Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thẩm quyền của thừa phát lại trong thi hành án dân sự - nhìn từ phương diện lý luận - pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.58 KB, 7 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

THẨM QUYỀN CỦA THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN - PHÁP LÝ
Trần Thanh Phương1
Tóm tắt: Chế định thừa phát lại ở nước ta gần đây mới được khôi phục lại và có xu hướng phát
triển tích cực. Tuy nhiên, về phương diện pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động của thừa phát lại
vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi để từng bước hồn thiện. Trong phạm
vi bài viết này, chúng tơi sẽ trao đổi xung quanh vấn đề về thẩm quyền của thừa phát lại trong thi
hành án dân sự.
Từ khoá: Thừa phát lại, thi hành án dân sự.
Nhận bài: 10/05/2020; Hoàn thành biên tập: 05/06/2020; Duyệt đăng: 12/06/2020.
Abstract: Regime of bailiffs in our country has been recently recovered and under positive
development. However, lots of issues regarding to legal aspect and practice of bailiffs should be
further studied, discussed to be gradually finalized. In this article, we will discuss issues related to
bailiff’s authority in civil judgment enforcement.
Keywords: Bailiff, civil judgment enforcement.
Date of receipt: 10/05/2020; Date of revision: 05/06/2020; Date of Approval: 12/06/2020.
1. Sơ lược hình thành và phát triển chế
định thừa phát lại ở nước ta
Thừa phát lại xuất hiện ở nước ta đồng thời
với sự kiện vua Tự Đức ký hòa ước ngày
05/06/1862 nhượng cho thực dân Pháp 06 tỉnh
Nam kỳ. Sau đó, là bản Hiệp ước ngày
06/06/1884 đặt nước ta trở thành một nước dưới
quyền bảo hộ của Pháp.
Sau Cách mạng tháng 08/1945, chế định thừa
phát lại được duy trì và chịu sự quản lý của Ban
Cơng lại thuộc phịng Giám đốc hộ vụ của Bộ Tư
pháp. Ở Miền Nam, mơ hình thừa phát lại tồn tại
trong suốt thời kỳ pháp thuộc đến chế độ của
chính quyền Sài Gịn cho đến khi Miền Nam


hồn tồn được giải phóng (30/04/1975).
Ngày 02/06/2005, Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nghiên cứu
thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ
phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự
chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình… từng bước
thực hiện xã hội hóa và quy định hình thức, thủ
tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan
nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án
dân sự”; “Nghiên cứu chế định thừa phát lại
1

(thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí
điểm tại một số địa phương, sau vài năm, tên cơ
sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp
theo”.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã ban hành
Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật
thi hành án dân sự trong đó có xác định rõ: “Để
triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số
cơng việc có liên quan đến thi hành án dân sự,
giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí
điểm chế định thừa phát lại (thừa hành viên) tại
một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện
từ ngày luật này có hiệu lực thi hành
(01/07/2009) đến ngày 01/07/2012. Chính phủ
tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và
báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định”.

Thực hiện chủ trương này, ngày 24/07/2009
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
thừa phát lại thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập thí
điểm 05 Văn phịng thừa phát lại. Đến tháng
08/2012 Chính phủ đã tổng kết mơ hình tổ chức
và hoạt động thí điểm thừa phát lại tại Thành phố
Hồ Chí Minh để báo cáo Quốc hội xem xét, cho
ý kiến.

Tiến sỹ, Trưởng Khoa Đào tạo các chức danh Thi hành án dân sự, Học viện Tư pháp.


Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

Ngày 23/11/2012, Quốc hội đã có Nghị quyết
số 36/2012/QH13 tiếp tục và mở rộng phạm vi
thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại một
số địa phương cho đến 31/12/2015. Ngày
25/03/2013, Thủ tướng Chỉnh phủ đã ban hành
Quyết định số 510/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề
án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định thừa
phát lại”. Thực tế đã cho phép mở rộng phạm vi
thí điểm ở 13 tỉnh, thành phố trực thuốc Trung
ương. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP được sửa
đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số
135/2013/NĐ-CP.
Ngày 26/11/2015, Quốc hội sau khi nghe báo
cáo tổng kết việc thí điểm chế định thừa phát lại

đã ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 về
việc chấm dứt việc thí điểm và nhất trí thực hiện
chế định thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể
từ ngày 01/01/2016. Ngày 14/01/2016, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
102/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển
khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13
ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế
định thừa phát lại.
Đến nay theo thống kê của Bộ Tư pháp, cả
nước đã có 32/63 tỉnh thành phố trực thuộc
Trung ương đã có các văn phịng thừa phát lại.
Trong đó có 89 văn phịng với 584 thừa phát lại
đang hoạt động (trang thông tin điện tử Cục Bổ
trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp).
2. Thực trạng quy định của pháp luật về
thẩm quyền thi hành án dân sự của thừa phát
lại - kiến nghị, đề xuất
Khi triển khai thực hiện chủ trương xã hội
hóa một số công việc liên quan đến thi hành án
dân sự của Đảng, Chính phủ đã ban hành một số
Nghị định để triển khai thực hiện thí điểm chế
định thừa phát lại ở Thành phố Hồ Chí Minh và
tiếp theo là 13 tỉnh thành trong phạm vi cả nước.
Tại các Nghị định này cũng đã quy định khá rõ
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thừa phát
lại trong thi hành án dân sự.
Theo quy định tại Khoản 3, 4 Điều 3 Nghị
định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của
Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61) thì

cơng việc thừa phát lại được làm: “… (3). Xác
minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của
đương sự. (4) Trực tiếp tổ chức thi hành các bản

án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của
đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành
các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ
quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định
thi hành án”. Tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số
61 quy định tiếp: “Khi thực hiện công việc về thi
hành án dân sự, thừa phát lại có quyền như chấp
hành viên quy định tại Điều 20 Luật thi hành án
dân sự, trừ Khoản 9, Khoản 10 và thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính. Riêng việc cưỡng
chế thi hành án có huy động lực lượng bảo vệ, áp
dụng quy định tại Điều 40 của Nghị định này”.
Điều 34 của Nghị định số 61 quy định về
thẩm quyền, phạm vi thi hành án của thừa phát
lại: “(1) Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ
chức thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự
đối với các bản án, quyết định: (a) Bản án, quyết
định sơ thẩm có hiệu lực của Tòa án cấp huyện
nơi thừa phát lại đặt văn phòng; (b) Bản án,
quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối
với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp
huyện nơi thừa phát lại đặt văn phòng; (c) Quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp
tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi thừa phát
lại đặt văn phòng”.

Như vậy, ngay từ khi thực hiện thí điểm về chế
định thừa phát lại ở nước ta, pháp luật cũng đã cho
phép thừa phát lại có chức năng trực tiếp tổ chức
thi hành án dân sự cơ bản như chấp hành viên. Trừ
những nhóm việc như: (1) Việc thuộc án chủ động
thi hành bao gồm 05 nhóm việc: Hình phạt tiền,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ
phí Tịa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch
thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật
chứng, tài sản, các khoản thu khác cho Nhà nước;
thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc
diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định của Tòa án về
giải quyết phá sản (Khoản 2, Điều 36 Luật thi
hành án dân sự); (2) Sử dụng công cụ hỗ trợ trong
thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ;
thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của
Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự. (Khoản 9,
10 Điều 20, Luật thi hành án dân sự).
Tại Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày
18/10/2013 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

Nghị định số 135) sửa đổi, bổ sung tên gọi và
một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP
quy định bổ sung thêm một số vấn đề liên quan
đến thi hành án dân sự: “Thừa phát lại thực hiện
các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị

định này. Trường hợp Nghị định này không quy
định thì áp dụng theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự” (Mục 13 – Nghị định số
135). Đối với việc thừa phát lại áp dụng biện
pháp cưỡng chế trong trường hợp huy động lực
lượng bảo vệ thì: “(1) Trong trường hợp cưỡng
chế thi hành án cần huy động lực lượng bảo vệ,
Văn phòng thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến
của Trưởng Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp
huyện nơi đặt Văn phòng thừa phát lại; (2) Trên
cơ sở ý kiến của Ban chỉ đạo Thi hành án dân
sự, Văn phòng thừa phát lại lập kế hoạch cưỡng
chế, báo cáo Cục trưởng Cục Thi hành án dân
sự, kèm theo hồ sơ thi hành án để Cục trưởng
Cục Thi hành án dân sự xem xét, phê duyệt kế
hoạch cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi
hành án...; (3) Sau khi được phê duyệt và ra
quyết định cưỡng chế thi hành án, thừa phát lại
thực hiện việc cưỡng chế theo quy định của pháp
Luật thi hành án dân sự và quy định của Nghị
định này về cưỡng chế thi hành án” (Mục 14 –
Nghị định số 135).
Theo quy định của Nghị định số 61 và Nghị
định số 135 về thực hiện thí điểm chế định thừa
phát lại thì khi trực tiếp tổ chức thi hành án dân
sự: Trưởng Văn phòng thừa phát lại được ra
quyết định thi hành án; thừa phát lại được áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; được áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Như vậy,
ở giai đoạn này, pháp luật cho phép thừa phát lại

có chức năng thi hành án kể từ thời điểm bắt đầu
(có yêu cầu của đương sự) cho tới khi kết thúc thi
hành án dân sự.
Đến ngày 08/01/2020, Chính phủ ban hành
Nghị định số 08/2020/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là
Nghị định số 08) quy định về tổ chức và hoạt
động của thừa phát lại (có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 24/02/2020). Nghị định này thay thế Nghị
định số 61 và Nghị định số 135 của Chính phủ
trước đây. Nghị định số 08 áp dụng cho chế định
thừa phát lại một cách chính thức trong phạm vi
cả nước (khơng phải là thí điểm như hai Nghị

định trước). Tinh thần của Nghị định mới đã sửa
đổi, bổ sung và đã có những tiến bộ hồn chỉnh
hơn các quy định tại các Nghị định trước đây.
Tuy nhiên, trong phạm vi chức năng thi hành án
dân sự của Trưởng văn phòng thừa phát lại, thừa
phát lại được điều chỉnh theo hướng thu hẹp lại.
Nếu như các quy định trước đây cho phép
thừa phát lại được thực hiện việc thi hành án dân
sự (trừ một số nhóm việc liên quan đến Nhà
nước) từ khi bắt đầu (có yêu cầu của đương sự)
cho đến khi kết thúc, thì nay chức năng thi hành
án dân sự của thừa phát lại bị hạn chế cơ bản, chỉ
còn lại một số chức năng như: Xác minh điều
kiện thi hành án; tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án (Khoản 3, 4, Điều 3, Nghị
định số 08). Mặc dù, Nghị định số 08 vẫn trao
thẩm quyền tổ chức thi hành án cho thừa phát lại

trong phạm vi các bản án, quyết định của Tòa án
như quy định trước đây, nhưng nhiệm vụ, quyền
hạn bị giới hạn ở các chức năng sau đây:
Một là, việc ban hành quyết định thi hành án
do Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban
hành theo đề nghị của Trưởng văn phòng thừa
phát lại (điểm a, Khoản 1, Điều 52, Nghị định số
08). Như vậy, được hiểu là trong mọi trường hợp
khi thừa phát lại muốn tổ chức thi hành án dân sự
thì phải được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự ra quyết định thi hành (Trưởng văn phịng
thừa phát lại khơng được ban hành quyết định
thi hành án nữa mà chỉ có chức năng “đề nghị”
của cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành
án). Thừa phát lại tổ chức thực hiện theo nội
dung quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự. Văn phòng thừa phát lại và thừa phát
lại khơng có thẩm quyền ban hành quyết định thi
hành án trong mọi trường hợp.
Hai là, khi tổ chức thi hành án, thừa phát lại
không được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây (Khoản 2, Điều 52, Nghị định số 08): a)
Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện
pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 66,
Điều 71, của Luật thi hành án dân sự; b) Sử dụng
công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo
quy định tại Khoản 9, Điều 20 của Luật thi hành
án dân sự; c) Xử lý vi phạm hành chính; d) u
cầu Tịa án xác định, phân chia, xử lý tài sản
chung để thi hành án theo quy định tại Điều 74



Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

của Luật thi hành án dân sự; đ) Yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại
Khoản 2, Điều 75 của Luật thi hành án dân sự; e)
Các quyền yêu cầu Tịa án xác định người có
quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ;
xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi
hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu
hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải
quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản
theo quy định tại Khoản 4, Điều 68, Khoản 3,
Điều 69 và Khoản 2, Điều 102 của Luật thi hành
án dân sự.
Như vậy, đối với chức năng thi hành án dân
sự của thừa phát lại mặc dù vẫn còn, nhưng đã bị
hạn chế cơ bản, chỉ còn lại các chức năng được
hiểu là khá “đơn giản”. Nội dung công việc thừa
phát lại được thực hiện trong thi hành án dân sự
chỉ bao gồm 04 nhóm việc được quy định tại các
điểm a, b, c, d, Khoản 4, Điều 55 của Nghị định
số 08 như sau: Xác minh điều kiện thi hành án;
tổ chức thi hành án; thỏa thuận về thi hành án;
thanh toán tiền thi hành án.
Đối với việc tổ chức thi hành án của thừa
phát lại chỉ là: “Mời đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến giải quyết việc thi
hành án”. Chỉ ở phạm vi vận động, thuyết phục

người phải thi hành án để họ tự nguyện thi hành.
Trường hợp đương sự đồng ý thi hành thì thừa
phát lại thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo về thỏa
thuận thi hành và thanh toán tiền thi hành án theo
quy định. Thừa phát lại không được áp dụng các
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành
án quy định tại Luật thi hành án dân sự như các
chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
Vấn đề đặt ra ở đây cần trao đổi là: Tại sao
không trao quyền cho thừa phát lại được tiếp tục
thực hiện chức năng thi hành án dân sự một cách
đầy đủ như quy định trước đây khi thực hiện thí
điểm thừa phát lại ở cả hai giai đoạn? Nhất là
việc cắt giảm chức năng thực hiện biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án? Về vấn
đề này có các quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Việc trao thẩm quyền
về thi hành án dân sự nên trao giới hạn ở phạm
vi nhất định. Không nên trao cho thừa phát lại
thực hiện biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng
chế thi hành án bởi những lập luận sau đây:

(1) Thực tế hoạt động của các Văn phòng
thừa phát lại trong những năm qua thực hiện các
biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế thi
hành án còn rất hạn chế, chưa làm được nhiều.
(2) Về địa vị pháp lý của chấp hành viên (là công
chức nhà nước) khác với thừa phát lại (không
phải là công chức nhà nước, tư nhân làm nghề tự
do), cho nên vê quyền hạn khơng thể giống nhau

được. Có nghĩa là nhiệm vụ, quyền hạn của thừa
phát lại không thể như chấp hành viên được.
Nhất là trong lĩnh vực áp dụng các biện pháp bảo
đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự. (3) Việc kê
biên, đặc biệt là việc cưỡng chế trong thi hành án
có huy động lực lượng bảo vệ (cảnh sát hỗ trợ tư
pháp) là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, cưỡng chế thi hành án dân sự là hình thức
cưỡng chế dân sự, một trong những hình thức
cưỡng chế nhà nước. Trong khi đó, Văn phòng
thừa phát lại là tổ chức tư nhân, hoạt động theo
mơ hình doanh nghiệp (Khoản 1, Điều 17, Nghị
định số 08). Theo đó, thừa phát lại (người trực
tiếp tổ chức thực hiện việc thi hành án dân sự) lại
không phải là cán bộ, cơng chức hoặc chí ít là
viên chức nhà nước, nên không thể thay mặt Nhà
nước thực hiện cưỡng chế được.
Mặt khác, họ cho rằng: thừa phát lại là tư
nhân, đã là tư nhân thì việc sử dụng lực lượng
công quyền (Cảnh sát hỗ trợ tư pháp) để bảo vệ
cho việc làm của tư nhân là không hợp lý. Công
quyền chỉ hỗ trợ công quyền khi thi hành công vụ.
Quan điểm thứ hai: Giữ nguyên về thẩm
quyền thi hành án dân sự của thừa phát lại như
quy định của Nghị định số 61 và Nghị định số
135 trước đây. Trong đó có cả chức năng cưỡng
chế thi hành án có huy động lực lượng. Luận cứ
của quan điểm này là:
Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương “… phát
triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để

tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu
thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình… từng bước thực hiện xã
hội hóa và quy định hình thức, thủ tục để giao
cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực
hiện một số công việc thi hành án dân sự” (Nghị
Quyết số 49/NQ-TW năm 2005 của Bộ chính trị).
Như vậy, phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt
động bổ trợ Tư pháp. Việc trao quyền cho thừa


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

phát lại tổ chức thi hành án là nhằm thực hiện
chủ trương này của Đảng. Xã hội hóa cơng tác
thi hành án dân sự để vừa giảm tải cho cơ quan
thi hành án dân sự, vừa bảo đảm cho các đương
sự có quyền, có điều kiện được lựa chọn “người”
thi hành án cho họ một cách tốt nhất, hiệu quả
nhất (có thể lựa chọn cơ quan thi hành án dân
sự - Nhà nước hoặc thừa phát lại - tư nhân).
Quan điểm của tác giả, đồng tình với quan
điểm thứ hai, bởi các cơ sở lý luận pháp lý sau
đây:
Thứ nhất, về chủ trương xã hội hóa hoạt
động thi hành án dân sự của Đảng và Nhà nước
ta là hồn tồn đúng, có tính chiến lược, phù hợp
với điều kiện của nước ta hiện nay cũng như lâu
dài, phù hợp với xu thế thời đại. Các quốc gia
phát triển như: Cộng hòa liên bang Đức, Cộng

hòa Pháp, Nhật bản… đã thực hiện mơ hình này
từ lâu. Về bản chất, hoạt động thi hành án dân sự
là một dạng hoạt động “dịch vụ công” thuộc chức
năng của Nhà nước. Thực ra, Nhà nước phải đảm
đương thực hiện dịch vụ này cho xã hội (tổ chức
- công dân). Tuy nhiên, với triết lý, hoạt động
dịch vụ công “ai” làm tốt thì trao cho họ làm. Có
thể là Nhà nước hoặc tư nhân làm dịch vụ này.
Vấn đề còn lại là chất lượng dịch vụ thế nào và
việc quản lý của Nhà nước ra sao? Chúng ta đã
và đang thực hiện song song hai nền hành chính:
nền hành chính cơng (do các cơ quan cơng quyền
thực hiện) và nền hành chính tư (do các tổ chức
tư nhân – ngoài Nhà nước) thực hiện. Nền hành
chính tư (như: cơng chứng, thừa phát lại, thẩm
định giá, đấu gía tài sản…) từng bước khẳng
định được vai trị của mình trong đời sống xã hội.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ của thừa
phát lại. Cũng như một số hoạt động bổ trợ tư
pháp khác như: Cơng chứng, Đấu giá do tư nhân
(Văn phịng cơng chứng, Công ty đấu giá…) họ
thực hiện chức năng trên cơ sở phái sinh từ
quyền lực cơng. Hay nói cách khác, được nhà
nước ủy quyền (trao quyền) cho các chức danh
này (tư nhân), thay mặt cho quyền lực nhà nước
thực hiện một số loại hình dịch vụ cơng (lẽ ra
các cơ quan nhà nước phải đảm nhiệm toàn bộ).
Việc ủy quyền của Nhà nước cho các chức danh
này thông qua các quy định của pháp luật. Luật
thì lại do Quốc hội ban hành. Quốc hội là cơ quan


quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt nam. Như vậy, hình thức và
nội dung ủy quyền này là ủy quyền “đẳng cấp –
giá trị pháp lý cao nhất” trong các hình thức ủy
quyền pháp lý.
Thứ ba, về quan điểm cho rằng thừa phát lại
là tư nhân (ngoài Nhà nước) khi thực hiện chức
năng cưỡng chế thi hành án dân sự có huy động
lực lượng cơng an (quyền lực công) để hỗ trợ,
bảo vệ là không hợp lý. Tác giả khơng đồng tình
với quan điểm này. Bởi lẽ: theo quy định của
Luật Công an nhân dân năm 2018, Điều 16 quy
định về: “Nhiệm vụ và quyền hạn của Cơng an
nhân dân”, Khoản 2 quy định: “Chủ động phịng
ngừa… Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của
công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”. Mặt khác, Khoản 8,
Điều 16, Luật Công an nhân dân năm 2018 quy
định: “Thực hiện quyền quản lý về thi hành án…
Bảo vệ phiên tòa và thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tư
pháp theo quy định của pháp luật”. Khoản 2,
Điều 169 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy
đinh về: “Nhiệm vụ, quyền hạnh của Bộ Công an
trong thi hành án dân sự” đã quy định rõ: “Chỉ
đạo cơ quan Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành
án, phối hợp bảo vệ kho vật chứng của cơ quan
thi hành án dân sự trong trường hợp cần thiết”.
Như đã phân tích ở phần trên, về bản chất,

chức năng của thừa phát lại là thực hiện chức
năng của Nhà nước, dịch vụ công, trên cơ sở
được Nhà nước ủy nhiệm để làm việc của Nhà
nước trong thi hành án dân sự. Mặt khác, cơ quan
cơng an có chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ
dân chúng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức và cơng dân… Vậy tại sao lại
không hỗ trợ, bảo vệ thừa phát lại trong việc thực
thi chức năng của Nhà nước. Cụ thể là hiện thực
hóa những bản án, quyết định của Tòa án trong
đời sống xã hội. Hoạt động này là hoàn toàn phù
hợp với chức năng của cả thừa phát lại và lực
lượng Cơng an nhân dân. Cách nhìn nhận, tiếp
cận vấn đề như vậy mới phù hợp với bản chất
của Nhà nước ta là Nhà nước “phụng sự nhân
dân”, Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thứ tư, về vấn đề quản lý, kiểm soát của Nhà
nước đối với thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành


Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

án dân sự. Chúng tơi xin được phân tích quản lý
nhà nước dưới hai giác độ;
Quản lý nhà nước về hành chính, tổ chức –
nhân sự. Cũng như các chức danh Tư pháp khác,
luật sư, công chứng… Thừa phát lại, mặc dù là tư
nhân, làm nghề tự do nhưng Nhà nước quản lý từ
khâu đào tạo, bồi dưỡng, tập sự, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cấp thẻ hành nghề… đến xử lý vi phạm,

giải quyết khiếu nại, tố cáo… Đối với Văn phòng
thừa phát lại Nhà nước quản lý từ khâu cho phép
thành lập, đăng ký hoạt động, chấm dứt, thu hồi
quyết định thành lập, chế độ thơng tin, báo cáo…
Nhìn chung, Nhà nước quản lý rất chặt chẽ đối
với tổ chức và chức danh thừa phát lại.
Quản lý nhà nước đối với thừa phát lại trong
quá trình tác nghiệp thi hành án dân sự. Kể từ khi
làm thí điểm mơ hình thừa phát lại ở nước ta theo
tinh thần của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/07/2009; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày
18/10/2013 sửa đổi, bổ sung Nghị định số
61/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC của Bộ Tư
pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tài chính đã quy định về
việc quản lý khá chặt chẽ đối với việc thừa phát
lại thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự, với
các cơ chế kiểm soát gồm: (1) Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật: Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tống đạt; việc thi
hành án theo quy định của pháp luật; có quyền
kháng nghị quyết định, hành vi vi phạm pháp luật
của Trưởng Văn phòng thừa phát lại, thừa phát
lại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm (Điều
21, 22 Thông tư số 09). (2) Cơ chế kiểm tra về tổ
chức và hoạt động của Văn phòng thừa phát lại
do Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan

chức năng giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện. Công tác thanh tra đối với tổ chức và hoạt
động của Văn phòng thừa phát lại được thực hiện
theo quy định của pháp luật về thanh tra (Điều
23 Thông tư số 09). (3) Đặc biệt là đối với hoạt
động cưỡng chế thi hành án có huy động lực
lượng bảo vệ được kiểm soát bằng cơ chế pháp lý
rất chặt chẽ. Trong trường hợp này, Văn phòng

thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng
Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp huyện nơi
đặt Văn phòng thừa phát lại. Trên cơ sở ý kiến
của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, Văn phòng
thừa phát lại lập kế hoạch cưỡng chế, báo cáo
Cục trưởng Cục thi hành án dân sự, kèm theo hồ
sơ thi hành án để Cục trưởng Cục thi hành án dân
sự xem xét, phê duyệt kế hoạch cưỡng chế và ra
quyết định cưỡng chế thi hành án (Mục 14 Nghị
định số 135).
Như vậy, có thể nói, quy định trước đây có
những cơ chế kiểm soát rất chặt chẽ từ nhiều giác
độ khác nhau đối với tổ chức và hoạt động của
thừa phát lại trong tất cả các hoạt động, nhất là
hoạt động thi hành án dân sự. Với cơ chế này,
vừa đảm bảo thực hiện được chủ trương xã hội
hóa hoạt động thi hành án dân sự; vừa đảm bảo
môi trường hoạt động của thừa phát lại; vừa bảo
đảm được trật tự pháp luật trong hoạt động thi
hành án của thừa phát lại.
Thứ năm, theo quy định của Nghị định số

08/2020/NĐ-CP thì yêu câu về chất lượng của
thừa phát lại được nâng lên một bước đáng kể.
Điều kiện bổ nhiệm thừa phát lại phải đạt các tiêu
chí cao: 1) Là cơng dân Việt Nam; 2) Có bằng
tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chun ngành
luật; 3) Có thời gian cơng tác pháp luật từ 03 năm
trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng
tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành
luật; 4) Tốt nghiệp khóa đào tạo, được cơng nhận
tương đương đào tạo hoặc hồn thành khóa bồi
dưỡng nghề thừa phát lại quy định tại Điều 7 của
Nghị định này; 5) Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả
tập sự hành nghề Thừa phát lại. Như vậy, so với
trước đây, trước khi bổ nhiệm thừa phát lại thì
phải được đào tạo bài bản và tập sự chu đáo
(trước đây bồi dưỡng, đào tạo xong là bổ nhiệm).
Vậy mà chức năng thi hành án lại bị co lại về
phạm vi thẩm quyền.
3. Kiến nghị, đề xuất
Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra
một số đề xuất sau đây:
Một là, cần sớm nghiên cứu mạnh dạn mở
rộng thẩm quyền của thừa phát lại đối với chức
năng thi hành án dân sự. Cho phép thừa phát lại
được kê biên tài sản thi hành án, được tổ chức
cưỡng chế thi hành án dân sự, kể cả cưỡng chế có


HỌC VIỆN TƯ PHÁP


huy động lực lượng bảo vệ, khơng như quy định
của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP mới đây.
Thông qua hoạt động thực tiễn này, một mặt giúp
cho đội ngũ thừa phát lại trưởng thành hơn. Mặt
khác, chúng ta có được kinh nghiệm để có những
giải pháp pháp lý thích ứng nhằm quản lý và
kiểm soát hoạt động thi hành án của thừa phát lại
được hiệu quả và thiết thực hơn. Khơng nên tư
duy theo hướng “khó quản” hoặc “sợ” thì “cấm”,
hoặc tư duy một chiều “tư nhân khơng được sử
dụng lực lượng công quyền để làm việc tư”…
Thực tế cho thấy, khơng giao việc, khơng có hoạt
động thực tiễn thì cũng khơng có kinh nghiệm
thực tiễn. Nhìn chung Nhà nước đã không tạo
điều kiện và môi trường pháp lý cho thừa phát

