Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận án tiến sĩ) áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn huyện tiên du, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 84 trang )

HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN SƯỚNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,
TỈNH BẮC NINH

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

luan an


HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN SƯỚNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,
TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ



HÀ NỘI, 2020

luan an


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .......................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt................................................................. 7
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ..................................................... 19
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT CỦA TÒA
ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH ..................... 27
2.1. Tổng quan thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 27
2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt và nguyên nhân .......................................... 39
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT TÙ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CĨ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .............................................................. 56
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 59
KẾT LUẬN .......................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

luan an


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1. Tổng hợp hình phạt theo BLHS năm 2015 ............................. 22
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ......................................... 27
Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
(2015 - 2019) ......................................................................................... 29
Bảng 2.3. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 31
Bảng 2.4. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 32
Bảng 2.5. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 33
Bảng 2.6. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ........... 34
Bảng 2.7. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 35
Bảng 2.8. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................ 36
Bảng 2.9. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 2019) ..................................................................................................... 37
Bảng 2.10. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 2019) ..................................................................................................... 38
Biểu đồ 2.1: Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 28

Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 – 2019) ............... 31

luan an


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua gần 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, vẫn
còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường
mang lại là cơ sở phát sinh các loại tội phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong đó có tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài
sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong đó có địa bàn huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tội phạm xâm phạm về trật tự xã hội đang có xu
hướng diễn biến phức tạp hơn, gia tăng cả về số vụ phạm tội và tính chất
của tội phạm, tuy các loại án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
được kiềm chế, nhưng các loại thường án, án xâm phạm sở hữu vẫn chưa
có giải pháp, biện pháp ngăn chặn hiệu quả, nhất là loại tội phạm trộm cắp
tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những loại tội
phạm chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu,
cũng như chiếm tỷ lệ cao (án trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất) trong
cơ cấu tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.
Theo quy luật hàng năm vào dịp cuối năm, chuẩn bị đón năm mới,
dịp hè, dịp các giải bóng đá trong nước và quốc tế tổ chức thi đấu các loại
tội phạm trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài
sản sẽ gia tăng cả về số vụ và tính chất tội phạm. Đối tượng thực hiện
hành vi phạm tội có xu hướng trẻ hóa, đa phần là đối tượng lưu manh
chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự, có độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 30 tuổi,
phần lớn là nam giới, không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn

định, các đối tượng ln có xu hướng cấu kết chặt chẽ với nhau thành
băng nhóm, hoạt động liên tuyến, liên tỉnh.

1

luan an


Để phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này, việc nghiên
cứu các vấn đề lý luận, phân tích chế tài các quy định của Bộ luật hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, đánh giá
thực tiễn áp dụng hình phạt để từ đó đưa ra giải pháp hồn thiện quy định
đối với nhóm tội này theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và bảo
đảm áp dụng đúng đắn trong thực tiễn có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt.
Chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh” để thực hiện Luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước sự phức tạp của tình hình tội phạm, việc nghiên cứu, đề xuất
vận dụng các lý luận về khoa học hình sự, tố tụng hình sự cũng như tội
phạm học có vai trị rất quan trọng và nhận được sự quan tâm của nhiều
chuyên gia, nhà nghiên cứu. Áp dụng hình phạt tù nói chung và đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng đã được nhiều tác giá
tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích, cụ thể:
Lý luận và thực tiễn nghiên cứu về tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt được đề cập nhiều trong các cơng trình nghiên cứu khoa
học như: 2) ThS. Đinh Văn Quế với tác phẩm “Bình luận Bộ luật hình sự
Phần các tội phạm, Tập II, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu trong
Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản 2002;
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình

sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật, Hà Nội, 2000; v.v... 5) Lê Tường Vy, Trách nhiệm
hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài sản, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016...

