Nâng cao việc hiệu quả vận dụng quy chế
huy động và sử dụng vốn trong các tập
đoàn kinh tế, các công ty Nhà nước
Bài viết nghiên cứu quá trình vận hành quy chế quản lý tài chính
mới về huy động và sử dụng vốn trong thời gian qua tại các tổng
công ty Nhà nước, các tập đoàn kinh tế (TĐKT) hoạt động theo
mô hình công ty mẹ – công ty con. Đây là mô hình tổ chức mới
được áp dụng trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi các doanh
nghiệp Nhà nước theo hướng kinh tế thị trường. Bài viết phân
tích và nhận dạng các vấn đề nảy sinh, tìm nguyên nhân và đề
xuất một số ý kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả khi áp
dụng quy chế quản lý tài chính về huy động và sử dụng vốn trong
các TĐKT, các tông công ty Nhà nước.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quy mô vốn của
doanh nghiệp (DN) phụ thuộc vào cơ chế cấp phát vốn của Ngân
sách Nhà nước (NSNN) và DN không phát huy được tính chủ
động sáng tạo trong việc huy động vốn. Các Liên hiệp xí nghiệp
quốc doanh, các tổng công ty (TCT) và DN trong thời kỳ trước khi
có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước được quản lý theo
quy chế này.
- Trong môi trường có sự điều tiết của Chính phủ; có sự mở rộng
hơn các kênh thu hút vốn cho DN và đa dạng hóa các hình thức
huy động vốn với các công cụ tài chính khác nhau. Tuy nhiên,
các DN phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của Chính phủ và bị
kiểm soát tương đối chặt chẽ của các cơ quan chức năng của
Chính phủ như Bộ Tài Chính, Ngân hàng thương mại, Ủy ban
chứng khoán Nhà nước, cơ quan kiểm toán, cơ quan chủ quản...
Hoạt động huy động vốn của DN bị kiểm soát một số mặt như:
phương thức huy động vốn, công cụ tài chính và cơ chế báo cáo.
- Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, hoàn toàn dựa vào các
động lực kinh tế và cung cầu về vốn trên thị trường để định
hướng cho các DN trong quá trình thu hút các nguồn tài chính
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Một xu thế đang nôi lên là quá trình
phi điều tiết háo đối với hoạt động thu hút tài chính của các DN.
Nhìn chung, hiện nay hầu hết các nước công nghiệp phát triển
đang áp dụng phổ biến mô hình này. Tuy nhiên, mức độ tự do
hóa và kiểm soát của Chính phủ ở các quốc gia khác nhau có
những sắc thái khác nhau.
Như vậy, mức độ phi điều tiết trong quy chế huy động vốn phụ
thuộc vào một số yếu tố cụ thể của mỗi nền kinh tế: hệ thống tài
chính và thị trường tài chính; hệ thống luật phát và vai trò can
thiệp vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Hiện nay Nhà nước cho phép các TCT Nhà nước, các TĐKT
được tự chủ động, linh hoạt trong quá trình huy động vốn nhưng
không được phép làm thay đổi hình thức sở hữu. Theo điều 17
của Luật DN Nhà nước thì công ty Nhà nước có thể: huy động
vốn để kinh doanh dưới hình thức phát hành trái phiếu, tín phiếu,
kỳ phiếu công ty; vay vốn các tổ chức ngân hàng, tín dụng và các
tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài công ty; vay
vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác theo
quy định của pháp luật. Việc huy động vốn để kinh doanh thực
hiện theo nguyên tắc tựu chịu trách nhiệm hoàn trả, đảm bảo hiệu
quả sử dụng vốn huy động, không được làm thay đổi hình thức
sở hữu công ty.
Mục tiêu của công tác huy động và sử dụng vốn là không ngừng
mở rộng quy mô vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của tập
đoàn (TĐ), TCT – một tiền đề cơ bản để tồn tại và phát triển trong
môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Đổi mới quy chế huy
động và sử dụng vốn còn nhằm khuyến khích các TĐ, các TCT
nâng cao khả năng tích tụ vốn, đầu tư từ chính kết quả hoạt động
của mình, đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, từ đó nâng
cao hiệu quả đồng vốn, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị
mà Đảng và Nhà nước giao.
Thực trạng tình hình huy động và sử dụng vốn ở các TĐKT,
các TCT Nhà nước khi áp dụng quy chế mới.
Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ban hành kèm theo quy chế quản
lý tài chính của TCT Nhà nước hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con bước đầu đã cho thấy nhiều ưu điểm:
Một là, cơ chế quản lý tài chính hiện nay đã xác lập quyền sở
hữu và quyền sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước tại TCT,
đồng thời tạo quyền chủ động trong việc huy động vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh (SXKD) của TCT. Hiện nay, với việc quy
định rõ vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, cơ chế quản lý tài
chính đã cơ bản giải quyết được vấn đề giao vốn, quản lý và sử
dụng vốn, tài sản Nhà nước tại TCT (công ty mẹ) và các Công ty
con.
