Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận án tiến sĩ) pháp luật về thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.05 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TƠ ĐÌNH TỈNH

PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020

luan an


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TƠ ĐÌNH TỈNH

PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH BÌNH

Hà Nội, năm 2020

luan an




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình. Các kết quả được
trình bày trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu
khoa học nào khác. Các số liệu trích dẫn trong Luận văn được trích từ các nguồn
thơng tin hợp pháp, chính xác và trung thực.
Tơi đã hồn thành các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
Tôi xin cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm với nội dung cam đoan trên.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TƠ ĐÌNH TỈNH

luan an


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Pháp luật về Thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” đã được
hoàn thành là kết quả học tập, tổng hợp, tìm hiểu, nghiên cứu trong hai năm học cao
học tại Học viện Khoa học Xã hội và sự hướng dẫn, hỗ trợ của người hướng dẫn
khoa học.
Tơi xin được trân trọng bày tỏ lịng biết ơn đến các thầy, các cô là các giáo
sư, phó giáo sư, tiến sĩ đã tham gia giảng dạy lớp cao học khoá 2017 - 2018, đặc
biệt xin cảm ơn TS. Nguyễn Thanh Bình - Cục trưởng Cục Cơng tác phía Nam - Bộ
Tư pháp. Thầy đã nhiệt tình, tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tơi
hồn thành Luận văn này.
Nhân dịp này tơi xin được chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Hội

đồng chấm luận văn; cảm ơn Học viện khoa học xã hội đã giúp đỡ tơi hồn thành
Lận văn này.
Học viên

TƠ ĐÌNH TỈNH

luan an


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.…………………………………………………………………...1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI…..…..7
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của chế định Thừa phát lại.......................................... 7

1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn, đặc điểm, mối quan hệ của Thừa phát lại......20
1.3. Pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay ……………………………..30

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA
PHÁT LẠI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI .......................................................................36
2.1. Tổng quan về tỉnh Đồng Nai ....................................................................................36
2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại tỉnh Đồng Nai từ khi
thí điểm đến nay ................................................................................................................37
2.3. Nhận xét, đánh giá về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại tỉnh Đồng Nai
từ khi thí điểm đến nay…..………………..……………………………..................52
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI …………….62
3.1. Quan điểm phát triển, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thừa
phát lại........................................................................................................................62


3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả về tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại .......................................................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

luan an


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THADS: Thi hành án dân sự.
TPL: Thừa phát lại.

luan an


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
2.1. Bảng tổng hợp kết quả hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 - 2019.
2.2. Biểu đồ tỉ trọng doanh thu giữa các loại hoạt động của các Văn phòng Thừa
phát lại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2.3. Biểu đồ về tình hình hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai.

luan an


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định Thừa phát lại (TPL) xuất hiện trên thế giới hơn 100 năm, ở khu vực
Châu Âu, bắt nguồn từ nước Pháp và hiện đang phát triển ở nhiều quốc gia trên thế

giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, TPL được xuất hiện cùng với việc Vua Tự
Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó, Pháp đã
trực tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân, áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ và coi
6 tỉnh Nam kỳ như một hạt của Pháp quốc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
chế định TPL tiếp tục được duy trì cho đến năm 1950. Ở miền Nam Việt Nam, chế
định TPL cũng tồn tại cho tới năm 1975, khi giải phóng hồn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 có chủ trương “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên),
trước mắt có thể thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết,
đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 14/11/2008 Quốc hội tiếp tục ban hành
Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó giao
Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số địa
phương. Tiếp đó Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/7/2009 để thực hiện thí điểm về TPL lại thành phố Hồ Chí Minh từ 01/7/2009
đến ngày 01/7/2012. Sau thời gian triển khai thí điểm, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã
thơng qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định
TPL và giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến năm 2015.
Tính đến ngày 31/12/2015, sau 6 năm thí điểm, chế định TPL đã chứng tỏ
được tính đúng đắn và được xã hội chấp nhận, đặc biệt là ở các địa bàn kinh tế - xã
hội phát triển, cả nước có 13 địa phương được giao thực hiện thí điểm và đã thành lập