2

luan an


Ở góc độ các Luận án tiến sĩ luật học liên quan đến lý luận và thực
tiễn về hình phạt và quyết định hình phạt, có Luận án về đề tài “Áp dụng
hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Tuyết Miên
đã bảo vệ thành công năm 2003. Ngồi ra cịn có các Luận văn thạc sĩ đã
bảo vệ tại khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: “Áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Minh Khuê bảo vệ năm 2007; đề tài “Áp dụng hình phạt
trong đồng phạm” của tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010, Luận
văn “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của Nguyễn Văn Chung, bảo vệ tại Học viện
Khoa học xã hội 2018; Luận văn “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của Nguyễn Thanh Liêm, bảo vệ
tại Học viện Khoa học xã hội 2019…
Như vậy, có thể nói, những bài nghiên cứu hoặc một số cơng trình
sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động áp dụng hình phạt tù, phân tích, đánh giá, nhận định một số
nhận định liên quan đến yếu tố áp dụng hình phạt tù, đồng thời phân biệt
với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc nghiên cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu… Tuy nhiên, hiện
nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt tù

đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên một địa bàn cụ
thể là địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận, quy định của pháp luật và đánh giá
thực tiễn áp dụng hình phát tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất

3

luan an


chiếm đoạt, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về hình phạt tù đối với loại tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích các quy định pháp
luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt
tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm lý luận, các
quy định của pháp luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng năm
năm (05 năm) từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm số liệu thống kê xét

xử sơ thẩm hình sự cấp huyện và các bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019;
- Về cơ sở pháp lý, đề tài đề cập các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt qui định tại Bộ luật hình sự năm 2015;
- Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện phân tích thực tiễn
trên phạm vi huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4

luan an


5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên nền tảng chủ nghĩa duy vật
lịch sử, biện chứng, chủ trương, đường lối của Đảng, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách hình sự và cải cách tư pháp tại Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu, đề tài vận dụng các phương pháp nghiên
cứu của khoa học hình sự, tố tụng hình sự như phương pháp lịch sử, logic;
phương pháp so sánh, đánh giá các số liệu, ý kiến, quan điểm; nghiên cứu
các vụ án điển hình, các vụ việc điển hình... Tác giả đã sử dụng phương
pháp thống kê để thống kê số liệu về tội phạm và người phạm tội, từ đó để
xác định các thơng số của tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hồn thiện lý luận
về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Luận văn góp tiếng nói khoa

học về lý luận áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm
rõ hơn những vi phạm, sai lầm cũng như những nguyên nhân cơ bản của
của những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh, từ đó có những đề xuất, kiến nghị thay đổi của luận văn có
5

luan an


thể làm luận chứng khoa học phục vụ tốt hơn cho công tác lập pháp, áp
dụng BLHS liên quan đến nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trong cơng
tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt
tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt của Tịa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù
đúng đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

6

luan an



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CĨ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
Theo lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì áp dụng
pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện
pháp luật. Thơng qua đó, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp
luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của
chủ thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các
quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa đã và đang được thiết lập. Có thể nói, áp
dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước
và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
[3].
Theo Nguyễn Ngọc Chí đã đưa ra định nghĩa khoa học về QĐHP
như sau: “Áp dụng hình phạt là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình
sự do Tịa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã
định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định
khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức
hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới
hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy

7

luan an



hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người
phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự” [3, tr.19] .
Tuy vậy, về vấn đề này trong khoa học luật hình sự trong và ngồi
nước từ trước đến nay vẫn cịn tồn tại hai loại quan điểm khác nhau. Nhìn
chung, các quan điểm đó có thể được chia thành ba loại: 1) Coi hình phạt
là công cụ trừng trị, trả thù người phạm tội; 2) Coi hình phạt là cơng cụ
phịng ngừa tội phạm; 3) Coi hình phạt khơng chỉ trừng trị người phạm tội
mà cịn là cơng cụ phịng ngừa tội phạm.
Ngun tắc pháp chế khơng chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà
còn thể hiện ở hiệu lực thi hành của hình phạt. Nghiên cứu cho thấy, trong
các blĩnh vực khác khơng phải hình sự khơng bắt buộc Tịa án phải giải
quyết, các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, khơng thơng
qua Tịa án. Cịn trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án phải thơng
qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm
ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình
sự có ảnh hưởng rất lớn đến người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc
quyết định hình phạt như đã trình bày ở trên. Vì thế, tồn bộ q trình tố
tụng hình sự đưa đến việc Tịa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội
phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành
quyền công tố của Nhà nước, thay mặt Nhà nước truy tố bị can và buộc
tội bị cáo trước Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình
tự luật tố tụng hình sự quy định. Hình phạt do Tịa án quyết định phải
được tun một cách cơng khai bằng một bản án và phải là kết quả của
một phiên tịa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố tụng
hình sự quy định.
8


