MỤC LỤC
Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
NỘI DUNG
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xem tranh minh họa.
2.3.2. Sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn, câu
đố.
2.3.3. Sử dụng video, âm nhạc.
2.3.4. Hình thức tạo trị chơi.
2.3.5. Liên tưởng loại suy.
2.3.6. Nêu câu hỏi.
2.3.7. Hình thức đưa tình huống.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng
đánh giá xếp loại cấp Phòng GD&ĐT, cấp Sở GD&ĐT và các
cấp cao hơn xếp loại từ C trở lên.
Tài liệu tham khảo
1
2
2
3
3
3
3
skkn
4
5
6
7
8
9
10
10
11
12
13
13
13
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là nghị quyết
Trung ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo; nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm
2014 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đổi mới
chương trình sách giáo khoa, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang
thực hiện đổi mới đồng bộ về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. Nghị quyết số 88/2014/QH13 của
Quốc hội quy định: ‘‘Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng
nhằm tạo chuyển biến căn bản, tồn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục
phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần
chuyển nền giáo dục nặng nề về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát
triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hịa đức, trí, thể, mỹ và phát
huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”.[1]
Nghị quyết số 29-NQ/TW yêu cầu: ‘‘Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt
một chiều, ghi nhớ máy móc.[2] Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,
phát triển năng lực”. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy-học là một trong
những nội dung căn bản nhất được quan tâm. Trong đó, bộ mơn Ngữ văn cũng
khơng nằm ngồi đường lối chỉ đạo chung. Đây là một trong những mơn học có
vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống các mơn học ở trường phổ thơng, cũng là
mơn học có nhiều thay đổi nhất trong việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp đến đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nhiều vấn đề được đặt
ra khi phải tiếp cận chương trình mới, trong đó vấn đề đổi mới phương pháp,
nâng cao chất lượng học tập của học sinh là vấn đề đặt lên hàng đầu.
Từ xưa đến nay, văn chương nghệ thuật là một trong những hoạt động
tinh thần hết sức lí thú và bổ ích trong cuộc sống con người. Qua văn chương
con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp và sự hài hòa của cuộc sống. Tiếp
cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng tình cảm sâu sắc, tinh tế. Được bồi
dưỡng về ngơn ngữ, văn hóa, phong phú, sống động và giàu sức biểu cảm của
dân tộc. Người Việt Nam xưa và nay ln gửi vào văn chương những tình u,
khát vọng sống... Chính vì vậy, dạy học mơn Ngữ văn trong nhà trường phổ
thơng nói chung và trong bậc trung học cơ sở nói riêng có một vị trí vơ cùng
quan trọng.
Bởi vì, qua giờ học Ngữ văn học sinh được cảm thụ được những vẻ đẹp
muôn màu của cuộc sống. Hướng các em tới đỉnh cao của chân, thiện, mĩ. Để
học sinh có khả năng cảm thụ tốt các tác phẩm văn chương thì việc giảng dạy,
bồi dưỡng rất cần thiết, rất quan trọng. Do đó việc tìm kiếm những giải pháp để
làm tốt việc khởi động một bài học Ngữ văn sao cho ấn tượng là điều trăn trở
của tôi, cũng như của các giáo viên đứng lớp hiện nay.
Hoạt động khởi động có vai trị tạo hứng thú học tập cho học sinh. Một
skkn
2
khởi động bài học hiệu quả trước hết phải tạo được hứng thú cho học
sinh. Không phải bất cứ học sinh nào cũng đều có sẵn niềm say mê, u thích
đối với mơn học. Vì vậy, nhiệm vụ của hoạt động khởi động là khơi gợi hứng
thú đối với bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi
đắp tình u lâu bền đối với mơn học. “Một người thầy mà khơng dạy cho học
trị được việc ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi” [3]
(Theo Horaceman). Bởi vậy, người thầy trước hết phải là người “thắp lửa đam
mê”. Đặc biệt đối với mơn học Ngữ văn, chỉ có niềm đam mê mới đưa các em
khám phá đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương. Vai trò thứ hai
của hoạt động khởi động là huy động vốn tri thức, kĩ năng vốn có của học sinh.
