Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đặc tính tâm lí và phương pháp khắc phục của bệnh trphụ nữtrẻ emầm cảm ở phụ nữ và trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.76 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN – TÂY HỒ
**************

ĐỀ TÀI DỰ THI KHOA HỌC, KĨ THUẬT DÀNH
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CẤP THÀNH PHỐ
LẦN THỨ TƯ ( NĂM HỌC 2014 – 2015 )

Tên đề tài: ĐẶC TÍNH TÂM LÍ VÀ PHƯƠNG PHÁP KHẮC PHỤC CỦA
BỆNH TRẦM CẢM Ở PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM.
Lĩnh vực: Khoa học xã hội – hành vi.

NGƯỜI HƯỚNG DẪN
TS. Nguyễn Tùng Lâm
GV. Đỗ Thị Hoàng Anh

TÁC GIẢ
Nguyễn Nguyệt Linh

Lớp: 10D2 - Trường THPT
Chu Văn An

Hà Nội , tháng 12 năm 2014


2

Mục lục
I, Lí do lựa chọn đề tài:
1. Lí do chủ quan:
2. Lí do khách quan:


II, Tổng quan vấn đề và điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
1. Tổng quan vấn đề:
a. Khái niệm và lí thuyết vấn đề:
b. Thực trạng vấn đề:
2. Điểm mới tính sáng tạo của đề tài:
III, Quá trình nghiên cứu và kết quả:
1. Nguyên nhân và biểu hiện:
2. Các hình thái biểu hiện lâm sàng của bệnh:
3. Phương pháp chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân:
3.1:Tổng quan phương pháp:
3.2: Áp dụng trường hợp cụ thể ở đối tượng nghiên cứu:
4. Tổng kết kinh nghiệm cả nhân của người viết:
a. Áp dụng đối với phụ nữ:
b. Áp dụng đối với các bận phụ huynh:
5. Hướng phát triển của đề tài:
IV, Kết luận:
Tài liệu tham khảo

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 24
Trang 25


3


I, Lí do lựa chọn đề tài:
1. Lí do chủ quan:
- Tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu về đặc tính tâm lí và phương pháp khắc phục của
bệnh trầm cảm ở phụ nữ và trẻ em là bởi tôi có một hứng thú đặc biệt trong việc
tìm hiểu về những vấn đề liên quan tới tâm lí, thứ hai là hai đối tượng mà tơi đang
hướng tới trong đó có mẹ và em gái tơi.
- Việc phải chứng kiến cả quá trình tiến triển của căn bệnh từ mẹ và em gái với tơi
đó là cả nỗi đau đớn khi bản thân lại chẳng thể làm gì cho chính những người mà
mình thương u nhất. Tơi khơng phải là một bác sĩ, tôi chỉ là một học sinh lớp 10
tôi không thể dùng những phương pháp đặc hiệu của một bác sĩ tâm lí nhưng tơi có
thể dùng phương pháp của riêng mình để giúp đỡ mẹ và em. Và đó chính là động
lực duy nhất và mạnh nhất đối với tôi lúc này để tôi đi đến quyết định là sẽ làm đề
tài nghiên cứu về căn bệnh trầm cảm để tìm ra những phương pháp điều trị hữu
hiệu nhất để giúp mẹ và em mau chóng bình phục.
- Bài nghiên cứu này chính là cây cầu để tơi có thể kết nối với mẹ với em gái, kết
nối với những tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của họ, với cuộc sống khép kín của họ.
2. Lí do khách quan:
- Hiện nay, xã hội càng phát triển thì số lượng người mắc bệnh trầm cảm càng tăng
rõ rệt, càng ngày càng có nhiều người ở mọi lứa tuổi mắc chứng rối loạn trầm cảm
và số người chết do tự tử ở người bệnh trầm cảm đã lên tới 15%. Đây cũng chính
là một trong những lí do dẫn đến việc tôi lựa chọn đề tài này.
- Tôi muốn bài nghiên cứu này cũng có thể giúp tơi kết nối với mọi phụ nữ và trẻ
em trên toàn Việt Nam, trên toàn thế giới - giống như một lời gửi gắm, một lời
khuyên chân thành . Những người phụ nữ, những đứa trẻ nhỏ, họ có thể là một
người bình thường nhưng cũng có thể là một bệnh nhân trầm cảm rất cần sự giúp
đỡ. Tôi thực hiện đề tài này với mong ước đóng góp một phần nhỏ của mình để
giúp đỡ cho những người phụ nữ những em nhỏ để họ có cuộc sống khỏe sống tốt,
biết trở thành những người phụ nữ hạnh phúc và thành đạt, trở thành những ơng bố
bà mẹ lí tưởng ln sát cánh bên con, bảo vệ con nhưng không áp lực khơng kìm
kẹp, v.v… Bài nghiên cứu này sẽ là một đóng góp nhỏ cho việc định hướng điều

trị, giúp đỡ những người bị bệnh trầm cảm.


4

II, Tổng quan vấn đề và điểm mới, tính sáng tạo của đề tài:
1. Tổng quan vấn đề:
a. Lí thuyết và khái niệm vấn đề:
- Các rối loạn tâm thần rất phổ biến và đa dạng, trong số gần 300 loại rối loạn tâm
thần thì các rối loạn liên quan tới Stress có số người mắc nhiều nhất. Và trong số
rối loạn liên quan đến Stress thì rối loạn trầm cảm là vấn đề càng ngày càng phổ
biến, cần được phát hiện và điều trị. Trầm cảm là một trạng thái cảm xúc buồn rầu,
chán nản khác với phản ứng buồn chán nhất thời của người bình thường. Trầm cảm
có nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh phức tạp, biểu hiện lâm sàng triệu chứng đặc
trưng về tâm thần là giảm khí sắc và kèm theo nhiều triệu chứng về cơ thể.
b. Thực trạng vấn đề:
- Ngày nay trầm cảm gặp ở mọi lứa tuổi, nhìn chung phụ nữ bị trầm cảm nhiều hơn
nam giới từ 2-3 lần, số người bị mắc bệnh trầm cảm ngày càng gia tăng. Ngoài ra
trầm cảm còn là nguyên nhân hàng đầu gây ra tự sát. Khoảng 75% các trường hợp
tự sát là do trầm cảm và cần nhớ rằng 15% số người bị mắc bệnh trầm cảm sẽ chết
vì tự sát. Nhưng do chưa có sự hiểu biết về trầm cảm nên bệnh nhân thường bị
chuẩn đốn sai, dẫn đến điều trị khơng hiệu quả hoặc người mắc bệnh trầm cảm
hay đến với các chuyên khoa khác và dễ bị bỏ sót chẩn đốn.
2. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài:
- Ở các bài nghiên cứu đã có các tác giả chưa đề cập kĩ về căn bệnh này mà chỉ
dừng lại ở phạm vi rối loạn cảm xúc, đối tượng và phạm vi nghiên cứu cũng rất
rộng, chính vì vậy mà những nguyên nhân, biểu hiện của trầm cảm được đề cập
đến chỉ mang tính khách quan. Ở bài nghiên cứu của tôi, đối tượng và phạm vi chỉ
chú trọng vào cô Nguyễn Minh Nguyệt và em Nguyễn Nguyệt Anh, vừa có sự học
hỏi từ các bản đã có nhưng cịn có sự đi sâu hơn vào tâm lí, phản ứng của từng đối