1

luan an



được 53 Văn phòng TPL và đã bổ nhiệm được 245 TPL.
Từ những kết quả đạt được trong thời gian thực hiện thí điểm đã chứng tỏ việc
thực hiện chủ trương phát triển chế định TPL ở Việt Nam là cần thiết, đúng đắn, phù
hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, ngày 26/11/2015, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 107/2015/QH13 để thực hiện chính thức TPL trên cả nước kể từ ngày
01/01/2016. Các tổ chức TPL được thành lập theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và
Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội được tiếp tục hoạt động theo quy định của
Nghị quyết này cho đến khi Quốc hội ban hành Luật TPL. Tính đến ngày 31/12/2018,
cả nước đã thành lập 82 Văn phòng TPL. Tại tỉnh Đồng Nai, đến ngày 31/7/2019 có 05
Văn phịng TPL đã thành lập và đang hoạt động.
Mới đây, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày
08/01/2020 về tổ chức và hoạt động của TPL (có hiệu lực từ ngày 24/02/2020) đã
tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho TPL phát triển.
Như vậy, từ chủ trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực
xây dựng, hồn thiện pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho TPL ở Việt Nam phát
triển. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới, trong q trình địa phương tổ chức thực hiện
cũng cịn gặp nhiều khó khăn, các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động của TPL còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa phù
hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện pháp luật.
Với mong muốn được góp phần vận dụng kiến thức pháp luật và hiểu biết
thực tiễn của mình vào nghiên cứu khoa học pháp lý, thông qua nghiên cứu lý luận
và hoạt động thực tiễn về TPL ở Việt Nam nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng
nhằm hồn thiện pháp luật về TPL, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TPL
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã thôi thúc tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật
về TPL từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, chế định TPL đã được thí điểm và chính thức cho thực
hiện trong phạm vi cả nước từ 01/01/2016; trước và trong thời gian trên đã có một số


2

luan an


cơng trình nghiên cứu liên quan đến chế định TPL, tiêu biểu như:
- Tổ chức Thừa phát lại, Nguyễn Đức Chính (chủ biên), NXB. Tư pháp, Hà
Nội, 2006; đây là kết quả của cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước được
Bộ Tư pháp giao cho Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu thực hiện.
Cơng trình nghiên cứu đã khái quát lại lịch sử chế định TPL ở Việt Nam và phân
tích một số mơ hình về TPL ở một số nước trên thế giới.
- Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, luận văn thạc sĩ luật học, Phạm Phúc
Thịnh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; nội dung chính của đề tài nghiên cứu về
lịch sử pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam, việc thực hiện chủ trương xã
hội hóa hoạt động THADS, vị trí, vai trị, nhiệm vụ của TPL trong họa động tổ chức
thi hành án.
- Thừa phát lại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học,
Nguyễn Anh Thư, Đại học Luật Hà Nội, 2014; Luận văn đi sâu nghiên cứu về lý
luận và một số vấn đề liên quan đến TPL phát sinh từ thực tiễn thực hiện thí điểm
TPL ở Việt Nam.
- Số chuyên đề tháng 11/2011, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp;
- Số chuyên đề chế định TPL năm 2014, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ
Tư pháp;
- Thí điểm mơ hình TPL thành phố Hồ Chí Minh - Những vấn đề đặt ra/Bùi
Thị Huyền/Tạp chí Luật học, số 7/2011;
- TPL bước đầu đã đi vào lòng dân và xã hội, là người trợ thủ đắc lực cho
công tác thi hành án dân sự (THADS) và công tác tư pháp/Hà Hùng Cường/Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 10/2012;
- Quản lý nhà nước về TPL - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn

thạc sĩ luật học, Nguyễn Đức Biên, Học viện Khoa học Xã hội, 2016; Luận văn đi
sâu, tập trung nghiên cứu pháp luật về quản lý nhà nước đối với TPL và phân tích,
đánh giá thực tiễn, tình hình thực hiện cơng tác quản lý nhà nước về TPL để đưa ra
các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với TPL.
- Xu hướng xã hội hóa THADS từ việc thí điểm hoạt động TPL tại TP. Hồ