Bởi dạy học là một q trình kiến tạo. Nếu ví tri thức, kĩ năng học sinh tiếp nhận
được như ngôi nhà, thì nền móng sẽ xuất phát từ những tri thức, kĩ năng vốn có
của người học. Quan điểm dạy học kiến tạo đặc biệt chú ý đến việc huy động
kiến thức, kĩ năng, hệ giá trị nền tảng của cá nhân người học tạo tiền đề cho việc
tiếp nhận kiến thức mới. Vì vậy, một khởi động bài học hiệu quả sẽ tạo nên cơ
hội cho các em tự làm sống lại những kiến thức nền đã có, cần thiết cho việc học
bài mới. Việc thiết kế chương trình Ngữ văn theo các cấp thực chất là một vòng
tròn đồng tâm, cấp học sau là sự mở rộng, nâng cao, đào sâu hơn những tri thức
đã được trang bị từ cấp học trước. Đó là một tiền đề để thầy cơ thiết kế hoạt
động khởi động. Vai trị thứ ba của hoạt động khởi động là tạo ra mâu thuẫn
nhận thức cho người học. Học tập là một quá trình khám phá. Q trình ấy bắt
đầu bằng sự tị mị, nhu cầu cần được hiểu biết và giải quyết mâu thuẫn giữa
điều đã biết và điều muốn biết. Một khởi động bài học thành cơng cần khơi gợi
trong học trị mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp
theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Muốn như vậy, hoạt động khởi động
cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề để thực hiện
một loạt các hoạt động tìm tịi, giải quyết vấn đề. Muốn như vậy, giáo viên phải
là người có ý tưởng, biết gieo vấn đề để kích thích trí tị mị của người học. Mỗi
hoạt động khởi động trong giờ học Ngữ văn cũng giống như món ăn khai vị
trong một bữa tiệc, tạo tâm thể chủ động cho học sinh khi vào tiết học.
Là người giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, làm sao
để các em yêu thích, hứng thú học tập môn Văn nên tôi đã thử nghiệm nhiều
cách dạy, trong đó, tơi nhận thấy những tiết dạy sử dụng một số phương pháp
mới để khởi động sẽ kích thích hứng thú học tập của học sinh, giảm đi khơng
khí mệt mỏi, căng thẳng trong giờ học. Chính vì lý do đó, tơi đã mạnh dạn viết
đề tài “Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm
chất, năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn 7”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài này là trình bày những kinh nghiệm về việc vận dụng
một số biện pháp khởi động nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh
trong môn Ngữ văn 7. Giáo viên cung cấp những tri thức ở bài cũ, những tri
thức có liên quan đến bài mới giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản,
tiếp nhận những "tín hiệu" trong bài mới, từ đó hướng dẫn vào bài một cách có
sức thuyết phục, tạo hứng thú và niềm say mê học tập cho học sinh, góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
skkn
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu “Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động
nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn 7”.
Được ứng dụng vào hoạt động khởi động trong các tiết học Ngữ văn. Đề tài
được thực hiện tại trường THCS Lê Quý Đôn trong năm học 2021-2022.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận:
+ Thu thập thơng tin ở sách, báo, tài liệu chun mơn.
+ Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các quan điểm khoa học trong các tài
liệu có liên quan.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, khảo sát thực tế,
điều tra thực trạng dạy học môn Ngữ văn hiện nay để phát hiện những vấn đề
cần nghiên cứu, cần tìm biện pháp.
- Nhóm các phương pháp thống kê: Thu thập các số liệu trong quá trình
áp dụng các biện pháp để đánh giá hiệu quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc điểm của cá nhân,
thể hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc
chắn một hay một số dạng hoạt động nào đó”. [4]
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao”. [5]
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của
một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Theo Chương trình giáo dục phổ thơng mới năm 2018: “Năng lực là
thuộc tính cá nhân, được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình
học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện
thành cơng một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những
điều kiện cụ thể”.[6]
Nói như vậy, năng lực vừa là tiền đề để thực hiện hoạt động, vừa là kết
quả của hoạt động đó. Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự
nhiên của cá nhân đồng thời cũng do tập luyện mà có.