tượng nghiên cứu, từ đó rút ra các nguyên nhân, biểu hiện của căn bệnh ở cả hai
phương diện là chủ quan và khách quan. Về phần phương pháp điều trị, các tác giả
chỉ dừng lại ở các phương pháp chung nhất phù hợp với mọi đối tượng nhưng
trong bản nghiên cứu của tơi khơng chỉ có các phương pháp điều trị chung nhất
cho mọi đối tượng mà còn từ quan sát, kinh nghiệm của bản thân để tự đưa ra
những phương pháp điều trị theo quan điểm của riêng mình, đồng thời kếp hợp với
sự can thiệp của yếu tố tình cảm và tâm lí gia đình.


5

III, Quá trình nghiên cứu và kết quả:
1. Nguyên nhân và biểu hiện của bệnh trầm cảm:
1.1 : Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu từ các bản nghiên cứu đã có, đồng thời thực hiện bảng quan sát sinh thái
đối với từng đối tượng nghiên cứu, từ đó thu được các nguyên nhân và biểu hiện
của bệnh trầm cảm như dưới đây:
1.2 : Nguyên nhân dẫn đến căn bệnh trầm cảm:
- Trầm cảm có nhiều nguyên nhân phức tạp, các yếu tố đan xen, cộng dồn lại… và
bùng phát khi có sự cố bất lợi nào đó.
a. Nguyên nhân trầm cảm được chia làm 3 loại:
+ Trầm cảm phản ứng: là trầm cảm xuất hiện sau sự cố sang chấn, căng thẳng kéo
dài.
* Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh trầm cảm của cô
Nguyễn Minh Nguyệt. Cô chia sẻ rằng: “ Tôi là một người phụ nữ nhưng lại phải
gánh vác hết mọi công việc lớn nhỏ trong gia đình cộng hưởng với áp lực cơng
việc quá lớn nhưng lại không nhận được sự giúp đỡ đồng hành của người chồng –
người bạn đời của mình. Hơn nữa ngay cả khi tôi mang thai hai đứa con, từ lúc
mang thai cho đến lúc đẻ rồi nuôi nấng đều rất vất vả vì các con bẩm sinh thể lực
vô cùng yếu, hay ốm đau bệnh tật khiến tôi vô cùng mệt mỏi, đã áp lực nay lại

càng áp lực hơn nhưng tôi cũng không nhận được sự giúp đỡ động viên từ chồng.
Người ta hay nói nhàn cư vi bất thiện, do mọi việc đều do tôi gánh vác nên chồng
sinh ra cái tính rượu chè, khơng có chí tiến thủ làm ăn, đầu óc do bia rượu chi phối
mà không được minh mẫn dấn đến những hành động, lời nói xúc phạm nặng nề
đến nhân phẩm của tơi. Mỗi lần bị như thế tơi đều có những suy nghĩ ấm ức, ức
chế nhưng lại không thể nói ra, cộng hưởng với những cơn dau nhói ở tim, trống
ngực, cảm thấy không thể thở nổi và thần kinh thì căng thẳng cực độ. Rồi tơi thành
ra khơng ăn được, không ngủ được liền ốm”.
=> Chốt lại trường hợp của cơ Nguyễn Minh Nguyệt đó chính là sự căng thẳng áp
lực kéo dài kết hợp với tình trạng khơng có người cùng sẻ chia, đồng cảm nên sinh
ra trầm cảm .
* Xét trường hợp của cô NT. Ngọc: Lúc lấy chồng và sinh con thì mẹ chồng lại vô
cùng khắc nghiệt, tước đi quyền nuôi con của cô, không cho phép cô lại gần con và


6
khơng để cơ được cho chăm sóc được cho con bú dù cơ khơng hề bị bệnh gì kể cả
về thể lực lẫn tâm thần. Cùng lúc đó, cơ lại biết tin chồng mình ngoại tình và đã có
con riêng bên ngoài. Tất cả những ấm ức, áp lực, đau đớn dồn nén dẫn đến việc cô
bị bệnh trầm cảm và đã có hành vi tự sát như: chuẩn bị nhảy cầu Long Biên nhưng
may mắn là có người tốt cứu giúp nhưng một thời gian sau thì xuất hiện hành vi
rạch cổ tay nhưng gia đình nhanh chóng phát hiện ra và đưa đi cấp cứu.
=> Đây là tình trạng bệnh trầm cảm nặng vì đã có những hành vi tự sát chứ khơng
đơn thuần chỉ là có ý tưởng tự sát.
+ Trầm cảm thực tổn: là trầm cảm xuất hiện trên nền tảng có tổn thương ở não
hoặc các bệnh lí cơ thể ngồi não, ảnh hưởng đén chức năng hoạt động của não.
+ Trầm cảm nội sinh: là trầm cảm do mất cân bằng các chất dẫn truyền thần kinh
cảm xúc, các amin sinh học như serotonin, noradrenalin, dopamine.
b. Yếu tố di truyền: các nghiên cứ gia đình cho thấy, 50% số bệnh nhân rối loạn
cảm xúc có ít nhất một người cha hoặc mẹ mắc rối loạn cảm xúc thường là trầm

cảm.
* Đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chứng trầm cảm lầm sàng ở
em Nguyễn Nguyệt Anh. Trong thời kì mang thai, không nên để cho mẹ của bé bị
ảnh hưởng bởi các căng thẳng hay stress quá mức hoặc nổi nóng, tức giận vì nó sẽ
ảnh hưởng đến thai nhi khiến bé sợ hãi, tác động xấu đến thể lực và tâm lí của bé
khi sinh ra. Nhưng trong thời kì mang thai em, cơ Nguyệt Minh Nguyệt đã chịu
những áp lực vô cùng lớn từ công việc cho đến gia đình lại khơng có sự chia sẻ
giúp đỡ từ chồng.
=> Ảnh hưởng đến tâm lí của cả mẹ và bé từ đó cho đến khi lớn lên phải chứng
kiến những cảnh ba mẹ cãi vã to tiếng với nhau, hoặc những trách mắng nho nhỏ từ
phía ba mẹ hay cơ giáo trên lớp cũng khiến em có những phản ứng kích động như
khóc lớn, nơn khan.
* Xét lại trường hợp của cơ NT. Ngọc: Trong gia đình cơ, từ cụ ngoại đã
xuất hiện những hành vi lệch chuẩn qua các hành động kích động như vác gậy
đánh con cháu mà khơng vì lí do gì( trầm cảm loạn khí sắc ), tiếp tục đến cha của
cô là ông NX. Dần đã có tình trạng trầm cảm sững sờvà ln ln có hành vi tự sát
như rạch cổ tay, đến khi được đưa vào bệnh viện thì cũng tìm đủ mọi cách để tự tử