3

luan an


Chí Minh/Nguyễn Cơng Bình/Tạp chí Luật học, số 6/2012…
Như vậy, hiện nay đã có những cơng trình, đề tài, số chuyên đề, bài viết về
chế định TPL ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động TPL trong
bối cảnh thực hiện thí điểm, mới thực hiện chính thức chế định này trên cơ sở pháp
luật hiện hành (chủ yếu là trong giai đoạn thí điểm – trước ngày 1/1/2016), về giá trị
lịch sử, quan điểm chính trị - pháp lý về chế định TPL; nhận diện pháp lý về TPL,
mơ hình tổ chức và hoạt động của TPL; những đặc trưng của nghề TPL; về quản lý
nhà nước đối với TPL. Tuy nhiên, qua nghiên cứu nhận thấy, chưa có các cơng trình
nào đề cập vừa mang tính tổng thể, vừa mang tính cụ thể liên quan đến tổ chức và
hoạt động của TPL từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề
tài “Pháp luật về Thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ
luật học để nghiên cứu pháp luật, tổng kết tình hình thực tiễn về thực hiện chế định
TPL tại tỉnh Đồng Nai; từ đó cung cấp những luận cứ, luận chứng khoa học cho
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TPL nói chung và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả về tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng là cần
thiết và khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học đã được cơng bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TPL, xác định rõ cơ
sở khoa học và cơ sở thực tiễn xây dựng và phát triển pháp luật về TPL ở Việt Nam

nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng; phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động
của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; đánh giá ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn,
bất cấp để từ đó đưa ra các khuyến nghị khoa học nhằm góp phần vào việc xây dựng,
hồn thiện pháp luật; qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước,
tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng và ở Việt Nam
nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Với nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu trên, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TPL, cụ thể như sau:

4

luan an


- Làm rõ cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về TPL;
- Phân tích thực trạng thực hiện chế định TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
tổ chức, hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu:
Thứ nhất, về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật,
những nguyên tắc, quy định về tổ chức và hoạt động của TPL ở Việt Nam nói
chung, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng và những thuận lợi, khó khăn về tổ
chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Thứ hai, về thời gian, địa điểm nghiên cứu, các số liệu, thơng tin trình bày
trong luận văn được thu thập trong thời gian từ năm 2013 2015 đến ngày
31/12/2019 và có cập nhật, bổ sung thêm một số thông tin đến tháng 02 năm 2020
tại tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, lịch sử và các phương pháp khác như: Khảo sát, tổng hợp, phân
tích, thống kê pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai. Trong từng điều kiện, từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể, tác giả sử dụng các
phương pháp này chủ yếu như sau:
Một là, kết hợp phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch
sử và phương pháp phân tích: Tác giả sẽ sử dụng tập trung tại chương 1, nhằm mục
đích tìm hiểu về nguồn gốc, vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, các mối quan hệ
chủ yếu của TPL theo quy định của pháp luật Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm
ở một số quốc gia trên thế giới.
Hai là, phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này
ở chương 2 để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức, hoạt động
của TPL ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Ba là, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng tại chương
2, chương 3 để đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về TPL, nâng cao hiệu lực, hiệu

5

luan an


quả về tổ chức và hoạt động của TPL ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, làm rõ thêm các vấn đề lý luận pháp luật về Thừa phát lại;
phân tích, đánh giá một cách đầy đủ và hệ thống đối với thực trạng pháp luật về
Thừa phát lại ở Việt Nam, qua đó, làm rõ cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của
lĩnh vực pháp luật này.
Về mặt thực tiễn, những đề xuất, kiến nghị được đưa ra trong luận án được
xây dựng trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có kiểm chứng thực tế nên có thể được sử
dụng như một nguồn tham khảo tin cậy trong quá trình xây dựng, hồn thiện pháp

luật, nâng cao hiệu quả hoạt động TPL ở Việt Nam nói chung, tỉnh Đồng Nai nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn được chia thành 03 chương gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL.
Chương 2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TPL tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả về quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động của TPL tại tỉnh Đồng Nai.

