Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Skkn biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng viết đoạn văn hay cho học sinh lớp 3 trong phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 24 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HẬU LỘC


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BIỆN PHÁP DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VIẾT ĐOẠN VĂN HAY CHO HỌC SINH
LỚP 3 TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
[

Người thực hiện: Trần Thị Lương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lộc Tân
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

HẬU LỘC, NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


2.2. Thực trang của vấn đề
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị, đề xuất

skkn

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
3
16
17
17
18


1

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Phân mơn Tập làm văn là một phân mơn có vai trị quan trọng trong việc

dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân mơn khó dạy trong
chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Dạy phân mơn Tập làm văn tốt tức là người
giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập đọc, Kể
chuyện, Luyện từ và câu, Tập viết, Chính tả. Chính vì thế mà phân mơn Tập làm
văn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt.
Đặc biệt, phân môn Tập làm văn lớp 3 chú trọng rèn bốn kỹ năng: nói,
nghe, đọc và viết. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn Tập làm văn bồi dưỡng
thái độ ứng xử có văn hố, tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, bồi dưỡng tình
cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.
Để thực hiện tốt mục tiêu của mơn học địi hỏi người thầy phải biết vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho
phù hợp với khả năng sử dụng ngơn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh. Trong giảng
dạy, giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh
giải quyết các tình huống và thơng qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh
hội được kiến thức của bài học. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học
tập, do vốn từ còn hạn chế nên học sinh cịn ngại nói, ngại viết. Vì vậy, tiết học
chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tế đó, tơi tiến hành nghiên cứu và thực
hiện đề tài: “Biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng viết đoạn văn hay
cho học sinh lớp 3 trong phân môn Tập làm văn” nhằm áp dụng trong giảng
dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp học sinh nắm chắc được những yêu cầu khi viết đoạn văn. Rèn kĩ
năng dùng từ, đặt câu, cách sử dụng dấu câu, các biện pháp tu từ, cách liên kết
câu. Từ đó, học sinh biết viết các đoạn văn hay, giàu hình ảnh, cảm xúc.
Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm u mến, gắn bó, biết trân trọng con
người và những cảnh vật xung quanh các em.
Giúp các em biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn ngữ văn bản,
đồng thời cũng là nền tảng cho các em viết theo hiểu biết của chính mình góp
phần đưa chất lượng viết văn đạt hiệu quả hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Xuất phát từ thực tế dạy và học nên tôi chỉ nghiên cứu ở học sinh lớp 3
trường Tiểu học Lộc Tân - Hậu Lộc.
- Nghiên cứu Sách giáo khoa, vở bài tập và những tài liệu tham khảo dành
cho phân môn Tập làm văn khối lớp 3.
- Phương pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3 qua phân
môn Tập làm văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Với đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát, đánh giá.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.

skkn


2

- Phương pháp so sánh.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh được thể hiện
thông qua các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết, Kể
chuyện và Tập làm văn. Trong đó Tập làm văn là phân mơn có tính tích hợp cao
về kiến thức cũng như kỹ năng mà học sinh đã lĩnh hội từ các phân mơn khác.
Tập làm văn cịn góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, luyện tư
duy logic, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ, hình thành nhân cách của học
sinh.
Các tác phẩm văn học là kết quả sự bộc lộ đầy tài năng, tâm tư tình cảm,
tư tưởng của người viết. Người viết cảm nhận qua quan sát cuộc sống, tích lũy
ngày càng làm giàu vốn văn học của mình bằng những biểu tượng, những hiểu

biết phong phú, sâu sắc về hiện thực muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống. Trong
mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng có điều bí ẩn, kỳ diệu, bao giờ cũng thấm
đượm một tinh thần nhân văn, một lý tưởng thẩm mỹ có khả năng lơi cuốn và
lay động lịng người.
Trẻ em được tiếp xúc với văn học từ những ngày trước khi các em bước
vào trường Tiểu học qua lời ru của mẹ, những câu chuyện kể li kì hấp dẫn của
bà… đã kích thích trí tưởng tượng của trẻ thơ. Hành trang ấy cùng theo các em
tới nhà trường. Đến trường các em đã được học kiến thức văn hoá, được học văn
học. Xong việc học văn ở mức “cơ sở ban đầu” cũng chỉ thực sự bắt đầu khi các
em bước vào lớp 3. Cảm xúc của các em dâng cao, các em đã có khả năng sáng
tạo văn. Nếu được học văn theo một chương trình đúng, phù hợp, một phương
pháp tốt sẽ phát huy được khả năng học tập môn Tiếng Việt của học sinh.
Việc dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 3 rất quan trọng song việc dạy cho
học sinh viết một đoạn văn trong phân mơn này là rất khó. Bởi một bài văn hoàn
chỉnh bao giờ cũng bắt đầu từ những câu văn, đoạn văn cụ thể. Mặc dù yêu cầu
khi viết văn đối với học sinh lớp 3 mới ở mức độ đơn giản, chưa địi hỏi học
sinh phải có bố cục 3 phần rõ ràng, các câu văn phải sinh động, giàu “ý tưởng”
(chủ yếu dừng lại ở việc viết đúng, trình bày rõ ràng, nối câu hợp lý…). Trong
đó có nhiệm vụ quan trọng đó là: bồi dưỡng óc thẩm mĩ, sự say mê văn học cho
các em là cơ sở ban đầu và nền móng cho việc học văn của các em ở những lớp
học, bậc học tiếp theo.
Làm thế nào để dạy học sinh lớp 3 viết đoạn văn được tốt, hay đó là mục
đích của đề tài này đặt ra.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng biện pháp.
2.2.1. Thực trạng của việc rèn kỹ năng nói - viết qua phân mơn Tập làm
văn lớp 3 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1.1. Thuận lợi.
a) Giáo viên.
- Bản thân luôn không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học phù
hợp mục tiêu dạy và học để dẫn dắt, rèn luyện học sinh thực hành những bài văn

nói - viết một cách độc lập, sáng tạo.

skkn


3

- Bản thân luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học.
Với mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và
tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên
cạnh đó, tơi ln động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng,
óc sáng tạo. Từ đó kích thích được sự tìm tịi ham học hỏi ở học sinh, hình thành
thói quen học tập tốt phân mơn Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: xem Tivi, đọc sách báo, tài
liệu… giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp dạy
học.
b) Học sinh.
- Nội dung chương trình mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm
văn nói riêng rất phong phú: kênh hình sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù
hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.
- Thơng tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm
theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo về cách đánh giá học sinh đã thể hiện được tính nhân
văn giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và có hứng thú học tập hơn.
2.2.1.2. Khó khăn.
a) Giáo viên:
- Một số giáo viên chưa thật sự đầu tư nhiều cho bài dạy, vì thế chưa khắc
sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh, chưa chú ý tập trung rèn kỹ năng cho
học sinh nhất là những học sinh đạt mức hoàn thành và chưa hồn thành. Đa số

khi dạy giáo viên cịn cho học sinh làm theo mẫu của cô mà không để cho học
sinh tự sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh.
- Hầu hết giáo viên chưa chú ý đến dạy cho học sinh cách viết bố cục
đoạn văn.
- Giáo viên còn thiếu chú ý đến việc dạy Tiếng Việt trên quan điểm giao
tiếp - tích hợp nên kết quả viết đoạn văn của học sinh chưa cao.
b) Học sinh:
- Tập làm văn là phân mơn khó so với các phân mơn khác trong mơn
Tiếng Việt, nhiều em cịn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các giờ học phân
môn này các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong chuyện. Cách
dùng từ, đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vân dụng bài văn mẫu để hình thành lối văn của riêng mình.
- Phần lớn các em chưa hiểu biết sâu rộng về nghĩa của các từ ngữ và bản
chất của câu văn nên khi các em viết một đoạn văn thường hay mắc lỗi diễn đạt
như: từ lặp lại nhiều lần, câu văn không rõ ý, ý khơng theo trình tự rất lộn xộn,
có nhiều em chỉ trả lời câu hỏi bằng cách gạch đầu dòng… mặc dù các em đã
được thực hành luyện viết câu, đoạn văn ngắn khá nhiều trong chương trình
Tiếng Việt 2.