7
nhưng ngay sau đó thì ơng đột nhiên bị tai biến và chết vào một khoảng thời gian
sau đó, đến anh của cô là NX. Tùng cũng xuất hiện những biểu hiện của việc kích
động khó kiểm sốt được hành động hoặc cơn tức giận của mình( trầm cảm loạn
khí sắc) và đến cháu của cơ là NX. Vũ thì có tình trạng tự kỉ trong giao tiếp, ít nói
khơng giao lưu với người ngoài ( chứng trầm cảm lâm sàng ở trẻ em).
=> Có thể coi đây là do gen di truyền từ đời trước tới các con, các cháu.
* Nhưng kết hợp với phần trầm cảm phản ứngthì ta thấy ở đối tượng NT. Ngọc
xuất hiện hai nguyên nhân từ các tác động của môi trường và từ trong gen di truyền
của gia đình. Có thể nói về mặt gen di truyền thì nó đã tiềm ẩn sẵn trong con người
và khi bị tác động từ các tác nhân tiêu cực ngồi mơi trường thì góp phần khiến

cho những tiềm ẩn đó bùng phát trở thành trầm cảm nặng.
c. Cơ chế dẫn chuyền thần kinh: Theo giả thuyết này các nhà nghiên cứu cho
thấy có tổn thương hệ thống dẫn truyền thần kinh ở các vùng khác nhau của não
gây ra các rối loạn trầm cảm.
d. Giả thuyết về nor-epinephrin, giả thuyết vầ dopamine: Theo tác giả Blows,
serotonin và noradrenaline ảnh hưởng rát lớn đến hành vi về tâm thần, trong khi đó
dopamine chỉ ảnh hưởng đến vận động.
e. Nhân cách, các sự kiện cuộc sống ( Stress): Bệnh nhân trầm cảm thường trải
qua các stress mạnh trong thời gian trước đó. Người ta cho rằng, stress có thể là
nguyên nhân hoặc yếu tố thúc đấy giai đoạn trầm cảm nhẹ, hoặc làm trầm trọng
thêm các yếu tố trầm cảm nặng.
* Ở phần này thì cả hai đối tượng cô Nguyễn Minh Nguyệt và cô NT. Ngọc đều
xuất hiện tình trạng bị stress mạnh trong khoảng thời gian trước đó và dẫn tới việc
từ trầm cảm nhẹ sang vừa ở cô Nguyễn Minh Nguyệt và từ trầm cảm vừa sang
nặng ở cô NT. Ngọc.
f. Các yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỉ lệ mắc trầm cảm:
+ Các bệnh mãn tính như: Bệnh tuyến giáp, bệnh tiểu đường, đau mạn tính, đột
quỵ, suy timvà các bệnh thần kinh khác, rối loạn giấc ngủ và mất ngủ.
+ Các yếu tố cá nhân: ở phụ nữ: Các yếu tố nội tiết : Kinh nguyệt, tiền mãn kinh và
mãn kinh, mang thai và sinh sản
(Đối với nam giới: do nam giới hay sử dụng rượu làm phương thức che dấu tình trạng trầm cảm
của mình nên sinh ra tình trạng làm dụng rượu, các chất gây nghiên hoặc các hành vi bốc đồng,
dẫn đến số liệu thống kê ít hơn sơ với tình trạng trầm cảm thực tế.)


8
+ Các yếu tố hành vi:
* Hút thuốc lá: đối với những người dễ bị trầm cảm có nguy cơ đối mặt với 25%
trở nên nhàm chán sau khi bỏ hút, hoặc những người có tiền sử bị trầm cảm được
khuyến cáo là không nên tiếp tục dùng thuốc lá vì họ khơng có khả năng cai thuốc

( khoảng 6% cai thuốc thành cơng sau 1 năm), hơn nữa cịn phải theo dõi sát về sự
tái phát trầm cảm sau khi họ ngừng hút thuốc.
* Áp lực công việc: công việc căng thẳng, làm quá sức quá thời gian, môi trường
làm việc không tốt, quan hệ xã hội không được thuận lợi, lương tháng thưởng phạt,
hoặc phải đối mặt với vấn đề có nguy cơ bị mất việc,… Đều là nguyên nhân của
stress, tái diễn nhiều lần sẽ dẫn đến trầm cảm.
* Yếu tố về thu nhập gia đình: theo nghiên cứu của Laura A. Pratt và Debro J.
Brody cho thấy những người có thu nhập ở mức nghèo có nguy cơ bị mắc trầm
cảm nhiều hơn những người có thu nhập cao hơn.
* Yếu tố tâm lí: những người tâm lí nhạy cảm, ít bạn bè, sống nội tâm, có khả năng
chịu stress yếu thường dễ có khả năng bị trầm cảm.
1.3 : Biểu hiện của bệnh trầm cảm ở người trưởng thành:
a. Các triệu chứng đặc trưng:
- Cảm thấy mệt mỏi uể oải, giảm năng lượng đặc biệt là về buổi sáng, buổi chiều
có đỡ hơn nhưng vẫn cịn rõ rệt.
- Mất mọi quan tâm, thích thú trong sinh hoạt, cơng việc hoặc giải trí : Các sở thích
trước đây đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Khí sắc giảm: cảm giác buồn rầu, hoặc bực bội, khó chịu, ln có cảm giác buồn
bã với tất cả mọi việc, ln cáu gắt với mọi người vì những chuyện rất nhỏ.
b. Các triệu chứng phổ biến khác:
- Chán ăn, ăn khơng ngon, từ đó dẫn đến gầy sút, có thể sút 1kg/tháng.
- Ln có ý nghĩ chán nản, bng xi mọi thứ, cho mình là vơ dụng.
- Thường xun có các rối loạn: như đau đầu, đau bụng, đau ngực, đánh trống
ngực, đau cơ, ra nhiều mồ hôi…
- Cảm thấy lời nói của bị ức chế.
- Ham muốn tình dục có triệu chứng giảm sút hoặc gần như khơng cịn cảm giác.
- Tình trạng khó đi vào giấc ngủ, đang ngủ thì tỉnh dậy sau đó rất khó ngủ lại và