Dạy học phát triển nhận thức và năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và
phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả đầu ra của
quá trình này. Trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức độ nhận
thức thức và năng lực như thế nào sau khi kết thúc một giai đoạn (hay một quá
trình) dạy học. Đây là đích đến trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Đối với học sinh lớp 7, đây là “giai đoạn vàng” để giáo viên phát triển nhận thức
về xã hội, hành vi, kĩ năng, thái độ... để sau này các em có sự phát triển tồn
diện hơn. [7]
Xuất phát từ quan điểm dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay
là dạy học hướng vào hoạt động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh hình thành
skkn
4
năng lực tự thông hiểu và vận dụng kiến thức, tôi nghĩ rằng: chất lượng và hiệu
quả giờ dạy văn được xác định không chỉ ở những kết luận hay ấn tượng sâu sắc
đọng lại ở học sinh mà điều quan trọng là rèn cho học sinh khả năng tự khám
phá và chiếm lĩnh tác phẩm văn học của các em. Muốn đạt được điều đó, quan
trọng và khơng thể thiếu được là người giáo viên phải sử dụng các hình thức
khởi động sáng tạo cho học sinh trong mơn học Ngữ văn nói chung. Do đó, tơi
đã cố gắng thực hiện các hình thức khởi động cho học sinh để phát triển tư duy,
sáng tạo cho các em và làm cho các em không phải là đối tượng - khách thể nữa
mà các em phải giữ vai trò chủ thể sáng tạo trong mơn học của mình. Hoạt động
khởi động có vai trị tích cực trong việc kích thích sự phát triển của các giác
quan; giảm sự nhàm chán, căng thẳng trong quá trình học tập; dần hình thành sự
tự chủ chiếm lĩnh tri thức của học sinh; góp phần hình thành kiến thức, kỹ năng,
thái độ,… từ đó hình thành phẩm chất và năng lực người học.
Một trong những vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục là phải có phương
pháp dạy học tốt. Theo thời gian phương pháp dạy học phải có sự đổi mới để
phù hợp với kiến thức mới và nhu cầu từng đối tượng học sinh, nên đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông là một vấn đề cấp thiết hiện
nay đang nhận được sự quan tâm nhiều giới, nhiều cấp trong xã hội nói chung và
ngành giáo dục nói riêng. Khi nói về phương pháp giáo dục nói chung và
phương pháp dạy học nói riêng, Anhxtanh cho rằng: “Điều tệ hại nhất của nhà
trường chủ yếu là việc dùng sự khiếp sợ, cưỡng bách và quyền hành giả tạo làm
phương pháp giáo dục”. Cho nên một tiết dạy thành công nhất chính là việc học
sinh tiếp nhận kiến thức như một món q có giá trị chứ khơng phải là sự phục
tùng. Các em ln cho đó là một mơn học khó. Hiện nay, nhiều giáo viên
thường bỏ qua khơng khởi động hoặc khởi động theo phương pháp truyền thống
rồi đi thẳng vào tiết dạy, quên đi rằng phần khởi động tiết dạy hay thì sẽ kích
thích nghiên cứu học tập của học sinh rất nhiều.
Đề tài đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở các
trường trung học cơ sở nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng, có rất nhiều
phương pháp dạy học tích cực hiện nay nhưng với kinh nghiệm tích lũy được tôi
mạnh dạn đưa ra để tài này để từ đó học sinh vừa chủ động tìm hiểu kiến thức
vừa góp phần tạo sự cuốn hút trong tiết học, tránh gây nhàm chán cho học sinh.
Quan trọng hơn nữa là phát huy tính tích cực của học sinh qua việc giáo viên ra
những câu hỏi cho học sinh về nhà tìm hiểu thơng qua các trang web tin cậy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Theo tâm lý chung của đa số học sinh, môn Ngữ văn vẫn là mơn khó. Chính
vì tâm lý đó mà các em học một cách đối phó, ở trường thì thụ động tiếp thu kiến
thức theo kiểu cơ hỏi-trị trả lời, lâu dần các em không hứng thú học mơn Ngữ văn.