6

luan an


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, việc xét xử do các quan lại phụ trách
các địa phương tiến hành và chưa có chức danh TPL; tuy nhiên, thực hiện những
công việc giúp cho các quan lại xử án xét ở góc độ nào đó các công việc này gần
giống với một số công việc mà TPL sau này được làm như: Truyền đạt các khẩu
hiệu, cơng văn, giấy tờ, chuẩn bị phiên tịa, thơng báo việc thi hành án…
TPL xuất hiện ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, bắt đầu từ việc Vua Tự
Đức ký Hòa ước ngày 05/06/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, từ đó, Pháp
trực tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ.
Sau này, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước ngày 06/6/1884 với Pháp, đưa nước ta
trở thành một nước đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp, chia thành ba vùng là

Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ở Bắc kỳ và Trung kỳ, nhà Nguyễn vẫn giữ quyền
nội trị, quyền tư pháp vẫn thuộc về hồng đế mặc dù nó đã bị hạn chế đi rất nhiều
bởi sự kiểm sốt của đại diện chính quyền Pháp [16, tr.9-10]. Mặc dù chưa có chế
định TPL, nhưng những cơng việc của TPL như trát hầu tịa, truyền phiếu… do các
Môn lại, Môn vệ, Nha lại đảm nhiệm, chứng tỏ đã dần dần hình thành một lực
lượng chuyên làm nhiệm vụ thi hành án. Ở Nam kỳ, tổ chức bộ máy nhà nước và hệ
thống tư pháp được tổ chức giống mơ hình ở Pháp và xuất hiện chức danh TPL gần
đầy đủ chức năng như ngày nay.
Tổ chức và hoạt động của TPL được chính thức ghi nhận trong “Bộ Dân sự
tố tụng Nam Việt” ban hành kèm theo Nghị định ngày 16/3/1910 (áp dụng tại khu
vực Nam kỳ); “Bộ Dân luật Trung năm 1936-1939”, ban hành kèm bộ Hộ sự,
Thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942 (áp dụng tại khu vực Trung kỳ); “Bộ Dân
luật Bắc năm 1931”, ban hành kèm Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917 (áp dụng tại
khu vực Bắc kỳ).

7

luan an


Tuy được quy định ở các Bộ luật khác nhau ở ba miền, tên gọi ở mỗi miền
khác nhau như có nơi gọi là Chưởng tịa (miền Bắc), Mõ tịa (miền Trung), TPL
(miền Nam) và chúng đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”, dịch ra tiếng Việt
đều có nghĩa là Chưởng tòa [16, tr.10]. Chế định TPL ở các bộ luật nói trên hầu hết
đều theo khn mẫu của mơ hình TPL tại Pháp được quy định trong Bộ luật Dân sự
Pháp năm 1804 và Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp năm 1807. Công việc của TPL
không được xem như một nghề, khơng có cơ quan quản lý về tổ chức và hoạt động.
TPL không phải là thành phần của chính quyền mà chỉ là người được nhà nước giao
thực hiện một số cơng việc mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động xét xử của cơ quan
tư pháp.

Từ khi được ghi nhận chính thức trong văn bản pháp lý, chức danh TPL do
Tổng trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm bằng nghị định, có định rõ trụ sở của TPL và
TPL chỉ được thi hành chức trách trong phạm vi quản hạt của Tòa sơ thẩm dân sự.
Ở những nơi chưa có TPL thì nhân viên hành chính hoặc cán bộ Tịa án được kiêm
nhiệm cơng việc của TPL. Trong quá trình hoạt động, TPL chịu sự kiểm soát của
Hội đồng TPL trong phạm vi quản hạt và chịu sự giám sát của Chưởng lý Tịa
thượng thẩm. Ngồi ra, trên bình diện cả nước, hoạt động của TPL còn chịu sự kiểm
tra, giám sát của Tổng trưởng Bộ Tư pháp. Tùy từng mức độ vi phạm có thể bị xử
phạt cảnh cáo, khiển trách nhẹ, khiển trách nặng, huyền chức, thay thế, triệu hồi. Để
trợ giúp cho công việc của mình, TPL có quyền nhận một thư ký. Thư ký TPL cũng
phải đáp ứng những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt như: Đủ tuổi quy định (thường là
25 tuổi trở lên), có thời gian thực tập hai năm ở một văn phòng chưởng khế, luật sư
hay TPL, đặc biệt phải trải qua kỳ thi do Bộ Tư pháp tổ chức. Nhiệm vụ của TPL
gồm các cơng việc chính sau đây:
Một là, làm các truyền phiếu (tống đạt các giấy tờ của tịa án): Tất cả các
thơng báo của tồ án cho các đương sự và người có liên quan đến một vụ tranh chấp
trước toà án đều giao cho TPL tống đạt. Các truyền phiếu phổ biến nhất mà TPL
tống đạt là các trát đòi (giấy mời, giấy triệu tập) bị đơn, nguyên đơn, bị cáo dân sự
ra hầu tồ (có mặt tại tồ vào ngày xét xử vụ án). Các giấy này do phòng lục sự