9

thức rất sớm hoặc lờ mờ ngủ nhiều hơn bình thường.Hoặc khi ngủ, tình trạng gặp
phải ác mộng rất nhiều lần và liên tục.
- Khó khăn khi tập trung vào một việc gì đó: như đọc sách, nghe giảng, xem ti-vi...
không thể tập trung chú ý vào một việc cụ thể, do đó khơng thể ghi nhớ được ,khó
có thể ngồi yên một chỗ được một lúc, luôn trong tâm trạng lo lắng vô cớ với
những lý do không đâu.
* Đối với cô Nguyễn Minh Nguyệt: xuất hiện hai biểu hiện đặc trưng đầu tiên là
cảm thấy mệt mỏi uể oải, giảm năng lượng và khí sắc giảm, điều này thể hiện vô
cùng rõ qua trạng thái trong khoảng thời gian làm việc thì cơ ln phả dừng lại để
nghỉ ngơi liên tục, hoặc khi sáng thức giấc sẽ thấy cơ thể mệt mỏi, đầu choáng
váng khi ngồi dậy và thường xuyên dễ dàng cáu gắt với mọi người dù những sự
việc đó là vơ cùng nhỏ.
1.4 : Các dấu hiệu thường gặp đối với trầm cảm ở trẻ em:
- Buồn rầu, khóc lóc, tuyệt vọng trường diễn, quá nhạy cảm khi bị từ chối,thất bại.
- Khó chịu, bực bội hay giận dữ ngày càng gia tăng.
- Khơng nhiệt tình, năng nổ, uể oải, mệt mỏi mạn tính, hay đổi lớn trong thói quen
ăn uống, ngủ nghỉ (ví dụ sụt cân mạnh, mất ngủ).
- Khó khăn trong xây dựng các mối quan hệ xã hội.
- Thường xuyên phàn nàn về sức khỏe như đau đầu, đau dạ dày.
- Thường xuyên bỏ học hoặc học kém, không quyết đốn, thiếu khả năng tập trung,
hay qn, nói về chuyện bỏ nhà hay đã tìm cách bỏ nhà.
- Thường xuyên nghĩ về cái chết hay có ý định tự tử, tự hủy hoại cơ thể.
- Cơ lập, thu mình khỏi các hoạt động từng được ưa chuộng, khơng nhiệt tình, năng
nổ, tự ti, mặc cảm tội lỗi quá mức.
* Trong trường hợp của em Nguyễn Nguyệt Anh thì xuất các biểu hiện:
- Cơ lập, thu mình khỏi các hoạt động từng được ưa chuộng.
- Khó chịu, bực bội hay giận dữ ngày càng gia tăng.
- Khơng nhiệt tình, năng nổ.
- Q nhạy cảm khi bị từ chối hay thất bại.
- Khó khăn trong xây dựng các mối quan hệ xã hội.

- Khơng quyết đốn, thiếu khả năng tập trung, hay quên.
- Tự ti, mặc cảm tội lỗi quá mức.


10
- Trường hợp của em Nguyễn Nguyệt Anh, căn bệnh trầm cảm này có thể coi là
do yếu tố di truyền như tôi đã đề cập ở trên nhưng cũng phần nào kết hợp với lí do
là từ suy nghĩ của mẹ em: khơng cho em ra ngồi vì thể lực và tâm thần của em rất
yếu. Đây là sự bảo vệ đương nhiên vô cùng tốt nhưng đồng thời nó cũng tạo ra sự
cách li cuộc sống bên ngồi đối với em.Từ đó tạo cho em suy nghĩ về sự khơng tồn
tại của thế giới bên ngồi hoặc những tiêu cực, tệ nạn đáng sợ đến từ môi
trường.Từ những suy nghĩ đó khiến em bị thụt lùi trong sự cố gắng phát triển nhận
thức, khơng cịn mong muốn được ra ngồi để tìm hiểu về thế giới xung quanh, thu
hẹp chính mình. Dù có được sự khen thưởng khuyến khích kịp thời nhưng do
những suy nghĩ đã có sẵn từ trước nên trong em vẫn có xuất hiện những cảm giác
tự ti và các mối quan hệ trong phạm vi rộng ra ngồi mơi trường, bạn bè cũng bị
thu hẹp rất nhiều. Như ngày đâu tiên em đi học giữa giờ ra chơi ngày hơm đó em
đã khóc và đi khắp sân trường để tìm mẹ và khơng chịu đi học trong nhữn buổi tiếp
theo nên mẹ em đã phải đứng xếp hàng cùng em trong vòng 1 tháng. Em xuất hiện
những phản ửng chống đối với thầy cô giáo, không giao tiếp với các bạn cùng lớp,
mọi người đều nghĩ rằng em là một đứa ngang bướng chứ không hề ghĩ rằng em bị
bệnh trầm cảm. Ngay sau đó, mẹ em đã phải gặp trực tiếp cơ giáo để nhờ sự trợ
giúp từ cô và bạn bè cùng lớp để em làm quen với môi trường mới. Hoặc như khi
bị ai đó trêu đùa em sẽ có những phản ứng kích động như gào thét tức giận gần
như khơng một ai có thể khun được, hay phải nghe bố mẹ to tiếng với nhau ở em
sẽ xuất hiện tình trạng ơm đầu khóc lớn, mặt tái và nơn khan.
2. Các hình thái biểu hiện lâm sàng của bệnh trầm cảm:
* Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc tài liệu, tìm gặp bác sĩ tâm lí tại bệnh viện 354 Hà Nội, tìm hiểu về các hình
thái biểu hiện lâm sàng của bệnh trầm cảm:

2.1: Trầm cảm suy nhược
- Trên nền khí sắc giảm, biểu hiện đầu tiên đó là suy nhược mệt mỏi, uể oải, bệnh
nhân cảm giác khơng cịn sinh lực.


11
- Mất thích thú, khơng cịn ham muốn thơng thường kể cả về dục năng, thờ ơ lạnh
nhạt với xung quanh, thiểu lực cả về thể chất lẫn tâm thần. Đây là một trạng thái
lâm sàng hay gặp.
2.2 : Trầm cảm vật vã
- Đây là tình trạng khí sắc giảm không kèm theo ức chế vận động.
- Bệnh nhân thường đứng ngồi không yên, cầu xin, rên rỉ, than vãn về tình trạng
khó ở của mình.
- Tự phê phán bản thân, sợ hãi, hoảng sợ, cầu cứu sự giúp đỡ kẻo những tai vạ khó
lường sắp xảy ra với chính mình hoặc người thân.
- Trong cơn xung động, bệnh nhân trầm cảm sẽ có hành động tự kết liễu nếu khơng
có sự xử lí và can thiệp kịp thời.
Hình thái biểu hiện lâm sàng trầm cảm vật vã này thể hiện rõ ràng nhất ở cô
NT. Ngọc.
2.3: Trầm cảm mất cảm giác tâm thần
- Bệnh nhân than vãn mình khơng cịn cảm giác, khơng cịn nhận được tình cảm
của người thân, khơng cịn biết đau buồn, vui sường, mất phản ứng cảm giác thích
hợp.
- Bệnh nhân khẳng định rằng họ khơng có được cảm xúc gì và đau khổ về tình
trạng đó.
2.4 : Trầm cảm với hoang tưởng tự buộc tội
- Bệnh nhân tự quở trách bản thân rằng họ có nhiều khuyết điểm, có nhiều hành
động xấu xa ( đồi bại, ăn bám, giả tạo, …)
- Người bênh thường xám hối về các tội lỗi đó và xin được trừng phạt.
- Trong một số trường hợp, sự sai phạm trong ý tưởng tự buộc tội có liên quan tới