Đặc biệt hơn, trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, ngoài việc cung cấp cho
các em kiến thức trong sách giáo khoa, trong chuẩn kiến thức - kĩ năng, giáo viên
còn phải mở rộng thêm kiến thức bên ngoài cho các em. Việc sử dụng các phương
pháp khởi động khác nhau sẽ kích thích hứng thú học tập của các em, từ đó các em
vừa hứng thú học tập, vừa chủ động khai thác kiến thức.
Hoạt động khởi động bài học chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng có ý
nghĩa quan trọng trong việc kích hoạt tính tích cực của học sinh. Hoạt động khởi
skkn
5
động có vai trị tạo hứng thú học tập cho học sinh. Hai là huy động vốn tri thức, kĩ
năng nền tảng của học sinh. Ba là tạo ra mâu thuẫn nhận thức cho người học. Học
tập là một quá trình khám phá. Khởi động bài học thành cơng cần khơi gợi trong
học trị mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp theo
trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Giải pháp này có tác dụng phát triển cho
học sinh các phẩm chất trung thực, chăm chỉ, trách nhiệm và năng lực tự chủ, tự
học; năng lực giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề; năng lực ngôn ngữ, tự tin…
Năm học 2021 – 2022, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 tại
trường THCS Lê Quý Đôn. Thực tế, học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy khả năng
tiếp thu bài học của mỗi em khác nhau. Có học sinh hào hứng đón nhận giờ Ngữ
văn, các em đã tìm thấy ở đây những cảm xúc thẩm mỹ, những bài học cuộc sống
giúp các em trưởng thành, hoặc các em cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái hơn so với
những tiết học tự nhiên khác. Bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều học sinh có thói quen thụ
động trong học tập. Các em khơng thích học, khơng đọc tác phẩm, khơng quan tâm
nhiều đến hành trình tự khám phá mà cơ bản là ghi chép và dựa vào các tài liệu có
sẵn để làm bài kiểm tra. Một số học sinh cịn có biểu hiện uể oải, mệt mỏi trong giờ
học. Thói quen lười vận động, lười tư duy, học tập hời hợt, không hứng thú đã ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả học tập. Vì vậy, tơi thấy mình cần có sáng kiến để đưa
ra những biện pháp cụ thể, tạo hứng thú, kích thích được niềm đam mê, u thích
mơn học của học sinh, để hưởng ứng việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đáp
ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay.
Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề tài:
Giỏi
Khá
Yếu
TB
Lớp
Sĩ số
HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
7B
47
15
5,7
20
28,6
10
51,4
02
11,4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Đối với mỗi kiểu bài, mỗi bài học cụ thể, hoạt động khởi động sẽ khác nhau.
Khơng có kiểu khởi động nào là tối ưu nhất, có khi phải lồng ghép nhiều hình thức
để hỗ trợ nhau trong cùng một bài dạy. Bí quyết thành cơng là sự tìm tịi, sáng tạo
và đa dạng hóa các hình thức khởi động phù hợp với nội dung các bài học:
* Chuẩn bị
- Giáo viên:
+ Thiết bị dạy học phù hợp, đáp ứng mục tiêu, nội dung bài (máy tính,
máy chiếu, loa…) Sưu tầm, nghiên cứu chọn lọc các kiến thức, các tài liệu sách,
tranh ảnh, câu thơ, bài hát, video, tình huống có vấn đề…
+ Chuẩn bị kế hoạch bài học word, powerpoint.
+ Trước đó một tuần, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị các
thông tin, các câu hỏi liên quan đến bài.
- Học sinh:
skkn
6
+ Tìm hiểu trước nội dung bài học, xem các câu hỏi trong bài.
+ Tìm hiểu các thơng tin về các bài học có liên quan.
+ Chủ động thực hiện các nhiệm vụ học tập.
* Cách thức thực hiện.
- Sưu tầm tài liệu.
- Khai thác và xử lý thông tin phù hợp với nội dung bài học.
- Đưa các tư liệu cần thiết vào bài học.
2.3.1. Xem tranh minh họa
Đây là hình thức khởi động nhẹ nhàng, phù hợp với các tiết dạy văn bản.
Việc cung cấp cho học sinh những hình ảnh tiêu biểu trong văn bản hoặc ngồi
cuộc sống khơi gợi cho các em sự rung cảm, cảm xúc chân thực về cái đẹp, cái
thiện…nhằm thu hút các em vào nội dung bài học.
