43,424
- FDI đầu tư vào Việt Nam : Về đầu tư, tính đến tháng 6/2011, Brunei có 118 dự
án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn 4.78 tỷ USD, đứng thứ 4 trong ASEAN và
thứ 12 trong tổng số 89 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó riêng
dự án Khu du lịch liên hợp cao cấp New City-Thành phố xanh bên bờ cát trắng tại
Phú Yên lên tới 4,3 tỉ USD (thông qua nhà đầu tư thứ ba).
6 tháng đầu năm 2011, Brunei có thêm 04 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng
ký 33.03 triệu USD
Hàng năm, Brunei cấp cho ta một số học bổng đào tạo về dầu khí, tiếng Anh
và bảo dưỡng máy bay.
2.3. Quân sự