những sự việc có thực, nhưng thường có xu hướng bị thổi phồng, nói q lên trong
tình trạng bệnh lí.
2.5 : Trầm cảm loạn khí sắc
- Khí sắc giảm nhẹ nhưng bệnh nhân thường kích thích càu nhàu đi đơi với cảm
giác buồn bực, khơng hài lịng với mọi người xung quanh.
- Có khuynh hướng cáu bẳn, cục cằn, cơng kích thơ bạo.
- Tình trạng này thường bị bỏ sót trong chẩn đoán trầm cảm.


12
2.6 : Trầm cảm sững sờ
- Khí sắc trầm cảm kèm theo ức chế vận động đến sững sờ.
- Đôi khi khơng vận động đến mức hồn tồn bất động, tình trạng này rất dễ nhầm
với sững sờ căng trương lực.
(Sững sờ căng trương lực: vẻ mặt vô cảm hoặc khó hiểu, bất động kết hợp với chống đối hoặc
giữ nguyên dáng. Sững sờ có thể chấm dứt đột ngột hoặc có thể kéo dài trong nhiều tháng. Sau
khi ra khỏi cơn, đơi khi bệnh nhân có thể kể lại nội dung các hoang tưởng đã chi phối bệnh nhân,
như là lúc đó bệnh nhân đang nhập thiền, hoặc đang thấy cảnh tận thế ....)

2.7 : Trầm cảm lo âu
- Khí sắc trầm, buồn rầu, kềm theo lo âu.
- Bệnh nhân thường lo lắng với mọi chủ để kể cả khơng mang tính thời sự, lo lắng
chờ đợi rủi ro, bất hạnh, khơng gắn với bất kì một sự kiện nào đặt ra trong đời.
- Thường kèm theo nhiều rối loạn thực vật nội tạng như đáng trống ngực, ớn lạnh,
rét run, …
2.8 : Trầm cảm với hoang tưởng mở rộng
- Đây là tình trạng trầm cảm với hoang tưởng phủ định rộng lớn.
- Bệnh nhân khẳng định thế giới, vũ trụ đang đổ vỡ, không tồn tại.
- Khẳng định chính mình bị người ta ghép những lỗi nặng nề, hoặc phải gánh chịu
những tội lỗi, sự tra tấn hàng nghìn năm.

- Khẳng định các cơ quan lục phủ ngũ tạng bị thối rữa
- Khẳng định mình bị mất hết nhà cửa, gia đình và những người mình yêu thương (
hội chứng Cotard).Tình trạng này ngày nay rất ít gặp.
2.9 : Trầm cảm với hoang tưởng điển hình
- Bệnh nhân xuất hiện nhiều hoang tưởng với nhiều nội dung khác nhau như bị
theo dõi, bị truy hại, bị đầu độc, bị buộc tội…
- Khi rối loạn nặng có thể kèm theo rối loạn ý thức, kiểu mê mộng với nội dung
trầm cảm kèm theo nhiều ảo giác thật hoặc giả với nội dung chê bai, nói xấu, bình
phẩm.
2.10 : Trầm cảm rối loạn cơ thể và thần kinh thực vật
- Tình trạng bệnh thường gặp là các rối loạn cơ thể thực vật nội tạng, suy nhược,
loạn cảm giác bản thể như: đáng trống ngực, dao động huyết áp, ngoại tâm thu, vã
mồ hôi, chân tay lạnh, nôn, kém ăn, sợ sệt,…
(ngoại tâm thu là tình trạng loạn nhịp tim hay nhịp tim không đều )


13
- Khí sắc biểu hiện khơng rõ ràng, bệnh nhân không hề than vãn buồn phiền
- Một số khác lại biểu hiện bằng các triệu chứng đau dai dẳng ở vùng ngực, nghẹ
thở, hụt hơi, chóng mặt, rối loạn tiêu hóa, chán ăn.
- Do khơng có những biểu hiện trầm cảm rõ rệt nên nhiều nhà tâm thần học goi đây
là trầm cảm che đậy ( Masked Depression ) hoặc trầm cảm tương đương.
Hình thái biểu hiện lâm sàng trầm cảm rối loạn cơ thể và thần kinh thực vật
này thể hiện vô cùng rõ ràng ở cô Nguyễn Minh Nguyệt.
2.11 : Trầm cảm loạn cảm giác bản thể
- Bệnh nhân có cảm giác khó chịu, khơng xác định được rõ rang ở các cơ quan, bộ
phận khác nhau trong cơ thể.
- Thường than vãn đầu óc nặng nề, cảm giác đặc sệt như đất thó bã đậu, hoặc rỗng
tếch, bị bóp thắt, làm cho bệnh nhân trở ngại tự duy, khó khăn diễn đạt.
2.12 : Trầm cảm ám ảnh

- Các hiện tượng ám ảnh được hình thành trên nền tảng trầm cảm với các nội dung
ám ảnh sợ khoảng trống, sợ chỗ rỗng, sợ lây bệnh, sợ tim ngừng đập, hoặc bị chết
đột ngột…
- Triệu chứng này thường gặp ở những người có tính cách hồi nghi hay lo âu.
2.13 : Trầm cảm nghi bệnh
- Trên nền khí sắc giảm, bệnh nhân thường xuất hiện những cảm giác khó chịu
khác nhau và từ đó khẳng định mình bị mắc một bệnh rất nặng không thể điều trị
được, họ kiên trì đi gặp nhiều bác sĩ ở những khoa khác, khám xét nhiều lần và
thường đến muộn với khoa Tâm thần sau khi đã đến với nhiều chuyên khoa khác
mà khơng tìm ra các bệnh lý tương xứng với tình trạng cơ thể và điều trị không đạt
kết quả.
* Hậu quả của bệnh trầm cảm:
Bệnh nhân xuất hiện ý tưởng tự sát hoặc có hành vi tự sát, trầm trọng nhất là
tự sát thành công.
Ở cô Nguyễn Minh Nguyệt đã xuất hiện ý tưởng tự sát nhưng ngay lập tức
dừng lại ở đó, cịn cơ NT. Ngọc thì đã xuất hiện hành vi tự sát như rạch tay, nhảy
cầu tự vẫn nhưng đều được cứu kịp thời nên trường hợp tồi tệ nhất may mắn là
không xảy ra.