Bài: Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp: Vấn đáp, trực quan.
- Kĩ thuật: Hỏi và trả lời.
- Thời gian: 5p
- Gv trình chiếu cho học sinh xem một vài hình ảnh về lũ lụt ở nước ta
(Miền Bắc, Miền Trung) sau đó yêu cầu học sinh cảm nhận, nêu suy nghĩ về
những hình ảnh đó.
? Quan sát các hình ảnh dưới đây và nêu suy nghĩ của em? (HS tự bộc lộ)
skkn
7
GV: Hằng năm, cứ vào tháng 7 đến tháng 8 thì ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
và miền Trung ở nước ta trời lại mưa như trút nước, lũ lụt xảy ra triền miên. Với
kinh nghiệm dân gian của mình nhân dân ta đã đúc kết ra các câu tục ngữ về
thiên nhiên và lao động sản xuât. Vậy nội dung, ý nghĩa của các câu tục ngữ này
như thế nào, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài học ngày hôm nay.
- Qua bài học này, học sinh nhận ra được giá trị, những kinh nghiệm thực
tế về thiên nhiên và lao động sản xuất chứa đựng trong những câu tục ngữ của
dân gian, đồng thời xem tục ngữ như một kênh học tập, tích lũy vốn sống bản
thân.
- Bên cạnh đó, học sinh cịn phân tích được lối nói ngắn gọn, có vần, có
nhịp điệu, giàu hình ảnh của tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất.
2.3.2. Sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn, câu đố
Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, danh ngơn…là những lời hay, ý đẹp có tính
chất ca ngợi, răn dạy và triết lí mang hàm nghĩa sâu sắc, được mọi người sử
dụng hằng ngày trong cuộc sống. Trích dẫn vào hoạt động khởi động khi dạy
các bài học trên lớp để thu hút sự chú ý của học sinh, tạo sự mới mẻ, kích thích
và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó giáo dục cho học sinh nhiều
bài học bổ ích. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hoặc cung cấp cho học
sinh những câu ca dao, tục ngữ, danh ngơn…có chủ đề liên quan đến nội dung
bài học sau đó nêu câu hỏi cho học sinh trả lời và dẫn dắt vào bài mới.
Bài: Mẹ tôi (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp, kĩ thuật: Vấn đáp ; kể chuyện, quan sát tranh; trò chơi,...
- Thời gian : 5p
- Giáo viên đọc hoặc chiếu các câu ca dao, bài thơ về mẹ:
1.Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
2. Mẹ là dòng sữa ngọt ngào
Là lời ru để con vào giấc mơ
Mẹ là cả một bài thơ
Là câu hát dịu ầu ơ ví dầu.
3. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
GV đặt câu hỏi: Em hãy cho biết chủ đề của các câu ca dao trên?
(Chủ đề về mẹ và công lao to lớn của cha mẹ)
Sau khi hs trả lời, giáo viên tích hợp giáo dục kĩ năng sống: Nếu được thể
hiện tình cảm với cha mẹ qua một câu nói em có thể chia sẻ cho mọi người cùng
biết.
HS tự bộc lộ.
GV bắt đầu vào bài: Mặc dù có nhan đề là Mẹ tơi nhưng văn bản lại được
viết dưới dạng một bức thư của người bố gửi cho con trai. Cách thể hiện độc đáo
này giúp cho những phẩm chất của người mẹ (nội dung chủ yếu của tác phẩm)
skkn
8
được thể hiện một cách khách quan và trực tiếp. Vậy để hiểu rõ hơn chúng ta
cùng đến với văn bản này.
2.3.3. Sử dụng video, âm nhạc
Đây là hình thức sử dụng các đoạn video về các thước phim tư liệu hoặc
các bài hát liên quan đến nội dung bài học để các em được chìm lắng vào trong
những giai điệu âm nhạc thiết tha, trữ tình sẽ là một cách thú vị để thăng bằng
cảm xúc, tạo những rung động thẩm mỹ, khơi gợi hứng thú và tâm thế cho học
sinh hướng vào nội dung bài học.