8

luan an


(tương tự như thư ký tịa) Tồ án lập và giao cho TPL tống đạt tận tay đương sự
hoặc nơi cư trú đương sự, lấy chữ ký rồi hoàn lại để lưu hồ sơ và bản sao thì giao
cho đương sự. Việc tống đạt này phải được làm theo thủ tục quy định trong các bộ
luật tố tụng và kết quả tống đạt phải ghi nhận đầy đủ để xác nhận đương sự có nhận
được hay khơng để làm cơ sở cho việc tồ án có xét xử vắng mặt hay khơng.

Ngồi các truyền phiếu phổ biến này, TPL cịn tống đạt các loại truyền phiếu
khác như:
- Trát đòi nhân chứng (giấy mời, giấy triệu tập).
- Trát đòi trách nhiệm dân sự (người có liên quan trách nhiệm dân sự)
- Trát đòi giám định viên.
- Tống đạt các quyết định tư pháp .
Ngồi các trát địi của tồ án,TPL cịn truyền các lệnh khác liên quan đến
việc giải quyết các vụ tranh tụng như:
- Sai áp bảo toàn (kê biên tài sản) tức là sai áp tài sản của một tồ án để đảm
bảo số nợ mà đương sự có trách nhiệm thanh tốn.
- Sai áp chế chỉ, hay cịn gọi là sai áp chi phó, tức là kê biên một tài vật, một
số tiền của con nợ do một người thứ ba nắm giữ nhằm ngăn cản người thứ 3 trao tài
vật hoặc số tiền cho con nợ, để bảo đảm số nợ mà con nợ phải trả cho chủ`nợ về sau
này không bị tẩu tán.
- Giải trừ sự sai áp này (hủy bỏ việc kê biên) khi hai bên đã tự giải quyết với
nhau hoặc do lệnh của tồ án.
Hai là, làm các cơng việc lục tống (lập các vi bằng, chứng thư về các sự kiện
hành vi nhằm làm chứng cứ): Đây là công việc mà TPL làm theo yêu cầu của toà án
(lục tống về tư pháp) hoặc theo yêu cầu của cá nhân, của tổ chức xã hội, cơng ty
hoặc đơn vị hành chính (lục tống không thuộc tư pháp) nhằm thông báo, đốc thúc,
sưu tầm, lập vi bằng, công chứng các hành vi xâm phạm đến quyền lợi để xác định

9

luan an


các sự kiện thực tế, các sự biểu lộ ý chí của đương tụng (các đương sự và những
người liên quan khác trong một vụ án) hoặc cá nhân trong các mối quan hệ xã hội
để xác lập các chứng cứ dùng làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp... Các cơng