14
3. Phương pháp chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân trầm cảm:
* Phương pháp nghiên cứu:
- Từ những quan sát, kinh nghiệm của bản thân kết hợp với tài liệu tham khảo suy
ra phương pháp chăm sóc, điều trị tại nhà cho bệnh nhân trầm cảm.
3.1: Tổng quan phương pháp:
- Đối với các bệnh nhân trầm cảm điều đầu tiên chúng ta cần làm là khiến họ phải
tin ta, khi tiếp cận họ cần sử dụng phương pháp nhẹ nhàng, không nên cáu gắt
trước những phản ứng, hành vi lệch chuẩn của người bệnh vì điều đó chỉ càng
khiến bệnh nhân thêm căng thẳng và tiêu cực thêm. Chăm sóc bệnh nhân trầm cảm

là cần sự kiên nhẫn, từ từ từng chút một kết nối với tâm tư , suy nghĩ của bệnh
nhân để mở được cánh cửa cuộc sông khép kín của họ. Bệnh nhân trầm cảm cần sự
trợ giúp đỡ của mọi thành viên trong gia đình.
a. Đối với bệnh trầm cảm ở người lớn nói chung:
- Chán ăn: Cho bệnh nhân ăn những thức ăn dễ tiêu, giàu năng lượng, hợp khẩu vị
với bệnh nhân.Nếu có thể thì cho bệnh nhân ăn theo chế độ tự chọn trong thời gian
đầu điều trị.
- Vận động: Theo các nghiên cứu khoa học từ trước thì mỗi ngày con người phải
dành ra 1 khoảng thời gian là 30 phút để vận động nhằm thư giãn, giảm stress, tăng
cường sức khỏe và hạn chế mắc trầm cảm.
- Mất ngủ: Nếu bệnh nhân bị mất ngủ, không nên cho bệnh nhân ngủ trưa. Không
cho bệnh nhân đi ngủ quá sớm.Tránh để bệnh nhân nằm trên giường suốt ngày, vì
như thế sẽ làm mất ngủ nặng thêm.Yêu cầu bệnh nhân đi lại, vận động trong ngày,
nhưng tránh vận động nhiều vào buổi tối (vì sẽ gây khó ngủ).
- Mệt mỏi: Bệnh nhân trầm cảm hay mệt mỏi suốt ngày, đặc biệt buổi sáng họ luôn
than phiền về điều này. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải động viên bệnh nhân tập vận
động.Bắt đầu là việc ngồi dậy, đứng lên, đi lại nhẹ nhàng trong nhà. Khi đã quen
có thể yêu cầu bệnh nhân làm các công việc đơn giản, nhẹ nhàng như nhặt rau, nấu
cơm, quét nhà. Cũng nên yêu cầu bệnh nhân tập các mơn thể thao trước đây bệnh
nhân u thích như cầu lơng, bóng bàn, bơi lội…
- Chú ý, trí nhớ kém: Có thể đọc cho bệnh nhân nghe những mẩu truyện ngắn,
những bài thơ hay mà bệnh nhân yêu thích. Sau đó, yêu cầu bệnh nhân đọc các bài


15
báo, xem tivi, nghe đài… thời lượng nên tăng dần để tránh làm bệnh nhân mệt mỏi,
chán nản.
- Thuốc uống: Dùng thuốc chống trầm cảm theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ. Lúc đầu
bệnh nhân có thể cảm thấy một số tác dụng phụ như khô miệng, đắng miệng, đầy
bụng, mệt mỏi… giải thích cho bệnh nhân đó là điều bình thường và tiếp tục uống

thuốc.Vì các tác dụng phụ này, bệnh nhân hay tự ý bỏ thuốc. Mặt khác, bệnh nhân
hay quên nên không uống thuốc đúng chỉ dẫn, do vậy người nhà phải cho bệnh
nhân uống thuốc hằng ngày. Phải kiểm tra xem bệnh nhân có uống thuốc thật
khơng (hay giấu thuốc rồi vứt đi), uống có đủ liều không (hay bớt thuốc lại).Tốt
nhất là giao việc quản lý thuốc cho một thành viên nhất định trong gia đình.Chỉ
thay thế bằng người khác khi trong tình huống bất khả kháng.
- Tái khám: Nên giữ liên lạc thường xuyên với bác sĩ, báo cho bác sĩ biết về tình
trạng của bệnh nhân. Sau 1-2 tháng điều trị, bệnh nhân đã ổn định nên sinh ra tâm
lí chủ quan, cho rằng mình đã khỏi bệnh.Vì vậy họ khơng đến khám bệnh nữa và
bỏ điều trị củng cố.Điều này rất nguy hiểm vì bệnh nhân khơng được điều trị củng
cố đầy đủ nên bệnh rất dễ tái phát.Khi bệnh tái phát, thường phải mất nhiều công
sức điều trị hơn và thời gian điều trị củng cố cũng phải kéo dài hơn trước rất
nhiều. 
b. Đối với bệnh trầm cảm ở trẻ em nói chung:
- Điều trị trầm cảm ở trẻ nhỏ cần rất nhiều thời gian và sự kiên nhẫn của cha mẹ,
cha mẹ hãy đồng hành cùng con mình để vượt qua những giai đoạn khó khăn như
thế này:
- Điều chỉnh mối quan hệ gia đình: Cha mẹ nên quan tâm, trị chuyện với trẻ, lắng
nghe con nói, ln theo sát chú ý những thay đổi bất thường của trẻ nhưng khơng
kìm kẹp, ln giữ cho khơng khí gia đình được thoải mái, vui vẻ, không bao giờ
được gây áp lực, hay sử dụng bạo lực với trẻ vì như vậy chỉ càng tăng thêm sự
chống đối, thu hẹp bản thân của các em hoặc gây nên sự căng thẳng ức chế tâm lí.
- Đưa con tham gia các hoạt động bên ngồi, những hoạt động vui chơi giải trí
ngồi trời mà cả gia đình cùng nhau tham gia, như vậy vừa có thể mở rộng mơi
trường tiếp xúc với thế giới bên ngồi của trẻ mà cịn giúp trẻ bớt đi những căng
thẳng, trở nên hoạt bát vui tươi.