skkn


4

- Viết câu chưa đúng. Nguyên nhân là do chưa nắm chắc cấu tạo câu. Mặt
khác học sinh chưa chú ý đến việc sử dụng đúng dấu câu dẫn đến việc dùng dấu
câu một cách bừa bãi, sai quy định, đánh dấu câu tuỳ tiện.
- Một số học sinh có năng khiếu cũng chưa chú ý một cách “đúng mức”
đến việc tập viết câu giàu giá trị nghệ thuật.

- Tình trạng chung của tất cả học sinh đó là các em chưa “say” học Tiếng
Việt và ngại viết văn.
2.2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng:
Ngay từ đầu năm học, tơi đã chú ý tìm hiểu về tình hình của lớp và thấy
rằng chất lượng phân môn Tập làm văn, đặc biệt là kỹ năng nói - viết chất lượng
học của học sinh cịn chưa cao. Vì vậy, tơi đã cho học sinh làm đề khảo sát vào
giữa tháng 10/2021 ở lớp 3A, 3B để nắm bắt việc học phân môn Tập làm văn
của học sinh. Sau khi khảo sát, tôi thu được kết quả như sau:

Lớp

3A
(Thực
nghiệm)

3B
(Đối
chứng)

Học sinh dùng từ
chưa hợp lí, câu
Tổng chưa rõ ý, viết
số HS đoạn văn còn sơ
sài.

Biết dùng từ, sắp xếp
Biết viết thành đoạn
ý hợp lí, viết câu đủ ý,
văn theo đúng yêu cầu,
và viết đoạn văn hồn

giàu hình ảnh, cảm xúc.
chỉnh.

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

33

5

15,1

24

72,7

4

12,2

33


5

15,1

23

69,7

5

15,2

Nhìn vào bảng thống kê chất lượng tôi thấy kết quả bài làm của học sinh
cả hai lớp 3A, 3B chưa cao. Đặc biệt là tỉ lệ phần trăm học sinh viết được đoạn
văn hay, giàu hình ảnh, cảm xúc chưa nhiều. Hiện tại, các em mới dừng lại ở
chỗ biết viết đoạn văn. Chính vì vậy, để giúp học sinh viết được đoạn văn hay
tôi đã áp dụng các biện pháp dưới đây.
2.3. Các biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn đạt hiệu quả trong phân
môn Tập làm văn lớp 3.
2.3.1. Cung cấp và mở rộng vốn từ, hướng đến học sinh viết câu hay
và sử dụng dấu câu hợp lí.
2.3.1.1 Cung cấp và mở rộng vốn từ cho học sinh.
Đối với học sinh Tiểu học, việc mở rộng vốn từ cho các em là vấn đề vô
cùng cần thiết. Nguồn cung cấp vốn từ chủ yếu cho các em là môn Tiếng Việt.
Khi dạy Tiếng Việt, việc mở rộng vốn từ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển ngôn ngữ ở các em học sinh. Thấy rõ tầm quan trọng
của vốn từ với hoạt động giao tiếp và học tập của học sinh, chương trình sách
giáo khoa tiểu học đã đặc biệt quan tâm đến việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
Và mỗi giáo viên cũng có cách dạy mở rộng vốn từ khác nhau (theo chủ đề, chủ


skkn


5

điểm, theo phương thức cấu tạo, theo từ loại…). Không dừng lại ở chỗ các em
học sinh nắm lí thuyết mà còn nắm vững quy tắc sử dụng từ Tiếng Việt.
Phần mở rộng vốn từ cho học sinh nằm chủ yếu trong nội dung phân mơn
“Luyện từ và câu”. Vì vậy, khi dạy phân môn Luyện từ và câu với nội dung: mở
rộng vốn từ. Bằng kĩ năng sư phạm của mình, tơi đặc biệt quan tâm “khai thác”
tối đa vốn từ sẵn có theo chủ điểm học tập và thực tế.
Chẳng hạn: Ở chủ điểm: Tới trường. Khi dạy bài Luyện từ và câu - Tuần
6 (Tiếng Việt 3 - tập 1) mở rộng vốn từ về trường học thì ngồi việc giúp học
sinh đưa ra một số từ ngữ rất dễ thấy đó là: giáo viên, học sinh, trường, lớp, bàn
ghế,... tơi đã giúp học sinh tìm ra được những từ ngữ chỉ tình cảm thầy trị, bạn
bè như: u thương, đồn kết, gắn bó, giúp đỡ, chăm sóc... bằng cách đặt câu
hỏi: “Em hãy nêu tình cảm mà thầy, cô dành cho em?”. Học sinh sẽ nêu ra một
số từ ngữ: chăm sóc, yêu thương, chỉ bảo, dạy dỗ,... (chú ý khuyến khích học
sinh tìm được nhiều từ đặc biệt là những từ gần nghĩa, cùng nghĩa).
b. Khi dạy các bài tập đọc (trong chủ điểm), ngoài câu hỏi trong sách giáo
khoa, tơi cịn đưa thêm câu hỏi thể hiện được nội dung của chủ điểm đó.
Chẳng hạn: Ở chủ điểm: Tới trường. Khi dạy bài tập đọc: “Nhớ lại buổi đầu đi
học” tôi giúp học sinh liên hệ thực tế bản thân từng học sinh qua các câu hỏi sau:

- Tìm một số từ ngữ trong bài nói về trường học?
- Ngày đầu đi học, em có tâm trạng như thế nào?
- Em hãy kể lại những kỉ niệm đáng nhớ về ngày đầu tiên đi học của em?
Từ đó, học sinh sẽ hiểu và mở rộng thêm được rất nhiều từ để vận dụng
khi viết đoạn văn “Kể về buổi đầu đi học” và chắc chắn học sinh sẽ viết tốt hơn.

c. Thông qua các phần học, bài học, mơn học, tơi đã kích thích được sự
tìm tịi, khám phá của học sinh về cách dùng từ đúng, hay và tác dụng của việc
dùng từ đúng, hay đó.
Chẳng hạn: Nhận xét về cách sử dụng từ được gạch chân trong đoạn văn sau:

“Tiếng ve kêu rền rĩ. Tiếng kéo lách cách của những người bán thịt bị
khơ. Tiếng cịi ơ tơ xin đường gay gắt, tiếng còi tàu hoả thét lên và tiếng bánh
sắt lăn trên đường ầm ầm”.
(Âm thanh thành phố - Tiếng Việt 3 - Tập 1)
(Học sinh hiểu được những từ gạch chân là những từ tả âm thanh. Đoạn
văn có nhiều từ chỉ âm thanh cho ta thấy được cuộc sống ồn ào, náo nhiệt của
thành phố).
Đối với học sinh có năng khiếu trong viết văn, tơi có thể mở rộng thêm
để học sinh làm quen với dạng bài cảm nhận về giá trị của từ ở mức độ khó hơn.
Chẳng hạn: Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ được gạch chân trong 2
câu thơ sau:
Cỏ non xanh tận chân trời.
Cỏ non xanh rợn chân trời.
(Tôi giúp học sinh nhận biết dùng từ “rợn” có giá trị gợi tả, biểu cảm hơn
rất nhiều so với dùng từ “tận” vì nếu viết câu: “Cỏ non xanh tận chân trời” thì
chỉ là một bức tranh thiên nhiên rộng. Cịn viết câu: “Cỏ non xanh rợn chân trời”
thì ngồi ý nghĩa của bức tranh thiên nhiên rộng còn thể hiện được cảm xúc, tình
cảm của người viết trước cảnh vật).

skkn


6

d. Mặt khác để học sinh viết được câu đúng (đúng về ngữ nghĩa) thì học

sinh phải hiểu được nghĩa của từ. Từ đó học sinh tránh nhầm lẫn.
Chẳng hạn: Để chỉ tính nết một học sinh nhanh nhẹn, lém lỉnh, đáng yêu
ta có thể sử dụng từ “láu lỉnh” để viết câu: “Bạn Nam lớp em rất láu lỉnh.”
(Lưu ý: Khi viết câu văn này, học sinh thường hay nhầm giữa từ “láu
lỉnh” với “láu cá”).
Nói tóm lại: Khi dạy học, giáo viên cần giúp học sinh có vốn từ phong
phú, hiểu nghĩa từ, tác dụng của từ, cách sử dụng từ.
2.3.1.2 Giúp học sinh viết câu đúng và hay.
Ở chương trình Tiếng Việt 3 hiện hành, học sinh nhận biết về câu, các
mẫu câu thông qua hệ thống ví dụ, bài tập cụ thể:
Đối với phần “câu” trong chương trình Tiếng Việt 3 hiện hành, học sinh
chỉ ơn lại các mẫu câu, bộ phận câu đã học ở lớp 2. Do vậy, tôi không đề cập
đến cách dạy học sinh phân tích các bộ phận câu cũng như cách nhận biết câu,
tác dụng của từng kiểu câu. Mà ở đây tôi sẽ đi vào cách hướng dẫn học sinh
rèn kỹ năng viết đúng (đúng cấu tạo, đúng nội dung) dựa trên việc học sinh đã
nắm được mẫu câu, dấu hiệu nhận biết cũng như tác dụng của từng mẫu câu,
kiểu câu và tôi tập trung nhiều vào việc rèn kỹ năng viết câu theo các mức độ
sau:
Mức độ 1: Tập viết câu đúng.
Câu viết đúng là câu có giá trị đầy đủ về nội dung thông báo. Bởi trước
khi có thể viết được câu văn hay có giá trị, gợi cảm, khơng rườm rà tối nghĩa thì
học sinh phải viết được câu đúng theo các kiểu câu đã học “Ai là gì? Ai làm gì?
Ai thế nào?”
Chẳng hạn:
Quê tôi rất đẹp.
Tôi đi học.
Để học sinh viết được câu đúng, tôi cần chú ý rèn cho các em đọc, nói câu
đúng. Vì chỉ khi học sinh nói thành câu thì viết thành câu mới có hiệu quả cao.
Chẳng hạn: Khi dạy bài tập đọc: Một mái nhà chung (Tiếng Việt 3 - Tập
2- trang 100).

Mái nhà của chim
Lợp nghìn lá biếc.//
Mái nhà của cá
Sóng xanh rập rình.//
Tơi hướng dẫn học sinh cách đọc vắt hai dịng thơ, vì chỉ có đọc như vậy
mới hiểu được nghĩa “đích thực” của câu thơ muốn diễn tả. Dạng bài tập này
học sinh chủ yếu dựa vào mẫu để thực hiện.
Mức độ 2: Tập chữa câu rườm, câu tối nghĩa.
Tác dụng của dạng bài tập này đó là học sinh nhận thấy câu văn viết rườm
rà, khó hiểu thì học sinh tránh khơng nên sử dụng vào viết đoạn văn của mình.
Chẳng hạn: Bác Lan chừng bốn mươi tuổi và bác Lan vẫn trẻ.
Trong trường hợp này, tôi cho học sinh nhận xét về cách viết câu hoặc lấy
ví dụ cụ thể từ những bài viết của học sinh để học sinh tự sửa sau khi nhận xét.
Tôi giúp học sinh sửa lại câu cho hay hơn:

skkn


7

Năm nay, bác Lan chừng bốn mươi tuổi mà nhìn bác vẫn tré so với độ
tuổi của mình.
Mức độ 3: Tập viết câu văn gợi tả, gợi cảm và sử dụng các biện pháp
nghệ thuật.
Chẳng hạn:
- Cánh đồng lúa rất xanh.
- Cánh đồng lúa xanh mơn mởn, màu xanh non ngọt ngào, thơm mát toả
ra mênh mông.
Chẳng hạn:
- Con đường dài và nhỏ.

- Con đường nhỏ, dài ngoằn ngoèo trông như những chú trăn khổng lồ
đang uốn lượn.
Ở dạng bài tập này, tơi đưa ra những ví dụ cụ thể đã tự chuẩn bị (như 2 ví
dụ trên) hoặc chắt lọc từ những bài viết của học sinh rồi cho các em nhận xét, so
sánh xem câu văn nào hay hơn từ đó khuyến khích học sinh có ý thức tập viết
câu văn giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm.
2.3.1.3.Giúp học sinh sử dụng dấu câu cho phù hợp.
Dấu câu là phương tiện ngữ pháp dùng trong chữ viết. Tác dụng của nó là
làm rõ một cấu tạo ngữ pháp, chỉ ranh giới giữa các câu, giữa các thành phần
câu, giữa các vế của câu. Dấu câu còn thể hiện ngữ điệu, cảm xúc trên câu văn
câu thơ. Cho nên, dấu câu không phải chỉ là một phương tiện ngữ pháp mà còn
là phương tiện biểu thị sắc thái tư tưởng, tình cảm thái độ của người viết. Dấu
câu dùng thích hợp thì bài viết được người đọc hiểu rõ hơn, nhanh hơn. Khơng
dùng dấu câu có thể gây ra hiểu nhầm. Có trường hợp vì dùng sai dấu câu mà
thành ra sai ngữ pháp, ngữ nghĩa. Cho nên, cần vận dụng quy tắc sử dụng dấu
câu cho đúng.Trong chương trình Tiếng Việt 3, phần học về dấu câu học sinh
chủ yếu ôn lại cách sử dụng các dấu câu đã học ở lớp 2: dấu chấm, dấu phẩy,
dấu chấm hỏi, dấu chấm than. Học sinh chỉ học thêm một loại dấu câu mới: dấu
hai chấm.
Để viết được câu đúng về cấu tạo theo mục đích nói thì học sinh cần phải
sử dụng được đúng dấu câu. Do vậy, đối với mỗi loại dấu câu tôi giúp học sinh
nắm chắc được cách sử dụng và tác dụng của nó. Cần cho học sinh luyện tập,
thực hành nhiều về cách sử dụng dấu câu ở bất cứ môn học, phần học nào.
Chẳng hạn: Trong các bài tập về điền dấu câu, tôi cho học sinh tự làm và
học sinh nêu cách làm.
Học sinh phải nói được lý do vì sao mình lại điền dấu câu đó vào vị trí đó.
Chẳng hạn: Vì sao lại điền dấu (!) mà khơng phải dấu chấm (.) vào cuối
câu sau: “ Trời mưa to quá!”
Khi dạy những phân mơn, bài học có nội dung liên quan đến dấu câu, tôi
luôn khai thác triệt để. Từ đó tạo thành thói quen sử dụng đúng dấu câu cho học