luan an


Từ khái niệm chung nêu trên, theo chúng tôi, “ADHP đối với các
tội
1.1.2. Nội dung áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt
1.1.2.1. Đặc điểm chung của nhóm tội phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Cũng giống như tất cả các tội phạm khác quy định trong Luật hình
sự, nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có những đặc điểm
chung thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên sự thể hiện các
đặc điểm này có sự khác nhau vì nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt có tính đặc trưng của loại tội phạm mà nó thể hiện.
Các đặc trưng của nhóm tội xâm phạm này như sau:
Đặc trưng đầu tiên của nhóm tội phạm này là tính chất chiếm đoạt
trong q trình phạm tội, tức là mục đích chiếm đoạt tài sản trong cấu
thành tội phạm mà không phải tội phạm liên quan đến xâm phạm sở hữu
nào cuãng có. Đồng thời, chúng ta có thể hiểu việc chuyển dịch trái pháp
luật tài sản có sự quản lý của của người khác (có chủ sở hữu) thành tài sản
của mình thơng qua mục đích hành động, hành vi của người phạm tội.
Thông qua các cách thức, phương pháp khác nhau (thủ đoạn), tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đặc điểm chung của tội
phạm về xâm phạm sở hữu. Các hành vi phạm tội luôn là hành động cố ý
trực tiếp với mục đích biến tài sản có chủ sở hữu thành tài sản của mình
thơng qua hành động cụ thể.
Việc xác định chính xác hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định thời điểm tội phạm hồn thành (khơng xem xét dấu hiệu giá trị tài
9


luan an


sản chiếm đoạt cũng như các dấu hiệu khác về bị xử phạt vi phạm hành
chính, có tiền án về hành vi chiếm đoạt…) đối với các tội mà dấu hiệu
chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội cụ
thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Bên cạnh đó, khi
xem xét thời điểm hồn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời
điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc. Theo khoa học
luật hình sự, thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã
thực sự chấm dứt; tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã
thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Xem xét việc chiếm đoạt là một quá trình vào quy định đối với từng
tội phạm cụ thể thấy rằng, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực
hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội nhận tài sản từ người phạm
tội nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt qua đúng quy trình bên
trên. Tức là, người phạm tội tiếp cận tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian
dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt. Đối với các tội cướp
giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không nhận
tài sản từ người phạm tội và người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự
chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt
thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi chiếm giữ cũng
là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt là
một. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ
người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản khơng có sự chứng kiến của
người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp
cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà khơng có hành vi chiếm giữ tài sản.
Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan
của tội phạm nói chung và đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt nói riêng.
10

luan an


Có thể nói, yếu tố xác định “lỗi” là một nguyên tắc cơ bản trong
pháp luật hình sự Việt Nam, nên trong các văn bản luật hình sự của nước
ta khi định nghĩa về tội phạm đã nêu rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”.
Như vậy, theo khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật
hình sự thì hành vi tội phạm chỉ được thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý.
Luật hình sự Việt Nam khơng thừa nhận hình thức lỗi thứ ba, nhưng trong
một số cơng trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến hình thức
lỗi thứ ba, đó là “lỗi hỗn hợp” tức là vừa vô ý vừa cố ý hoặc cố ý về hành
vi, vô ý về hậu quả. Có thể trong cơng tác nghiên cứu bản chất của các
hình thức lỗi, có thể đặt vấn đề một người thực hiện hành vi vừa cố ý lại
vừa vô ý (cố ý về hành vi vô ý về hậu quả) như đối với người cố ý vi
phạm các quy định về phịng cháy (có biển cẩm lửa nhưng vẫn hút thuốc)
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (cháy kho xăng), nhưng việc gây
thiệt hại đến tài sản họ không mong muốn. Trong trường hợp này, lỗi của
người phạm tội cũng chỉ là lỗi vô ý chứ không thể nói cố ý được vì nếu cố
ý thì phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chứ khơng cịn là vơ ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nữa.
Ngồi ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định rõ, nhưng về lý luận
cũng như thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội
phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng có một số
trường hợp cụ thể tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là
tội phạm vì người thực hiện hành vi khơng có lỗi như: Tình trạng khơng

thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh
truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề
nghiệp hoặc trong sản xuất [28, tr.52-69]. Tuy nhiên, đối với các tội xâm
11

luan an


phạm sở hữu, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì khơng có
lỗi ít xảy ra.
Thứ ba, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt gây ra có thể là hậu quả kép do xâm phạm hai loại quan hệ xã hội:
thiệt hại chủ yếu là về tài sản nhưng cịn có thể xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm đến trật tự an
toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức.
Điều này được thể hiện rất rõ, khi tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt khi xảy ra thì ngồi thiệt hại về tài sản, tội xâm phạm
sở hữu có tính chất liếm đoạt cịn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của người bị hại; xâm phạm đến trật tự an toàn xã
hội, khu dân cư; xâm phạm đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ
chức...
1.1.2.2. Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Cũng như các loại tội phạm xâm phạm sở hữu khác, tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt sẽ bị áp dụng hình phạt từ khi các dấu hiệu
phạm tội đủ để cấu thành tội danh với đầy đủ các điều kiện để Tòa án
nhân dân quyết định hình phạt tù sau khi định tội danh. Cụ thể là:
Đầu tiên, Toà án nhân dân các cấp nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án được
Viện kiểm sát chuyển sang qua đó xác định rõ các tình tiết của vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt liên quan đến q trình áp dụng hình

phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng. Đó là các tình tiết của vụ án mà
sau khi nghiên cứu, căn cứ vào pháp luật hình sự hiện hành có thể làm căn
cứ cho việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với bị cáo; các
tình tiết của vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là căn cứ để
12

luan an


áp dụng hình phạt tù như các tình tiết thể hiện tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã bị kết tội,
các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
liên quan đến vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra,
Toà án nhân dân các cấp phải xác định các tình tiết khác trong quá trình
xét xử, thu thập bổ sung chứng cứ để quyết định có ADHP trong các
trường hợp đặc biệt liên quan đến tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt (đồng phạm, phạm tội chưa đạt, áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định
của luật, cho hưởng án treo…) hay không.
Thứ hai, Toà án nhân dân theo nhiệm vụ cần nhận thức chính xác
hiệu lực và quy định của pháp luật hình sự hiện hành liên quan đến việc
ADHP tù đối với xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, nhất là chế
tài của tội phạm của phần chung và phần cụ thể. Trong BLHS hiện hành
của nước có rất nhiều quy định liên quan đến ADHP tù đối với các tội
phạm nói chung và xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt mà Tồ án
khơng thể bỏ qua khi áp dụng trong quá trình xét xử như hệ thống các
hình phạt chính và hình phạt bổ sung, nội dung cũng như phạm vi, điều
kiện áp dụng các hình phạt đó đối với từng loại tội phạm cụ thể, trong đó
có tội phạm về xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; các quy định về
căn cứ QĐHP mà Tòa án nhân dân cần phải pháp dụng khi ADHP tù đối

với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; đặc biệt là chế tài các
quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm cụ thể đã được Tồ án
xác định trước đó.
Thứ ba, nội dung tiếp theo là việc Toà án nhân dân lựa chọn ADHP
tù đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt: có căn cứ
miễn TNHS, miễn hình phạt hay khơng trên cơ sở các tình tiết vụ án,
13