16
- Chế độ ăn uống hợp lí là một yếu tố vơ cùng quan vì ăn uống đầy đủ bổ sung một

lượng dưỡng chất, vitamin hợp lí sẽ giúp trẻ có một cơ thể khỏe mạnh, tinh thần
cũng vững vàng phấn chấn hơn.
- Chia sẻ cùng con những tâm tư tình cảm: Đối với trẻ em, giai đoạn từ 6 đến 13
tuổi là giai đoạn tiềm ẩn, trẻ đã có ý thức trong việc học hành, quan hệ bè bạn, thể
thao… Cảm xúc của trẻ ở độ tuổi này rất cao và dễ mất tự chủ trước những sự kiện
bất ngờ xảy đến. Trẻ thường phản ứng bằng cách rút vào trong “vỏ ốc” để tìm sự
an tồn cho mình và trở nên ngỗ ngược, quậy phá để giải tỏa sự ấm ức giận dữ.
Các em đã biết đau khổ vì những gì mà mình mong muốn, u thích khơng được
thỏa mãn. Chính vì vậy cha mẹ cần trị chuyện với trẻ, coi trẻ như một người bạn,
chậm rãi và từ từ chia sẻ với trẻ chứ không nên ép trẻ phải nói ra lập tức hoặc cho
qua khơng hỏi lại nữa khi trẻ khơng chịu nói. Hãy sử dụng biện pháp từ tốn mà tiếp
cận với những tâm tư tính cảm của trẻ, để trẻ tự mình nói ra như vậy mới có lần
chia sẻ tiếp sau.
- Cần chú ý đến các mối quan hệ trên trường lớp của trẻ, luôn theo sát và giải quyết
kịp thời những vướng mắc của trẻ với bạn bè hay với thầy cô giáo.
- Hãy tạo cho con những thói quen tốt trong cuộc sống hàng ngày như đi ngủ đúng
giờ, vui chơi thể thao, ca hát văn nghệ hay đọc truyện thiếu nhi.
- Việc trị liệu bằng thuốc là cách phổ biến nhưng đối với trẻ nhỏ thì khơng nên sử
dụng q nhiều thuốc hay lạm dụng thuốc vì sẽ khơng tốt cho sức khỏe của trẻ.
3.2 : Áp dụng trường hợp cụ thể ở bệnh nhân ( đối tượng nghiên cứu) :
a. Chăm sóc và điều trị đối với cơ Nguyễn Minh Nguyệt:
Các phương Điều trị đối với cô Nguyệt
pháp
1. Vận động - Trong giai đọan đầu của cuộc
điều trị, sẽ bắt đầu bằng việc tôi
và mẹ cùng đi dạo bờ hồ vào
mỗi sáng chủ nhật khoảng 30
phút. 3 tuần tiếp theo tăng lên
thành sáng thứ 7 và chủ nhật.
Cứ đều đặn 3 tuần lại tăng số

lượng buổi sáng đi dạo lên
nhưng lượng thời gian cho mỗi

Những phương pháp thành công
và chưa thành công
- Trong tháng đầu tiên áp dụng
phương pháp này, cơ Nguyệt
hồn tồn khơng hợp tác do tâm
lí chung của những người bị
bệnh trầm cảm là không muôn
giao lưu, tiếp xúc với xã hội bên
ngồi.
- Nhưng do có sự động viên
khích lệ từ phía gia đình và bác


lần đi dạo luôn là 30 phút.

2. Chế độ ăn - Do cơ Nguyệt hay xuất hiện
uống
tình trạng chán ăn, kém ăn, hay
bỏ bữa, nơn khan khi ngửi phải
những món ăn có dầu mỡ hoặc
cịn mùi hơi của động vật nên
lúc đầu tơi để cơ chọn những
món ăn mà cơ thích bởi như vậy
sẽ kích thích cảm giác thèm ăn.
Sau đó 2 tuần sẽ nhờ đến sự
giúp đỡ của bác sĩ để lập bảng
chế độ ăn dinh dưỡng phù hợp

với thể trạng của cô Nguyệt
3. Điều trị
chứng
rối
loạn giấc ngủ
hay mấy ngủ

- Do cô thường xuyên bị mất
ngủ cộng hưởng với việc ăn ít
nên cơ thể suy nhược, sụt cân
đáng kể. Chính vì vậy trong giai
đoạn đầu của việc điều trị các
bác sĩ phải sử dụng thuốc hỗ trợ
như thuốc ngủ, thuốc an thần.
- Nhưng phụ thuộc vào thuốc
cũng không tốt cho sức khỏe,
vậy nên kết hợp đồng thời với
hai phương pháp đã nêu trên là
vận động và chế độ ăn uống là
điều cần thiết để tình trạng mất
ngủ được cải thiện. Cộng hưởng
là tôi luôn nhắc nhở cô đúng 10
giờ sẽ lên giường đi ngủ để tạo
lập một thói quen.
4.Trị chuyện - Cứ mỗi ngày sau khi đi học về
với
người tơi đều dành thời gian để kể cho

sĩ tâm lí mà cô đã cố gắng làm
quen dần với phương pháp này.

- Khi đã quen với phương pháp
này thì mỗi sáng ở ngồi bờ hồ
cơ khơng chỉ dừng ở việc đi dạo
mà thi thoảng cong tập dưỡng
sinh cùng các ông bà ngồi hồ
và trị chuyện cùng họ.
- Có thể nói là phương pháp này
chưa hẳn đã thành cơng bởi vẫn
có tính trạng bỏ bữa mặc dù đã
ít hơn rất nhiều so với lúc đầu
và cơ ăn vẫn rất ít chưa theo
đúng với bảng chế độ ăn dinh
dưỡng dù đã có sự giám sát của
gia đình.

- Phương pháp cũng có thể coi
là chưa thành cơng vì mặc dù cơ
đã khơng cịn bị mất ngủ nhưng
giấc ngủ thường kéo dài rất
ngắn chỉ khoảng từ 4 – 5 giờ.

- Phương pháp này hoàn toàn
thành cơng khi mà ta có thể thấy


bệnh

5. Nghỉ ngơi

6.Thuốc

uống

7. Tái khám

cô nghe về những việc đã xảy ra
trong ngày và cảm nghĩ của tôi
về những sự kiện đó, kết hợp
với phương pháp vận động thì
trong phương pháp này khi đi
dạo ngồi bờ hồ mỗi sáng cơ đã
nói chuyện với các ơng bà tập
dưỡng sinh bên ngồi khi họ
chủ động bắt chuyện và cùng
tập với họ.
- Do hình thái lâm sàng của
bệnh trầm cảm ở cơ Nguyệt là
trầm cảm rối loạn cơ thể và thần
kinh thực vật nên sự xuất hiện
của hiện tượng hụt hơi, nghẹn
thở, đầu óc choáng váng xảy ra
thường xuyên nên khi áp dụng
phương pháp vận động với cơ
Nguyệt thì tơi đã quan sát, theo
dõi để biết khi nào cô bắt đầu
mệt và lập tức cho cô nghỉ.
- Nhất là với những người huyết
áp thấp như cơ thì việc nghỉ
ngơi uống một chút sữa, hoặc
nước hoa quả là vơ cùng cần
thiết.