sinh.
Chẳng hạn: Khi dạy bài Tập đọc “Cuộc họp của chữ viết” (Tiếng Việt 3Tập 1) học sinh phải thấy được: Nếu sử dụng dấu câu tuỳ tiện thì người đọc

skkn


8

khơng hiểu gì mà cịn gây ra sự buồn cười, từ đó học sinh rút kinh nghiệm cho
bản thân và có ý thức khi sử dụng dấu câu.
Tơi cũng đã đưa ra một số ví dụ khác về sự thay đổi nội dung câu văn cần
thông báo nếu sử dụng sai dấu câu:
Chẳng hạn:
Ngọc, Hà chăm học thật.
(Nội dung của câu muốn nói là: Ngọc và Hà cùng chăm học).
Nếu sử dụng:
Ngọc! Hà chăm học thật.
(Nội dung của câu đã thay đổi: một người khác kể với Ngọc về bạn Hà
chăm học).
Chẳng hạn:
Chú lính bước vào đầu chú. Đội mũ sắt dưới chân. Đi đôi giày da trên trán
lấm tấm mồ hôi.
(Cuộc họp của chữ viết – Tiếng Việt 3 - Tập 1- Trang 44)
Yêu cầu học sinh đọc chậm, dừng, nghỉ hơi đúng dấu câu (trong ví dụ 2),
và chú ý lắng nghe sau đó hỏi về nội dung câu văn và cho các em phân tích câu
văn đó. Lúc này học sinh mới dễ dàng nhận ra cái sai của cách đặt dấu câu. Vì
đặt dấu câu sai nên sai nghĩa của câu văn dẫn đến sai nghĩa của cả đoạn văn.
Giáo viên chốt lại: khi viết đoạn văn ta phải đặt đúng dấu câu để đảm bảo
đúng nghĩa của câu văn, đoạn văn ta cần viết.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp tu từ khi viết văn.

Trong văn học có rất nhiều biện pháp tu từ song ở chương trình Tiếng
Việt 3 chỉ đề cập đến hai biện pháp tu từ điển hình đó là: Biện pháp tu từ nhân hố
và so sánh. Vậy, vì sao chúng ta cần dạy tốt và chú trọng đến biện pháp tu từ khi
rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh.
Đối với hai biện pháp tu từ này sách giáo khoa có nhiều loại hình bài tập
song ta có thể quy về hai dạng bài chủ yếu đó là:
- Tập nhận biết dấu hiệu, tác dụng của hai biện pháp tu từ so sánh và nhân
hoá.
- Viết câu có sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá.
Dạng bài: Nhận biết dấu hiệu, tác dụng của câu có sử dụng biện pháp tu
từ so sánh, nhân hố.
Ở mỗi biện pháp tu từ này khi dạy học sinh về cách nhận biết dấu hiệu
chứng tỏ là câu có sử dụng biện pháp so sánh hay nhân hố, tơi thực hiện theo
các bước sau:
Bước 1: Tôi đưa ra một hệ thống ví dụ cụ thể và cùng học sinh phân tích
ví dụ đó.
Chẳng hạn: Tìm những sự vật được nhân hóa trong khổ thơ sau:
Đồng làng vương chút heo may
Mầm cây tỉnh giấc, vườn đầy tiếng chim
Hạt mưa mải miết trốn tìm
Cây đào trước cửa lim dim mắt cười.
(Đỗ Quang Huỳnh)
Ở ví dụ này, tơi cho học sinh nhớ lại khái niệm sự vật đã được học và vận
dụng phân tích để tìm đúng các sự vật được nhân hóa trong khổ thơ trên.

skkn


9


Bước 2: Tôi giúp học sinh nhận biết được dấu hiệu của biện pháp tu từ đó.
Tơi đưa ra câu hỏi: Ở ví dụ trên, tác giả đã nhân hóa các sự vật ấy bằng
cách nào?
Bước 3: Dựa vào dấu hiệu nhận biết, học sinh đặt câu có sử dụng biện
pháp tu từ dựa vào dấu hiệu đã nhận biết.
(Chú ý hướng dẫn học sinh chọn những sự vật thật quen thuộc xung
quanh mình).
Chẳng hạn: Đằng đơng, ơng mặt trời như quả cầu lửa đang từ nhô lên.
- Chú gà trống như chiếc đồng hồ báo thức.
- Những bông hoa sau giấc ngủ dài đang vươn mình khoe sắc về hướng
mặt trời.
Bước 4: Giúp học sinh nắm được tác dụng của mỗi biện pháp tu từ vừa
học.
Từ việc học sinh xác định được dấu hiệu nhận biết; đặt câu có sử dụng
biện pháp tu từ; học sinh nói những cảm nhận của mình về giá trị câu có sử dụng
biện pháp tu từ và câu không sử dụng biện pháp tu từ.
Chẳng hạn:
- Bạn Lan rất xinh.
- Bạn Lan xinh như đoá hoa hồng vừa nở.
Hoặc:
- Ánh trăng chiếu qua kẽ lá.
- Ánh trăng vạch kẽ lá nhìn xuống trần gian xem chúng em múa hát.
Dạng bài: Tập viết câu, đoạn văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân
hố.
Khi dạy dạng bài này, tôi yêu cầu học sinh dựa trên dấu hiệu nhận biết để
viết xong câu có sử dụng biện pháp tu từ không chỉ phù hợp ở dấu hiệu bên
ngồi mà cần có nội dung phù hợp thực tế.
Chẳng hạn: Con mèo nhà em to như cái thùng gánh nước.
(Dấu hiệu bên ngoài trong câu này cho ta thấy câu có sử dụng biện pháp
so sánh thơng qua từ chỉ sự so sánh “như”, xong câu văn lại thiếu tính thực tế vì

phép so sánh này khơng tương ứng).
Đối với dạng bài tập này, tôi đã chọn lọc một số câu, đoạn văn, khổ thơ có
sử dụng biện pháp tu từ: nhân hố, so sánh điển hình làm mẫu cho học sinh tham
khảo như các ví dụ trên. Từ đó học sinh sẽ chú ý đến việc viết câu, đoạn văn,
khổ thơ có sử dụng biện pháp tu từ để tăng giá trị nội dung của bài viết.
Với thể loại nói - viết trong phân mơn Tập làm văn lớp 3, học sinh được
rèn luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn
văn ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề: nói về q hương, gia đình, người
lao động, kể vể lễ hội, trận thi đấu thể thao, bảo vệ môi trường…
Do khả năng tư duy của học sinh cịn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng
khơng phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình
bày đoạn văn một cách bó hẹp theo nội dung đã gợi ý. Vì vậy mà bài văn nói viết thường nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên.