luan an


chứng cứ được thu thập trong hồ sơ; nếu không có căn cứ miễn thì loại và
mức hình phạt tù cụ thể áp dụng đối với người bị kết tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt;
Thứ tư, ra phán quyết về việc ADHP tù đối với người bị kết tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Đồng thời trong một số trường hợp,
Toà án nhân dân cũng quyết định về việc chấp hành hình phạt tù được áp
dụng như hỗn chấp hành hình phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện (án treo)... tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Từ những nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng ADHP tù đối với
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là giai đoạn áp dụng pháp
luật hình sự sau hoạt động định tội danh của Tòa án đối với tội phạm này;
còn QĐHP chỉ là một nội dung cụ thể của hoạt động ADHP tù đổi với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Vì vậy, nên chăng, từ góc độ
đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật nói dung và ADHP tù nói riêng,
cùng với khái niệm định tội danh, nên sử dụng khái niệm ADHP để bảo
đảm tính chính xác của thuật ngữ, qua đó có tính chất bao trùm.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
Qua việc nghiên cứu khái niệm và nội dung ADHP tù, chúng tôi

thấy ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt chỉ thuộc thẩm quyền của Tịa án nhân dân
các cấp và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động định tội danh của loại tội
phạm này. Nếu như hoạt động định tội danh của tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt được các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
14

luan an


cùng thực hiện và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng hình sự thì hoạt
động ADHP tù đối với tội phạm này chỉ duy nhất Tòa án được quyền thực
hiện theo quy định của hiến pháp và pháp luật hình sự. Thơng qua chức
năng xét xử, Tịa án được Nhà nước giao cho chủ thể duy nhất có quyền
xác định loại hình phạt và mức hình phạt để áp dụng với người phạm tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nên hoạt động này chỉ thông
qua phiên tịa.
Thứ hai, BLHS có qui định về các căn cứ để Tịa án ADHP, tức là
những tiêu chí mà dựa vào đó, Tịa án sẽ lựa chọn được loại hình phạt và
mức hình phạt phù hợp với trường hợp cụ thể của mỗi bị cáo, trên cơ sở
đánh giá tổng thể các yếu tố về khách quan, chủ quan, về con người, tâm
lý... với mục đích đạt được là hình phạt tù sẽ không chỉ là “cái giá” mà bị
cáo phải gánh chịu do hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
của mình mà cịn là “cơ hội” để bị cáo đó có khả năng phục thiện, tái hóa
nhập cộng đồng sau khi thực hiện các quyết định của Tòa án.
Thứ ba, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt của Tồ án nhân dân mang tính lựa chọn và tính tuỳ nghi cao.
Khi ADHP tù, Toà án nhân dân sẽ lựa chọn một trong các hình phạt chính

được quy định trong pháp luật hình sự hiện hành đối với người bị kết tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngồi ra, chế tài Tịa án lựa
chọn, các chế tài quy định về từng loại hình phạt tù đều có một khoảng
tuỳ nghi nhất định và Tồ án có quyền quyết định mức cụ thể trong phạm
vi tuỳ nghi đó khi ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt. Khả năng lựa chọn rộng, tuỳ nghi cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ
tham gia tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải có trình
độ, kỹ năng, phẩm chất và bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng và
lương tâm, đạo đức trong sáng vì cơng lý... để có thể trong từng trường
15

luan an


hợp cụ thể lựa chọn hình phạt tù hợp lý áp dụng với người bị kết tội tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật hình sự hiện
hành.
Thứ tư, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt cịn có điểm đặc thù so với việc ADHP tù đối với nhóm các tội
phạm khác xuất phát từ đặc điểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt. Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp người khác, thực hiện
dưới hình thức lỗi cố ý, vô ý gây thiệt hại không chỉ về tài sản cho cá
nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
con người.
1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.4.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Ý nghĩa của ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt thể hiện trong lĩnh vực chính trị - xã hội là tăng cường phòng
ngừa, phòng chống tội phạm nếu việc ADHP tù của Tòa án thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật và chức năng xét xử của Tòa án. Việc
ADHP hiệu quả, đúng người, đúng tội, tương ứng với hình phạt phù hợp
thì sẽ thể hiện được tính hiệu lực của hình phạt. Mối quan hệ chặt chẽ
giữa sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình sự và hiệu
quả ADHP tù đối với tội phạm nói chung và tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt là rất rõ. Nếu hệ thống văn bản pháp luật hình sự về tội
phạm, hệ thống văn bản pháp luật về tố tụng hình sự tồn diện và phù hợp
thì việc ADHP tù sẽ nhanh và bảo đảm được mục đích của hình phạt hơn.