- Có thể dùng các loại thuốc bổ
để kích thích ăn uống, đồng thời
kết hợp với thuốc an thần, thuốc
ngủ và tuần hoàn máu não để
tinh thần của cô không bị đặt
trong trạng thái căng thẳng q
mức.
- Tái khám là vơ cùng quan
trọng vì điều đó sẽ quyết định
xem người bệnh đã có những
tiến triển tích cực nào sau các
phương pháp điều trị, đã hồn
tồn khỏi bệnh hay chưa và
bệnh có khả năng tái phát lại

được sự tiến triển trong việc mở
rộng giao tiếp ở cô Nguyệt với
xã hội và mọi người xung quanh
mặc dù chưa có sự chủ động và
ban đầu việc làm quen với giao
tiếp cùng mọi người là vơ cùng
khó khăn.

- Phương pháp này hồn tồn
thành cơng đối với cơ Nguyệt.

- Phương pháp này vơ cùng
thành cơng vì cơ Nguyệt có sự
hợp tác vô cùng tốt với bác sĩ và
người nhà trong việc điều trị

bằng thuốc và luôn uống thuốc
đầy đủ.
- Ở cơ Nguyệt thì phương pháp
này ln được áp dụng theo
định kì là 2 tháng một lần để
bác sĩ cùng gia đình có thể liên
tục theo dõi được tiến độ tiến
triển và phục hồi của cô.


hay khơng.
b. Chăm sóc và điều trị đối với em Nguyễn Nguyệt Anh:
Các phương pháp

Điều trị đối với em Nguyệt
Anh
1. Điều chỉnh mối - Bố mẹ cùng chị gái em ln
quan hệ gia đình
ln phải giữ cho khơng khí
gia đình được thoải mái, vui
vẻ, tránh gây nên những xung
đột bất thường hoặc đột ngột
xảy ra khiến em hoảng sợ,
căng thẳng hoặc phát sinh
những hành vi kích động như
gào khóc dữ dội hoặc nơn
khan liên tục.
2. Tích cực tham - Cả gia đình cùng nhau tham
gia các hoạt động gia một hoạt động ngồi trời
bên ngồi

như đi cơng viên, vườn bách
thú hoặc đưa em đi nhà sách
vào các cuối tuần.

3. Chế độ ăn uống - Thể chất của em Nguyệt Anh
hợp lí
từ lúc sinh ra đã vơ cùng yếu
bộ máy hơ hấp của em rất kém
đồng thời đường tiêu hóa cũng
khơng tốt dẫn đến việc rất dễ
bị ốm, khi ăn thì chỉ cần có
một tác động hơi lớn từ bên
ngồi cũng khiến em nôn sạch
mọi thứ vừa ăn và sự hấp thụ
chất dinh dưỡng ở em là vô
cùng kém nên dẫn đến tình
trạn suy dĩnh dưỡng. Từ đó
chế độ ăn uống đặc biệt được

Những phương pháp thành
công và chưa thành công
- Phương pháp thành cơng
tuyệt đối vì cả gia đình đều
sẵn sàng làm tất cả để em
mau chóng khỏi bệnh.

- Lúc đầu em từ chối mọi sự
tiếp xúc với thế giới bên
ngoài nhưng dần dần bằng
việc đưa em đi chơi ngoài hồ

Tây mỗi tối khoảng 30 phút
cùng bố mẹ hoặc chị gái thì
em đã quen với việc tiếp xúc
với mơi trường bên ngồi và
đồng thời tiếp nhận nó vào
cuộc sống.
- Việc thực hiện phương
pháp này vơ cùng khó khăn
vì em cịn nhỏ và chưa thể
kiềm chế được kích động của
mình nên rất dễ nơn đồng
thời bộ máy tiêu hóa của em
cũng rất kém.Chính vì vậy sự
kiên trì của gia đình là vơ
cùng cần thiết và cũng chính
nhờ sự kiên trì của mẹ mà
bây giờ tất cả những khó
khắn kể trên đều đã có thể
khắc phục.


4. Cùng trẻ chia sẻ
những tâm tư tình
cảm

5. Chú ý đến
những mối quan
hệ trên trường lớp
với thầy cô và bạn
bè của trẻ


thiết lập, bổ sung thêm các
loại men chua kích thích bộ
máy tiêu hóa và váng sữa và
sữa bột. Mỗi ngày uống 3 bữa
sữa bột ( sáng – đầu giờ chiều
– tối), buổi trưa khi ăn cơm
xong sẽ uông một cốc nước
cam và buổi sáng và buổi tối
mỗi lần sẽ ăn một hộp váng
sữa.
- Nguyệt Anh là một đứa trẻ
nhạy cảm, em ln có những
cảm nhận, tâm tư của riêng
mình về một sự kiện, hiện
tượng nhưng em bao giờ nói
ra vì sợ bị mọi người trêu đùa
hoặc khơng lắng nghe. Chính
vì vậy mà cha mẹ cùng chị gái
ln ln phải trò chuyện với
em, họ kể cho em nghe những
câu chuyện vui xảy ra trong
ngày, về những giấc mà họ tự
biên tự diễn, và mỗi tối tôi sẽ
kể cho em nghe những mẩu
chuyện cổ tích nho nhỏ.
- Gia đình gặp trực tiếp cơ
giáo chủ nghiệm trị truyện về
căn bệnh trầm cảm của em để
từ đó có các biện pháp giúp

em hịa đồng và mở lịng với
bạn bè và thầy cơ. Bằng việc
cách 1 tháng sẽ đổi chỗ 1 lần
để em được ngồi cạnh tất cả
các bạn trong lớp, mở rộng
môi trường tiếp xúc của em
đối với bạn bè. Cô giáo chủ
nhiệm cũng sử dụng phương
pháp khuyến khích, khen
thưởng em khi đạt điểm tốt và
góp ý nhẹ nhàng khi em mắc

- Lúc đầu em từ chối mọi sự
tiếp xúc kể cả từ phía gia
đình vì vậy trong thời gian
đầu là vơ cùng khó khăn để
có thể khiến em lắng nghe và
mở lịng. Mọi người trong
gia đình đều phải bắt đầu từ
việc hỏi em thích ăn gì, thích
đọc truyện gì, thích mua đồ
chơi gì, em muốn đi đâu cho
ngày cuối tuần? Điều này sẽ
giúp ích cho việc em tự mở
lịng và nói cho mọi người
biết điều mình mong muốn
và suy nghĩ.
- Phương pháp này cũng rất
khó khăn khi mà em Nguyệt
Anh hồn tồn không hợp

tác với giáo viên, mỗi lần
chuyển chỗ là cả một vấn đề
vì em sẽ xuất hiện tình trạng
khóc, ấm ức và khơng muốn
đi học nữa. Gia đình cùng
giáo viên và bạn bè trên lớp
đã cố gắng rất nhiều để khắc
phục tình trạng này. Và may
mắn là sau học kì I của năm
lớp 1 những khó khăn đã
được khắc phục, mặc dù khi
lên lớp 2 và lớp 3 phải tiếp



×