skkn


10

Chẳng hạn: Kể lại việc em đã làm để bảo vệ mơi trường.
Có học sinh chỉ kể: “Chủ nhật vừa rồi, em được bố cho đi chơi ở công
viên, trên đường đến cơng viên, em thấy một cây xanh cịn non bị ngã, em đỡ
cho cây đứng dậy. Trưa về thấy cây xanh tốt, em rất vui mừng vì đã bảo vệ mơi
trường”, …
Bên cạnh đó, đơi lúc các em cịn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít
kiến thức về vốn sống.
Chẳng hạn: Kể về trận thi đấu thể thao.
Có một học sinh viết: “Trận đấu bóng đá giữa hai đội Việt Nam - Thái
Lan diễn ra ở sân vận động huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa”.
Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý
cách sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có

một số từ do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc (từ
địa phương hay dùng), các em vẫn sử dụng trong bài văn của mình.
Chẳng hạn: Kể về người một người lao động trí óc.
Học sinh viết:
- Em rất coi trọng cơ vì cơ dạy học cho em.
- Khi đến lớp, cơ em thích vận bộ đồ xanh.
…..
Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, tơi cần hiểu rõ tính tích hợp
kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang
bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân mơn: Tập
đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp với tiết Tập làm
văn sắp học, tơi dặn dị, hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu kĩ đối tượng cần
nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc
hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến
khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,… hoặc hỏi những
người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản
như thế, học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập. Từ đó các em có thể trình bày
được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo.
Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, tôi không áp đặt các em vào
một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh phải quan sát một bức tranh,
một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng lực
sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của một tiết Tập làm văn,
tôi đều cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát huy được tính chủ động,
sáng tạo trong bài văn của mình. Từ đó phát triển năng lực, phẩm chất cho các
em thông qua từng nội dung môn học.
2.3.3.Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo không khí vui vẻ, sơi
động, hào hứng trong tiết học.
Dạy học không chỉ dừng lại ở truyền thụ kiến thức cho người học mà phải
dạy cách học, phương pháp học thì mới phát triển được năng lực, phẩm chất,
tính tích cực, chủ động cho người học được. Vì vậy, để chuẩn bị cho một tiết

dạy sinh động, lôi cuốn học sinh với việc kết hợp các phương pháp, hình thức tổ
chức linh hoạt, phù hợp trong mỗi tiết học là vấn đề không dễ dàng đối với giáo

skkn


11

viên. Nhưng để làm được điều đó giáo viên khơng chỉ làm chủ kiến thức trong
lĩnh vực dạy học của mình mà cần có phương pháp sư phạm thích hợp để phát
huy tính chủ động của học sinh.
Giáo viên phải vừa có trình độ chun mơn, phải vừa có tay nghề vững
vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, phải có năng lực sư phạm, năng lực về khoa
học; hiểu biết ngơn ngữ diễn đạt, cách tổ chức, trình bày bài giảng,… Đổi mới
phương pháp  là đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần
thiết. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực để phát triển học
sinh ở một khía cạnh nào đó. Vì vậy, mỗi giáo viên cần biết kết hợp linh hoạt
các hình thức tổ chức khác nhau để thu hút và phát huy thế mạnh của từng học
sinh. Phương pháp dạy học mới, địi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo
cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn…
nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh.
2.3.4. Giúp học sinh xác định cần phải tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống.
 Khi mới sinh ra, trong tiềm thức của trẻ em đều trong trắng, thơ ngây.
Lớn lên dần theo thời gian, các em dần học được ngôn ngữ  từ ông bà, cha mẹ.
Khi bước vào ngưỡng cửa trường Tiểu học các em đã có chút ngơn ngữ và vốn
sống từ người thân. Nhưng ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết cần trau dồi và phát
triển như thế nào lại phần lớn nhờ sự hướng dẫn, tổ chức rèn luyện từ phía các
thầy cô giáo. Cứ từng ngày từng ngày một, các thầy các cô sẽ làm cho vốn từ
ngữ của các em đầy dần, các em sẽ tự tin hơn trong việc giao tiếp cũng như

trong tạo lập các văn bản. Để làm được điều này không chỉ ngày một, ngày hai
mà cả một quá trình bền bỉ, lâu dài, kiên trì và sáng tạo.
Do khả năng tư duy của học sinh cịn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng
khơng phong phú lại chưa có vốn sống, vốn hiểu biết nhiều nên đa số các em chỉ
biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý trong sách giáo
khoa và của giáo viên đưa ra. Vì vậy, dạy Tập làm văn khơng được tách rời kiến
thức với các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Thông qua kiến
thức của bài Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu… giáo viên cần dạy
cho học sinh biết cách tích lũy vốn kiến thức, vốn từ ngữ, vốn hiểu biết, để vận
dụng vào các bài Tập làm văn. Qua đó, học sinh cần hiểu được có những cảnh
vật, sự vật, con người, sự việc diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc
nhưng nếu ta không chú ý quan sát, nhận xét để ghi nhớ và có cảm xúc thì khó
mà làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.
Chẳng hạn: Khi dạy về chủ đề người lao động, tôi đã giao phiếu về nhà
cho các em điền vào theo mẫu in sẵn (Hãy kể về những người lao động: người
lao động trí óc là những ai? Làm những cơng việc gì? Người lao động chân tay
là những ai? Làm những công việc gì? Em có suy nghĩ gì về những người lao
động đó?...).
Hay để dạy tốt bài: “Nói về quê hương” (Tuần 11 - Tiếng Việt 3 - Tập 1),
tôi chọn ngày đẹp trời, chọn cảnh vật để quan sát rồi dẫn học sinh đến địa điểm
đó để chơi trị chơi do tơi định hướng và quan sát cảnh vật có gì đẹp, thơ
mộng? ... Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép vào sổ tay của mình những

skkn


12

điều đã quan sát được, cảm nhận được để giờ tập làm văn các em có thể vận
dụng viết đoạn văn tốt hơn, thực tế hơn.

2.3.5. Giúp học sinh xác định yêu cầu đề bài:
a) Xác định rõ yêu cầu các bài tập.
Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn nói - viết, tơi cho học sinh tự xác
định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu để khi thực
hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện
tập.
Chẳng hạn: Dạy tiết Tập làm văn tuần 13 (Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 110).

Đề bài: Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền
Trung, miền Bắc) để làm quen và hẹn cùng nhau thi đua học tập tốt.
Tôi hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề bài như sau:
- Bài tập yêu cầu các em viết thư cho ai?
- Việc đầu tiên các em cần xác định rõ: Em viết thư cho bạn tên gì? Ở tỉnh
nào? Miền nào?
Lưu ý: Nếu các em khơng có bạn ở các miền như yêu cầu của đề bài thì
các em viết cho một người bạn được biết qua đọc báo, nghe đài…hoặc người
bạn em tưởng tượng ra.
- Mục đích viết thư là gì? (Làm quen và hẹn cùng nhau thi đua học tập
tốt).
b) Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý.
Nội dung bài Tập làm văn nói - viết trong sách giáo khoa lớp 3, thường có
câu hỏi gợi ý, các câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập
làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn
ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm
vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc
đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi
gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, khơng có sự liên
kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
c. Triển khai các ý trong câu gợi ý.
Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em

hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng
yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa
phương, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình để học sinh
làm bài dễ dàng hơn.
Chẳng hạn: Kể về người lao động trí óc. Tơi giúp học sinh hiểu những
nghề nào thuộc về lao động trí óc; hay nói về lễ hội, học sinh phải biết những
hoạt động diễn ra trong phần lễ và phần hội; hoặc nói về việc làm để bảo vệ môi
trường, cần giúp học sinh hiểu bảo vệ mơi trường là làm gì? Những việc làm đó
có gần gũi với các em khơng? Các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?
d) Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ.
Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng
túng khi diễn đạt ý. Do đó, ý khơng trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo.
Tôi đã chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong
phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được

skkn


13

rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót
cho học sinh.
Chẳng hạn: Kể về người lao động trí óc, tơi có thể gợi ý thêm những nét
đặc trưng về tuổi tác, tính cách, hình dáng của người đó...
Hay nói về quê hương, cần gợi ý cho học sinh nêu cảnh đẹp ở quê hương
em là gì? Cảnh đẹp nào gợi cho em ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao em yêu quê
hương em?...
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình
cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song
song với q trình đó tơi hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn

để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng, cách ứng xử hay. Từ đó, giúp
học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lơgíc, câu văn có hình ảnh,
có cảm xúc. Trên cơ sở đó bài luyện nói của các em sẽ trơi chảy, sinh động, giàu
cảm xúc đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc
sống.
2.3.6. Dạy văn nói (rèn kỹ năng nói).
Trong thực tế dạy học nhiều giáo viên chưa chú ý rèn kỹ năng nói cho học
sinh để phục vụ cho việc rèn kỹ năng viết. Song, theo tôi việc viết câu văn, đoạn
văn có thành cơng hay khơng phụ thuộc nhiều vào sự chuẩn bị “ngơn ngữ nói”
của học sinh. Ngồi việc, “nói” rèn cho học sinh sự mạnh dạn, tự tin thì học sinh
được rèn kỹ năng nói, tư duy sẽ phát triển tốt hơn.
Trong q trình nói học sinh đã có ý thức nói thành câu, trình bày vấn đề
theo trình tự và sẽ “thuộc” nội dung bài sắp viết.
Mặt khác dựa vào bài nói của học sinh, tơi nắm bắt được ý hiểu nội dung
bài viết của các em một cách nhanh nhất. Từ đó, tơi có thể sửa, điều chỉnh, bổ
sung cho bài khơng chỉ của mình học sinh đó mà có thể cho cả lớp.
Qua thực tế những học sinh nào chuẩn bị bài nói tốt thì bài viết sẽ tốt hơn.
Chẳng hạn: Tiết Tập làm văn tuần 7: Yêu cầu của bài gồm:
- Kể lại buổi đầu đi học.
- Viết lại những điều đã kể thành một đoạn văn ngắn.
Như vậy trước khi học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu, học sinh phải kể
được những điều mình sắp viết. Để kể được học sinh phải có sự chuẩn bị bài chu
đáo. Qua phần kể của học sinh, tơi cần nhận biết được học sinh đó có xác định
đúng u cầu của bài hay khơng? Kể có đúng nội dung khơng? Cách sử dụng từ,
đặt câu thế nào? Từ đó, giáo viên phải sửa lỗi cho học sinh trước khi viết bài.
Đối với học sinh, các em có thể đối chiếu, so sánh bài làm của bạn với
mình, thấy bài của bạn có ý nào hay thì học tập, ý nào chưa hay thì tránh. Mặt
khác, qua phần nhận xét của cô giáo học sinh tự điều chỉnh bài của mình.
Tất nhiên để thực hiện tốt phần kể theo u cầu bài tập thì khơng phải chỉ
đến lúc đó học sinh mới được kể, học cách trình bày một đoạn văn mà học sinh

cần phải rèn luyện kỹ năng nói thành câu thơng qua việc trả lời các câu hỏi của
cô trong các tiết học, thông qua việc tranh luận, trao đổi cùng bạn bè,... và phân
mơn Kể chuyện giữ vai trị đặc biệt quan trọng. Vì thơng qua kể chuyện khơng

skkn


14

chỉ giúp các em nói câu đúng mà cịn giúp các em nói câu sáng tạo, có giá trị
nghệ thuật.
Chính vì thế, tơi ln chú ý đến ngơn ngữ nói của học sinh trước khi rèn
kỹ năng viết cho học sinh (mặc dù ta vốn chú trọng đến ngôn ngữ viết hơn).
2.3.7. Hướng dẫn học sinh cách sắp xếp ý, nối câu tạo đoạn văn
Một nhà phê bình văn học đã từng nói rằng: giải một bài tốn tìm được
đáp số là xong, nhưng làm một bài văn tìm được “đáp số” công việc xem như
mới được một nửa. Và với đoạn văn cũng vậy, khi mới tìm được ý, tìm được
“đáp số” là ta mới hồn thành được nửa chặng đường. Đoạn văn hay là đoạn
phải vừa có ý phải vừa có văn mới mang tính giá trị nghệ thuật. Để đạt được kết
quả ấy, khi dạy tôi hướng dẫn cho học sinh biết cách sắp xếp ý, liên kết các câu
tạo thành đoạn văn.Thông thường, học sinh thường chỉ chú ý đến dấu hiệu hình
thức bên ngồi (đủ bộ phận câu) mà chưa chú ý đến nội dung giữa các câu. Tức
là học sinh nghĩ gì viết đó sao cho đủ số lượng câu trong đoạn văn là xong.
Chẳng hạn: Khi học sinh viết một đoạn văn ngắn (từ 5-7 câu) kể về người
mẹ của em. Có học sinh viết như sau:
“Năm nay mẹ em đã gần 40, gương mặt mẹ trịn, làn da bị sạm vì rám
nắng.(1) Khi em đi học, bố đi làm thì mẹ lại dọn dẹp nhà rất ngăn nắp.(2) Mẹ
bảo bữa sáng quan trọng nhất nên khơng được bỏ bữa.(3) Mẹ chăm sóc hai chị
em rất chu đáo, mỗi sáng mẹ đều chuẩn bị bữa sáng rất ngon cho cả gia đình.
(4) Mẹ là một phụ nữ tuyệt vời.(5) Mỗi người sinh ra đều có một người mẹ của

riêng mình.(6) Mỗi khi em ốm nét mặt mẹ lo lắng, mẹ hết chạy đi mua thuốc, lại
lo nấu cháo cho em ăn.(7) Em rất yêu quý mẹ và luôn mong mẹ khỏe mạnh”.(8)
Trước hết, tơi cho học sinh đọc lại đoạn văn mà mình đã làm cho cả lớp
nghe, sau đó phân tích từng câu văn xem nội dung, ý nghĩa của các câu đã liên
kết với nhau chưa để học sinh tìm ra những điểm chưa đúng về cách sắp xếp câu
văn.
Sau đó, tôi hướng dẫn học sinh sắp xếp lại câu văn cho phù hợp với nội
dung của bài và hướng dẫn học sinh cách trình bày bố cục của một đoạn văn bao
giờ cũng có câu mở đoạn. Căn cứ vào đề bài và yêu cầu của đề mà xác định chủ
đề của đoạn văn, hoàn chỉnh câu mở đoạn. Dựa vào câu chủ đề của đoạn, xác
định những ý cụ thể sẽ trình bày ở thân đoạn. Tìm câu kết đoạn, câu kết đoạn
cần bao hàm được toàn bộ nội dung đã trình bày ở thân đoạn, có tính tổng kết,
đánh giá và mở rộng.
Sau khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn có bố cục rõ ràng, có nhiều em
đã viết đoạn văn kể về một người thân trong gia đình em rất hay và học sinh viết
đoạn văn như ở ví dụ nêu trên đã sắp xếp lại các câu một cách hợp lý, ý các câu
trong đoạn văn được liên kết chặt chẽ. Đây là đoạn văn của em Lê Phương Anh
– Lớp 3A trường Tiểu học Lộc Tân:
“Mỗi người sinh ra đều có một người mẹ của riêng mình.(6) Năm nay
mẹ em đã gần 40 tuổi, gương mặt mẹ trịn, làn da bị sạm vì rám nắng.(1) Mẹ
chăm sóc hai chị em rất chu đáo, mỗi sáng mẹ đều chuẩn bị bữa sáng rất ngon
cho cả gia đình.(4) Mẹ bảo bữa sáng quan trọng nhất nên không được bỏ bữa.
(3) Khi em đi học, bố đi làm thì mẹ lại dọn dẹp nhà rất ngăn nắp.(2) Mỗi khi em

skkn


15

ốm nét mặt mẹ lo lắng, mẹ hết chạy đi mua thuốc, lại lo nấu cháo cho em ăn.(7)