16

luan an


Trong xã hội ta, tuyệt đại đa số nhân dân khơng vi phạm pháp luật
hình sự, khơng phải do sợ hình phạt mà lý do chính thuộc về ý thức tôn
trọng pháp luật và tinh thần đấu tranh không dung thứ của họ đối với tội
phạm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau mà xã hội cịn một bộ phận những cơng dân khơng vững vàng, dễ bị
lôi kéo vào con đường vi phạm pháp luật, thậm chí nghiêm trọng là phạm
tội. Với bộ phận công dân này, tác dụng răn đe và giáo dục của hình phạt
để ngăn ngừa tội phạm được đưa lên hàng đầu trong mục đích phịng ngừa
chung của hình phạt.
Bên cạnh đó, việc ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt khơng đúng hoặc có những sai sót trong q trình tố
tụng thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến bản thân nạn nhân cũng như người bị
kết án. Đồng thời, việc này cũng tạo ra những dư luận, những nhìn nhận
khơng hài lịng về cơ quan xét xử, ảnh hưởng đến uy tín và tính chất đại

diện Nhà nước của Tịa án trong cơng tác xét xử.
1.1.4.2. Ý nghĩa pháp lý
ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
là một hoạt động quan trọng của Tòa án nhân dân các cấp, thơng qua hoạt
động này các hình phạt cụ thể đã được BLHS quy định sẽ được áp dụng
đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến tội này.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nên Hiến pháp,
Luật tổ chức Tòa án, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự đều khẳng
định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử và quyết định hình phạt với
người phạm tội theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ ào quy định của Bộ luật Hình sự

17

luan an


và Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính
xác, khách quan, bảo đảm khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Theo quy định của pháp luật nước ta,
chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng hình phạt.
Quy định này cịn thể hiện sự thống nhất giữa tội phạm và hình phạt. Tội
phạm là cơ sở phải chịu hình phạt, ngược lại hình phạt là hậu quả pháp lý
của tội phạm nhằm trừng trị vào giáo dục người phạm tội, giáo dục người
khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phịng chống tội phạm. [41, tr.115116]. Trong BLHS hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các
tội phạm. Vì vậy, khi áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi khi xét xử về tội cụ thể nào của
Chương XIV thì trước hết phải căn cứ vào các điều luật cụ thể đó, ngồi
việc phải tn thủ các ngun tắc khác và các quy định khác của Hiến

pháp và pháp luật hình sự trong áp dụng hình phạt.
1.1.4.3. Ý nghĩa phịng ngừa
Mục đích của hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng
pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm. Nội dung của mục
đích này khơng nhằm vào người hoặc pháp nhân phạm tội mà nhằm vào
cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phịng ngừa. Mọi người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhìn vào hình phạt để có những xử sự
đúng đắn, tơn trọng pháp luật , nếu khơng họ cũng có thể bị xử phạt như
người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để
áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, đồng thời
nhắc nhở mọi người hoặc pháp nhân thương mại trong cộng đồng xã hội
chớ có phạm tội, nếu có ý định phạm tội thì phải dừng lại, nếu khơng
dừng ắt phải chịu hậu quả thích đáng. Đặt ra mục đích này vừa có tính răn
đe, vừa có tính chất giáo dục để mọi người hoặc pháp nhân thương mại
18