việc này rất đa dạng và có tầm quan trọng đặc biệt trong việc cung cấp chứng cứ.
Các cơng việc này có thể phân làm 3 loại:
- Thứ nhất, là cáo tri (thông cáo) các ý định và các hành vi đã được thực
hiện đối với một đối tượng như thông báo cho người thuê nhà biết ý định chấm dứt
hợp đồng khi hết hạn, thông báo cho người thuê biết ý định của chủ nhà để người
thuê sử dụng quyền tiên mãi (ưu tiên) hoặc sai áp chi phó cho con nợ, đốc thúc con
nợ phải trả nợ.
- Thứ hai, là sưu tầm xác định các sự kiện, bằng chứng để đối chứng trước
toà, như sưu tầm tài liệu tại các cơ quan, chất vấn lấy lời khai của nhân chứng ...
- Thứ ba, là vi chứng các sự kiện thực tế như làm vi bằng công chứng (lập vi
bằng để ghi nhận - cách hiểu khác với công chứng hiện nay) về các thiệt hại về tài
sản, vi bằng công chứng về việc lấn chiếm đất đai... Luật pháp công nhận cho các
chứng thư của TPL có giá trị của cơng chứng thư có nghĩa là các chứng thư do TPL
lập đương nhiên được Toà án tin tưởng, sử dụng làm chứng cứ trong việc giải quyết
các vụ án và các chứng thư này không thể bị phủ nhận bởi bất cứ chứng cứ nào
khác.
Chứng thư do TPL lập chỉ có thể khơng có hiệu lực khi có người muốn phủ
nhận giá trị của chứng thư bằng cách kiện TPL về tội giả mạo chứng thư. Trong
trường hợp này, Toà án sẽ cho tiến hành điều tra, và chỉ khi nào cuộc điều tra xác
định chứng thư có giả mạo thì TPL sẽ bị truy tố và chứng thư này sẽ vô hiệu. Ngược
lại, nếu cuộc điều tra cho thấy là khơng có giả mạo thì chứng thư vẫn có hiệu lực và
người kiện về việc chứng thư giả mạo sẽ bị truy tố tội vu khống TPL.

10

luan an


Ba là, phát mại tài sản, trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của tịa án.
Đây là cơng tác thi hành án mà hiện nay ở nước ta đang do các Chấp hành viên thực

hiện.
Bốn là, thực hiện một số cơng việc nội bộ trong tồ án: Bao gồm thơng báo
khai mạc, bế mạc phiên tịa, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự
trong q trình xét xử của tịa án. Khi tồ án xét xử các vụ án, TPL bắt buộc phải có
mặt vào ngày giờ phiên toà xét xử để làm các nghi thức nêu trên. Hiện nay, các
công việc này trong các phiên tòa do Thư ký phiên tòa, cảnh sát tư pháp đảm nhiệm.
Về tổ chức, TPL là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý
hành nghề theo các quy định của pháp luật được hưởng thù lao khách hàng trả theo
biểu giá quy định. TPL không phải là công chức. Để được bổ nhiệm, TPL phải hội
đủ một số điều kiện về chuyên môn và đạo đức đảm bảo cho sự trung thực trong
thực hiện cơng tác và phải tun thệ trước tồ án “Thi hành nhiệm vụ một cách
ngay thẳng và chính trực”. Cụ thể là:
- Phải là người lương thiện.
- Phải qua một kỳ thi chuyên nghiệp hoặc đã từng nắm giữ một số chức vụ
trong các cơ quan tư pháp, đảm bảo trình độ chun mơn và đạo đức.
- Phải tun thệ trước toà án.
- Phải ký quỹ một số tiền để đảm bảo các khoản tiền phạt mà họ có thể bị toà
án bắt buộc phải nộp vi phạm do lỗi trong khi thừa hành nhiệm vụ được giao.
TPL không được từ chối thực hiện nhiệm vụ nếu khơng có lý do chính đáng.
Trong q trình hoạt động, TPL chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức như:
Chưởng lý, Biện lý, Thẩm phán, Lục sự. Hoạt động của TPL được tổ chức dưới
dạng văn phịng. Đây khơng chỉ là quy định pháp lý bắt buộc mà còn mang tính đạo
đức, lương tâm nghề nghiệp của TPL khi thực hiện các cơng việc được giao. Thêm
vào đó, các mức phí cho hoạt động của TPL cũng được quy định chi tiết, có ý nghĩa