lại mới trưởng thành trong thi hành án dân sự.
Và sứ mệnh của thừa phát lại bao giờ mới gánh
vác được.
Hai là, cùng với việc trao quyền, chúng ta
ban hành và thực thi đồng thời các giải pháp
pháp lý như: Tăng tiêu chuẩn về điều kiện bổ
nhiệm thừa phát lại ở mức cao hơn hiện nay là:
thời gian tập sự không phải là 06 tháng, mà là 01
năm. Trong đó, tập sự về tống đạt và lập vi bằng
06 tháng; tập sự chuyên về thi hành án dân sự là
06 tháng. Mặt khác, cần kiểm định một cách
nghiêm túc thông qua các kỳ thi để xem xét bổ
nhiệm thừa phát lại, nhằm bảo đảm một cách tốt
nhất chất lượng thực sự của đội ngũ Thừa phát lại

khi được bổ nhiệm hành nghề./.

DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
(Tiếp theo trang 37)
Tuy nhiên, khi nhận di sản thờ cúng mà bà thẩm đều cơng nhận tính hợp pháp của di chúc cụ
Chín để lại, bà Liên đã không thực hiện đúng di Chín trong việc cho phép những người thừa kế
nguyện của bà Chín trong việc thực hiện nghĩa được bán di sản dùng vào việc thờ cúng. Di sản
vụ thờ cúng cha mẹ. Bản thân bà Liên cũng dùng vào việc thờ cúng khơng cịn, đồng nghĩa
khơng chứng minh được việc không thực hiện với chấm dứt việc thờ cúng. Như vậy, thực tiễn
nghĩa vụ là bất khả kháng. Do đó, Bản án dân sự xét xử đã hướng đến công nhận quyền chấm dứt
sơ thẩm số 1209/2014/DS-ST ngày 08/10/2014 việc thờ cúng của chính người để lại di sản. Về
của Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã vấn đề này, tác giả cho rằng, pháp luật dân sự cần
tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của bà Liên có văn bản hướng dẫn, ghi nhận việc chuyển
trong việc xác định di sản để lại là tài sản chung quyền sở hữu di sản thờ cúng theo ý chí người
của 10 người con của bà Nguyễn Thị Chín; mỗi để lại di sản là một trong những căn cứ chấm dứt
người được xác định phần quyền sở hữu là 1/10 việc thờ cúng, tạo cơ sở đưa di sản dùng vào việc
đối với tài sản chung này. Bản án dân sự sơ thẩm thờ cúng có thể trở thành đối tượng trong giao
cũng tuyên chấp nhận yêu cầu của tám đồng thừa dịch dân sự.
kế, tuyên giao di sản dùng vào việc thờ cúng cho
Trong trường hợp người lập di chúc không
ông Sáu để ở và thờ cúng cha mẹ, nếu bán phải xác định điều kiện chấm dứt thờ cúng (khơng cho
được sự đồng ý của chín đồng thừa kế còn lại. phép chuyển quyền sở hữu di sản dùng vào việc
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 68/2015/DS-PT thờ cúng), quy định “phần di sản dùng để thờ
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Hội cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di
đồng xét xử phúc thẩm cũng đã nhận định giữ sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế
nguyên quyết định trên của Bản án sơ thẩm, buộc theo pháp luật” cần được làm rõ hơn. Đối với quy
bà Liên giao lại di sản cho ông Sáu thờ cúng, nếu định này, tác giả kiến nghị quy định rõ hơn “phần
bán phải được sự đồng ý của chín đồng thừa kế di sản dùng để thờ cúng thuộc quyền sở hữu của
còn lại13.

người đang quản lý hợp pháp di sản đó….”,
Trong vụ án tranh chấp về thừa kế giữa bà thông qua thủ tục phân chia di sản để xác định
Liên và ơng Sáu, cả Tịa sơ thẩm và Tòa phúc rõ tư cách sở hữu tài sản, đồng thời chấm dứt
13

Bản án dân sự số 68/2015/DS-PT ngày 10/04/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.



×