luan an


tránh xa nó. Do đó, Tịa án khơng được đề cao hay coi nhẹ mặt nào mà
phải đặt trong mối liên hệ tổng quát trên cơ sở các căn cứ áp dụng hình
phạt để áp dụng một hình phạt cụ thể tương xứng dành cho người đã thực
hiện hành vi phạm tội.
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối
với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.2.1. Quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến áp dụng hình
phạt tại phần chung
1.2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt tù
Theo quy định của BLHS hiện hành, hình phạt tù có thời hạn là việc
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời

hạn nhất định theo quy định của pháp luật đối với từng loại tội phạm. Như
vậy, về bản chất pháp lý hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế
tước quyền tự do của người bị kết án trong thời hạn do Toà án quyết định
trong phạm vi và giới hạn pháp luật quy định. BLHS hiện hành quy định
giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn: Thời hạn tối thiểu
của hình phạt tù là 03 tháng. Trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta, đã
có thời kỳ thời hạn tối thiểu của hình phạt tù được quy định ngắn hơn (01
tháng, 10 ngày, thậm chí 07 ngày). Sở dĩ như vậy là vì người ta cho rằng
phạt tù là hình phạt nghiêm khắc, nên tước tự do thân thể của một người ở
các mức độ đó là đủ để người phạm tội “trả giá” cho hành vi của mình.
Thời hạn tối đa của hình phạt tù được quy định khác nhau tùy từng tội
phạm cụ thể trong pháp luật hình sự hiện hành.
Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tù có thời hạn thì [21]:
1.Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt
tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.
19

luan an


2. Khơng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu
phạm tội ít nghiêm trọng do vơ ý và có nơi cư trú rõ ràng.
Điều 38 BLHS quy định tù có thời hạn đối với người phạm một tội
có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù.
So với hình phạt cải tạo khơng giam giữ thì tù có thời hạn trong
quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam có nội dung cưỡng chế
nghiêm khắc hơn nhiều và cơ sự trừng trị thích đáng theo đúng người,
đúng tội. Nếu như hình phạt cải tạo không giam giữ tác động đến người bị
kết án mà khơng cần phải cách ly họ khỏi xã hội thì đối với hình phạt tù
có thời hạn người bị kết án sẽ bị giam giữ trong một môi trường (trại

giam) chịu sự chi phối của những quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt
của pháp luật hình sự..
Trên cơ sở quy định chung, pháp luật hình sự hiện hành quy định
các chế tài cụ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với từng loại tội
phạm cụ thể theo quy định. Có thể thấy, đại đa số chế tài các tội phạm
thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng đều có quy định hình phạt tù có thời hạn với các mức án
khác nhau từ tối thiểu (03 tháng) đến tù chung thân.
1.2.1.2. Quy định về quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt: Các tội được quy định trong Bộ luật
hình sự 2015 quy định hình phạt đối với người phạm tội khá rộng chẳng
hạn như: Phạt cải tạo giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm ; Phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Vậy trong những trường
hợp này Hội đồng xét xử vụ án sẽ căn cứ vào những yếu tố nào để quyết
định hình phạt phù hợp với người phạm tội. Căn cứ quyết định hình phạt

20

luan an


đối với người phạm tội: Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
1. Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ vào quy định của Bộ
luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngồi căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều này, Tịa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành
của người phạm tội [21].

Hội đồng xét xử sẽ quyết định hình phạt dựa vào các yếu tố sau:
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
của bị cáo thông qua hồ sơ vụ án, hậu quả gây ra... Dấu hiệu này được thể
hiện qua động cơ phạm tội, yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, hung khí sử dụng khi
phạm tội…; Nhân thân người phạm tội, yếu tố này được xem xét thông
qua việc người phạm tội đã từng phạm tội hay chưa? Ý thức chấp hành
các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng; Các
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các trường
hợp tội phạm cụ thể. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nói chung sẽ được áp
dụng theo quy định tại điều 51, điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) [21]. Tuy nhiên những tình tiết này nếu đã được
coi là tình tiết xác định tội, định khung hình phạt thì khơng được coi là
tình tiết giảm nhẹ.
Như vậy tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự, bị cáo cần dựa vào 3
yếu tố chủ yếu ở trên để phản biện lại ý kiến của Đại diện viện kiểm sát…

21

luan an


×