Cơ chế quản lý tài chính đã tạo điều kiện để Công ty mẹ và các
Công ty con huy động vốn phụ vụ nhu cầu của SXKD bằng nhiều
hình thức khác nhau. Huy động vốn bằng hình thức vay của các
ngân hàng thương mại mà không phải thế chấp tài sản đã tạo
điều kiện thuận lợi cho TCT rất nhiều. Trong những năm qua, các
TĐKT, các TCT đã khai thác và cân đối nguồn vốn đảm bảo nhu
cầu SXKD và đầu tư sản xuất cơ bản, mua sắm trang thiết bị, bổ
sung vốn lưu động cho các công ty con, giải quyết khó khăn về
vốn cho các công ty mới thành lập hoặc mới sáp nhập, góp phần
đảm bảo tính cân đối trong TĐ, TCT.
Hai là, cơ chế huy động vốn và sử dụng đã thúc đẩy sự đổi mới
và hiện đại hóa các trang thiết bị trong toàn ngành. Dựa vào đó
mới khai thách, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng và
nâng cao năng lực cạnh tranh của TĐ, và TCT.
Ba là, cơ chế về thu sử dụng vốn đổi mới đã tạo nguồn đầu tư để
lại cho TĐ, TCT, tháo gỡ một phàn khó khăn về vốn cho TĐ,
TCT.
Bốn là, chế độ khấu hao TSCĐ đã có sự đổi mới rõ rệt, nguyên
tắc tinh khấu hao phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ
đã từng bước khuyến khích thực hiện phương pháp khấu hao
nhanh để tại điều kiện hiện đại hóa và đổi mới công nghệ. Chế độ
khấu hao TSCĐ đã tạo điều kiện cho TCT thực hiện việc bảo toàn
và phát triển vốn kinh doanh, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
mình đối với Nhà nước về hoạt động quản lý tài sản.
Bên cạnh những tác động tích cực cơ chế huy động và sử dụng
vốn hiện nay của các TĐ kinh tế, các TCT còn có nhiều mặt hạn
chế:
Một là: cơ chế huy động và sử dụng vốn chưa phát huy được hết
tính chủ động, sáng tạo của các công ty con: Việc phân cấp, phân
quyền, nhất là quyền đầu tư, mua sắm, nhượng bán, cho thuê
hoặc thế chấp, cầm cố tài sản để đi vay hoặc cho vay, cho nợ...
vẫn chưa được thiết lập cụ thể từ Thủ trưởng đơn vị quyết định
thành lập cho đến Hội đồng quản trị và Giám đốc các công ty con.
Vì lẽ đó, luôn có tính trạng đưa lên cấp trên chờ phê duyệt hoặc
cấp trên ủy quyền một cách hình thức cho cấp dưới, gây khó
khăn lúng túng cho các công ty. Quyết định kinh doanh của các
công ty đôi khi vì thế mà bị chậm, bị động.
Hai là: cơ chế điều hòa vốn của trong toàn TĐ, TCT chưa được
xác định một cách rõ ràng, đầy đủ. Cái khó là ở chỗ việc điều hòa
vốn và tài sản phải làm sao cho có hiệu quản nhất. Trên thực tế,
việc điều hòa vốn của TĐ, TCT chưa được đặt trên nguyên tắc
nhất định. TĐ, TCT áp dụng cách thức điều hòa vốn theo phương
thức ghi tăng, ghi giảm vốn là chưa hiệu quả. Lý do là trong cơ
chế thị trường từng công ty con lúc này thiếu vốn nhưng lúc khác
lại thừa vốn cho SXKD, vì vậy, nếu điều động vốn từ đơn vị thừa
vốn sang đơn vị thiếu vốn sẽ phải ghi tăng, ghi giảm vốn một
cách thường xuyên, điều này là bất cập và không hiệu quả.
Ba là: tổ chức thực hiện cơ chế huy động vốn còn hạn chế do
nhiều nguyên nhân chủ quan. Cơ chế hoạt độn huy động vốn từ
nội bộ còn rất khiêm tốn trong khi khả năng có thể huy động được
nhiều hơn nữa cho SXKD do thủ tục rườm rà, cứng nhắc, hạn
mức cho vay thấp, không đảm bảo vốn cho các dự án đúng tiến
độ, thời hạn thanh toán ngắn, đôi khi các khoản vay giữa các
công ty không thực sự tự nguyện mà do sức ép của Công ty mẹ.
Ngoài việc huy động các nguồn lực trong nước, hiện Công ty mẹ
chưa được phép huy động vốn trực tiếp từ các nguồn vốn từ
nước ngoài. Các dự án của TCT đang thực hiện do TCT không
được trực tiếp ký kết các hợp đồng tín dụng nên rất khó khăn
trong việc huy động vốn thực hiện dự án. TCT muốn có được các