Đặc biệt, trong mắt em mẹ là một phụ nữ tuyệt vời nhất.(5) Em rất yêu quý mẹ
và luôn mong mẹ khỏe mạnh”.(8)
Qua thực hành luyện tập với những dạng bài tập như trên, chắc chắn học
sinh sẽ biết sắp xếp ý cho phù hợp, nối câu tạo đoạn văn có bố cục, nội dung
chặt chẽ hơn.
2.3.8. Hướng dẫn học sinh thực hành viết đoạn văn.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất, địi hỏi học
sinh phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để viết đoạn văn trọn vẹn và hay.
Muốn học sinh làm tốt bước này, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện theo các yêu
cầu sau:
- Xác định, nắm chắc yêu cầu của bài (Bước này yêu cầu đối với cả giáo
viên, học sinh).
- Học sinh thực hành nói theo yêu cầu của bài viết (nếu bài khơng có
phần luyện nói thì giáo viên nên cho học sinh thực hành nói trước khi viết).
- Học sinh, giáo viên nhận xét, bổ sung những điều mà học sinh vừa nói.
- Học sinh thực hành viết theo yêu cầu của bài tập (giáo viên theo dõi giúp
đỡ học sinh cịn chưa hồn thành).
- Tơi chấm, đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm một số bài.
Chẳng hạn: Bài tập 2, Tập làm văn tuần 15 (Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1)
yêu cầu như sau:
Đề bài: Dựa vào bài tập làm văn miệng tuần trước hãy viết một đoạn văn
giới thiệu về tổ em.
Tôi hướng dẫn học sinh theo các bước sau :
Bước 1: Học sinh đọc yêu cầu đề bài.
- Tôi nêu câu hỏi: Bài tập yêu cầu gì? (Viết một đoạn văn giới thiệu về tổ
em).
- Khi giới thiệu về tổ em cần giới thiệu về những gì?...
Bước 2: Tơi u cầu khoảng 2 - 3 học sinh có bài làm tốt trình bày miệng
đoạn văn giới thiệu về tổ của mình.
- Học sinh, giáo viên nhận xét, bổ sung những điều mà học sinh vừa nói.

Bước 3: Tơi u cầu học sinh viết vào vở (tơi theo dõi giúp đỡ học sinh
cịn chậm).
Bước 4: Tơi đánh giá nhận xét cụ thể về bài viết của học sinh, có thể đọc
một số bài viết hay cho lớp nghe.
* Những vấn đề cần chú ý khi yêu cầu học sinh viết đoạn văn:
- Đối với những bài Tập làm văn có câu hỏi gợi ý: Tơi căn cứ vào từng
đối tượng học sinh của lớp mình để đưa ra những yêu cầu phù hợp nhằm phát
huy được khả năng của mỗi em như:
+ Đối với học sinh ở mức hồn thành, tơi chỉ u cầu học sinh viết câu
văn đúng, câu văn rõ ràng theo các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa.

skkn


16

+ Đối với học sinh ở mức hoàn thành tốt giáo viên có thể khuyến khích sự
sáng tạo của học sinh như viết câu văn có hình ảnh sinh động, gợi tả, gợi cảm,
có sử dụng biện pháp tu từ và viết đoạn văn đảm bảo bố theo 3 phần.
- Tôi luôn biết trân trọng những suy nghĩ sáng tạo của từng em mặc dù chỉ
rất nhỏ, tạo được không khí lớp học nhẹ nhàng, thoải mái. Như vậy mới phát
huy được năng lực, tính tích cực, sáng tạo của từng em.
- Chấm, nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh chính là đánh giá cái
được, cái chưa được trong bài làm của các em, đồng thời cũng chuẩn bị tốt hơn
cho những bài viết sau. Chính vì thế, khâu chấm, nhận xét, đánh giá bài làm của
học sinh được tôi rất coi trọng nên tôi thực hiên rất cẩn thận như: sửa lỗi cho học
sinh một cách triệt để, ghi lại những câu văn có ý sáng tạo, cách sử dụng từ, câu
văn giàu hình ảnh...
Khi nhận xét bài tôi chỉ rõ cái được, cái chưa được của bài về từng khía
cạnh như:

+ Bài viết đúng nội dung, đủ số lượng câu theo yêu cầu chưa? Việc liên
kết các câu đã phù hợp chưa?...
+ Cách dùng từ, viết câu ra sao (từ nào, câu nào viết hay, hay ở chỗ nào,
từ nào sử dụng chưa hợp lý, câu nào viết chưa đúng. Tôi yêu cầu học sinh chỉnh
sửa lại).
+ Tôi hướng dẫn học sinh ghi lại những câu văn hay của các bạn để học
tập.
- Đối với những bài viết chưa tốt, tôi yêu cầu các em về nhà viết lại để tiết
học sau cô kiểm tra và nhận xét, đánh giá.
2.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình thực hiện các biện pháp trên vào dạy viết đoạn văn hay
cho học sinh lớp 3, tôi nhận thấy rằng chất lượng viết đoạn văn của lớp tơi có sự
tiến bộ vượt bậc. Hầu hết các em đều nắm được kỹ năng viết đoạn văn ngắn.
Tình trạng học sinh sai đề, sai lỗi về dùng từ đặt câu đã giảm rõ rệt. Các em còn
biết phát hiện ra nét riêng, nét độc đáo. Nhiều học sinh biết áp dụng biện pháp tu
từ như: so sánh, nhân hóa để làm cho đoạn văn thêm sinh động và giàu hình ảnh
hơn.
Các em cịn biết bộc lộ cảm xúc chân thực, giàu chất văn tránh được
những luận điểm khô khan, chỉ mang tính chất liệt kê…thể hiện được một cách
tự nhiên tình cảm yêu thương đối với đối tượng được viết. Các em tự tin, hứng
thú diễn đạt được những điều các em quan sát, nhận xét của mình một cách
mạch lạc, trơi chảy và có sáng tạo.
Chính vì vậy, tôi dám khẳng định: Vận dụng“Biện pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng viết đoạn văn hay cho học sinh lớp 3 trong phân môn
Tập làm văn” một cách triệt để và khoa học sẽ nâng cao được kĩ năng viết đoạn
văn hay cho học sinh ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung.
Các biện pháp này có thể áp dụng cho học sinh ở bậc Tiểu học nói chung
và học sinh lớp 3 nói riêng. Tuy nhiên, những biện pháp mà tôi nêu trên chưa

skkn



17

phải là tối ưu nhưng cũng góp phần làm nâng cao chất lượng dạy học trong phân
môn Tập làm văn.
Vào thời điểm giữa học kì II năm học 2021- 2022, sau khi thống nhất giữa
các giáo viên trong khối lớp 3. Chúng tôi ra một đề văn như sau:
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn kể về người lao động trí óc.