11

luan an



quan trọng giúp cho người dân nào cũng có thể dễ dàng biết, tự mình u cầu TPL
thực hiện cơng việc cho mình một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả cao.
Về thù lao, TPL, thư ký TPL không hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà
được hưởng tiền thù lao theo mức phí được Tổng trưởng Bộ Tư pháp quy định bằng
văn bản pháp luật. Họ cũng không được kiêm nhiệm chức vụ công nào được hưởng
lương từ nhà nước. TPL khơng có quyền địi hỏi tiền nhiều hơn số tiền đã định
trong biểu giá hoặc đòi thêm bất cứ một phí tổn nào khác ngồi số tiền cơng đã quy
định. Nếu vi phạm, TPL có thể bị triệu hồi hoặc có thể bị khép vào khoản trừng
phạt khác. Việc thu phí của TPL được kiểm tra rất chặt chẽ bởi Sở Trước bạ.
Như vậy, dù chỉ mới manh nha xuất hiện trong nhà nước phong kiến, TPL đã
thực hiện nhiều cơng việc mang tính chất hành chính, sự vụ đạt hiệu quả cao, như là
tống đạt giấy tờ của các cơ quan nhà nước, thực hiện một số công việc phục vụ hoạt
động xét xử…
1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1950
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa khơng chỉ là bước ngoặt lịch sử to lớn của dân tộc ta, mà còn là
dấu mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn xây dựng một nhà nước độc lập. Tuy nhiên,
do mới giành được độc lập nên Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
ban hành Sắc lệnh ngày 10/10/1945, giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở 03 miền
Bắc, Trung và Nam bộ cho đến khi ban hành các bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc
với điều kiện “những điều khoản trong các luật lệ cũ được tạm giữ lại do Sắc lệnh
này, chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính
thể dân chủ cộng hịa”; trong đó có việc tạm giữ lại chế định TPL và tiếp tục hoạt
động với đầy đủ các chức năng theo quy định.
Đến ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ký ban hành Sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm
phán; theo đó, tại khoản 3 của Sắc lệnh này quy định Ủy ban hành chính cấp xã
kiêm cả việc tư pháp và Ban tư pháp cấp xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh
của Tòa án cấp trên”. Sau đó, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng


12

luan an


hòa tiếp tục ban hành Sắc lệnh số 130/SL về việc ấn định thể thức thi hành phải ghi
trên các bản tồn sao hay trích sao bản án hoặc mệnh lệnh được ban hành ngày
19/7/1946, trong đó quy định: “Trong các xã, thị xã và khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc bản án của
các Tòa án. Bản án ấy sẽ tùy từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi
hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án, ở những nơi nào đã có TPL riêng thì đương sự có
quyền nhờ TPL riêng thi hành mệnh lệnh”. Nhiệm vụ quản lý tổ chức và hoạt động
của TPL được giao cho Ban Công lại theo quy định của Nghị định số 37 ngày
01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp.
Như vậy, những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức THADS ở
Việt Nam do hai lực lượng đảm nhiệm là TPL và Ban Tư pháp xã, phường. Các lực
lượng này trong quá trình thực thi nhiệm vụ được sử dụng quyền lực nhà nước và
được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Điều 1 Sắc lệnh số 130
ngày 19/7/1946 quy định: “Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh
do các phòng lục sự phát cho người đương sự để thi hành các án hoặc mệnh lệnh
của các Tòa án hộ, đều phải có thể tổ chức thi hành, ấn định như sau: Vậy, Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truyền cho các TPL theo yêu cầu của
đương sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý và biện lý kiểm soát việc thi hành
án, các vị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu”. Tuy tồn
tại hai lực lượng thi hành án nhưng việc thi hành án dù cho TPL hay Ban Tư pháp
tiến hành đều thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước.
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1975
Ở miền Bắc, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85/SL
về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; trong đó, tại Điều 19 Sắc lệnh số 85/SL

quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm sốt của biện lý có nhiệm vụ đem chấp
hành các bản án hình về khoản bồi thường hay bồi hồn và các án hộ mà chính Tịa
án huyện hay Tòa án trên đã tuyên. Việc phát mãi bất động sản và phân phối tiền
bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách…”. Sắc lệnh số 85/SL đã bãi bỏ nhiệm

13

luan an



×