Kết quả khảo sát phân mơn Tập làm văn thu được như sau:

Lớp

3A
(Thực
nghiệm)

3B
(Đối
chứng)

Học sinh dùng từ
chưa hợp lí, câu
Tổng chưa rõ ý, viết đoạn
số HS văn còn sơ sài.

Biết dùng từ, sắp xếp
Viết đoạn văn theo
ý hợp lí, viết câu đủ ý,

đúng u cầu, giàu
và viết đoạn văn hồn
hình ảnh, cảm xúc.
chỉnh.

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

33

0

0

18

54,5

15

45,5


33

3

9,1

23

69,7

7

21,2

Nhìn vào bảng thống kê chất lượng, tơi thấy kết quả bài làm của học sinh
lớp 3A tốt hơn hẳn so với chất lượng khảo sát đầu năm và so với chất lượng của
lớp 3B. Hiện tại, các em biết viết đoạn văn khơng những đúng mà cịn hay, giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc, các lỗi sai trước kia giờ đã giảm đi rõ rệt. Khơng cịn
học sinh dùng từ chưa hợp lí, câu chưa rõ ý, viết đoạn văn cịn sơ sài. Bởi vậy,
trong q trình dạy học tôi sẽ áp dụng thường xuyên và trao đổi cùng đồng
nghiệp trong khối áp dụng vào dạy học. Tôi tin tưởng nếu được áp dụng và làm
tốt trong các giờ tập làm văn thì chất lượng giờ học văn sẽ còn tốt hơn nữa.

skkn


18

Một số bài làm của học sinh lớp 3A sau khi đã áp dụng các biện pháp

của sáng kiến kinh nghiệm:

skkn


19
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận.
Việc rèn kĩ năng viết đoạn văn hay cho học sinh là cả một q trình lâu
dài và rất cần thiết, khơng thể thiếu trong q trình dạy - học. Vì vậy, địi hỏi
người giáo viên phải có lịng kiên trì, nhẫn nại, khơng được nóng vội, phải thật
yêu nghề, tận tâm, tận tụy hết lịng vì học sinh, phải ln cận kề bên các em khi
các em đúng, cũng như khi các em sai. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay
trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm,
khơng phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ.
Nếu giáo viên khơng biết chờ đợi mà nơn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
Đồng thời, giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, học hỏi trên sách vở, báo đài,
thông tin đại chúng, học hỏi ở những đồng nghiệp thông qua các tiết dự giờ,
thao giảng để chắt lọc ra những phương pháp hay nhất, những kinh nghiệm hữu
hiệu nhất truyền thụ đến học sinh bởi vì : “Ở đâu có thầy giỏi, ở đó có trị giỏi”.
Bản thân tơi đã giảng dạy lớp 3 nhiều năm, tôi nhận thấy để giờ học Tập
làm văn diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả thì giáo viên cần chú ý
những nội dung sau đây:
- Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, sách giáo khoa, đặc
trưng bộ mơn, phải ln đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để tạo sự
hứng thú ham học của học sinh, luôn động viên nhắc nhở, khen ngợi kịp thời
mọi sự tiến bộ của học sinh, đánh giá học sinh công bằng, khách quan.
- Giáo viên hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở nhà một cách kĩ càng.
- Giáo viên phải xác định được đặc điểm và trình độ viết đoạn của học

sinh…Trong q trình giảng dạy, giáo viên ln lấy học sinh làm trung tâm, tạo
hứng thú học tập cho các em và tạo điều kiện cho học sinh tự tìm ra kiến thức,
thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của các em một cách độc lập, sáng tạo và giáo
viên ln quan sát, kiểm tra, … từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc,
hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
- Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn hay phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục, các em được học ở trường, học ở nhà, “Học, học nữa, học mãi”
như Lê Nin đã nói.
Đây là một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tơi tích lũy được trong quá
trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các “bạn đồng nghiệp”. Tôi
mong nhận được ý kiến đóng góp nhiệt tình của các bạn để hồn thành tốt nhiệm
vụ “Trồng người”.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất.
Đối với phịng giáo dục: Tiếp tục hội thảo, nói chuyện chuyên đề để
chuyên viên cốt cán, giáo viên giỏi, giáo viên có nhiều kinh nghiện trong giảng
dạy và viết sáng kiến kinh nghiệm để mọi giáo viên được tham dự, học hỏi một
cách cụ thể, sát thực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

skkn


20

Đối với nhà trường: Thường xuyên tổ chức cho học sinh thăm quan, dã
ngoại để học sinh có thêm nhiều hiểu biết về cuộc sống. Điều đó sẽ giúp cho các
em vận dụng thực tế để viết các bài văn hay hơn, giàu cảm xúc hơn.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp, Hội
đồng nhà trường, Hội đồng khoa học ngành để tôi có thêm kiến thức, kinh
nghiệm tự để tiếp tục nghiên cứu, áp dụng đề tài này trong những năm sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 10 tháng 5 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là sáng
kiến kinh nghiệm của mình viết, khơng
sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Trần Thị Lương

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trong quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng
các tài liệu tham khảo sau :
- Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học. (Nhà xuất bản giáo
dục).
- Phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 3. (Nhà xuất bản
giáo dục).
- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3. (Nhà xuất bản giáo dục).
- Vở bài tập Tiếng Việt 3 (Nhà xuất bản giáo dục).
- Sách giáo viên Tiếng Việt 3. (Nhà xuất bản giáo dục).
- Tham khảo các đề kiểm tra định kì của các năm học trước.

skkn


DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

T
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại

Một vài kinh nghiệm giải tốn có
PGD&ĐT
lời văn ở lớp 1.
Một vài kinh nghiệm giải tốn có
PGD&ĐT
lời văn ở lớp 2.
Một vài kinh nghiệm giải tốn về:

“Tìm hai số khi biết tổng và hiệu PGD&ĐT
của hai số” cho học sinh lớp 4.
Một vài kinh nghiệm giải tốn có
PGD&ĐT
lời văn ở lớp 3.
Một vài kinh nghiệm giải tốn về:
“Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của Sở GD&ĐT
hai số” cho học sinh lớp 4
Một vài kinh nghiệm giải tốn về:
“Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của PGD&ĐT
hai số” cho học sinh lớp 4.
Một vài kinh nghiệm giải tốn hình
PGD&ĐT
học cho học sinh lớp 3.
Một vài kinh nghiệm dạy biện pháp
PGD&ĐT
tu từ so sánh cho học sinh lớp 3.
Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
tốt các yếu tố hình học cho học
PGD&ĐT
sinh lớp 2.
Một số biện pháp rèn kỹ năng nói viết qua phân môn Tập làm văn lớp
3 theo hướng phát huy tính tích
PGD&ĐT
cực, chủ động của học sinh góp
phần nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt.

skkn


Kết
quả
đánh
giá, xếp
loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2002 - 2003

B

2003- 2004

B

2004 - 2005

B

2005 - 2006

C

2007 - 2008


B

2009 - 2010

B

2012 - 2013

B

2014 - 2015

B

2016 - 2017

B

2018 - 2019



×