Bài: Đức tính giản dị của Bác Hồ (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống, vấn đề học tập.
- Phương pháp: Thuyết trình, vẽ tranh
- Kĩ thuật: Lắng nghe tích cực
- Phương tiện: Máy chiếu
- Thời gian: 5p
- Để bắt đầu tiết học, khơi dậy niềm xúc động thiêng liêng, tình u, long
thành kính với Bác Hồ, GV cho HS xem một đoạn video clip, 1 thước phim thời
sự về Chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc một ca khúc nhạc không lời: Ai yêu Bác Hồ
Chí Minh hơn Thiếu niên Nhi đồng cho học sinh cùng hát tập thể.
- Sau khi xem xong GV cho học sinh bộc lộ tình cảm cá nhân mình đối
với Bác.
- GV dẫn dắt: Đề tài về Bác luôn là niềm cảm hứng bất tận trong thơ ca
Việt Nam. Đối với nhà văn Phạm Văn Đồng cũng như vậy, tác phẩm “Đức tính
giản dị của Bác Hồ” thể hiện sự giản dị là đức tính nổi bật ở Bác Hồ: giản dị
trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong lời nói và bài viết. Ở Bác, sự
giản dị hòa hợp với đời sống tinh thần phong phú, với tu tưởng và tình cảm cao
đẹp. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm, chúng ta đến với bài học hôm nay.
skkn
9
Tác dụng của Video trong hoạt động: HS trải nghiệm kĩ thuật lắng nghe
tích cực, khởi động bài học với tâm thế tràn đầy yêu kính và cảm xúc về Bác.
Hoặc GV cũng có thể mở ca khúc nhạc khơng lời: Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn
thiếu niên nhi đồng cho HS cùng hát tập thể.
2.3.4. Hình thức tạo trị chơi
Đây là hình thức tạo khơng khí lớp học sơi động. Bởi khi được chơi, các
em sẽ thích thú được: ‘‘Học mà chơi, chơi mà học’’, được rèn luyện sự mạnh
dạn, tự tin, khả năng phản xạ nhanh, sáng tạo, đồn kết. Có thể cho học sinh
chơi các trị chơi để đi vào bài mới bằng cách chia nhóm hoặc cá nhân tham gia.
Tổ chức một số trò chơi gây hứng thú cho học sinh để vào tiết học: Hộp q bí
mật, ơ chữ bí mật, Ai nhanh hơn…
Bài: Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động tiếp theo (Ngữ văn
7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp : Diễn giảng, thảo luận nhóm, trị chơi
- Kĩ thuật: Động não, làm việc nhóm, khăn trải bàn.
- Thời gian: (5p ).
Giáo viên tổ chức trò chơi "Hộp quà bí mật", chia lớp thành 4 nhóm.
Các nhóm sẽ trả lời các câu hỏi trong các hộp quà trong thời gian 3 phút. Mỗi
câu trả lời đúng nhận được 1 phần quà hấp dẫn
Giáo viên dẫn dắt vào bài từ việc ơn tập lại kiến thức cũ với khơng khí sôi
động hào hứng.
Bài Qua Đèo Ngang (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống, vấn đề học tập.
- Phương pháp, kĩ thuật: Vấn đáp, trực quan.
- Phương tiện: Máy chiếu
- Thời gian: 5p
Gv tổ chức khởi động bằng trị chơi Ơ chữ bí Mật: Đèo Ngang
V
H
Ị
U
N
Y
H
H
H
Q
Ệ
Ồ
T
H
À
U
N
X
H
C
Ạ
T
Ả
T
U
Ă
H
L
Ĩ
N
H
Â
N
Đ
È
O
N
G
A
N
G
À
O
N
H
B
N
H
L
skkn
N
Ẵ
N
G
N
Q
Ơ
N
H
U
N
G
A
G
G
Ì
H
Ư
O
N
1
2
3
4
5
6
7
8
10
Câu 1: Đây là thành phố nổi tiếng với các địa danh: Cầu Rồng, Bà Nà Hill
(Đà Nẵng)
Câu 2: Đây là một loại hình sân khấu cổ truyền, có vở nổi tiếng là Quan
âm Thị Kính
(Chèo)
Câu 3: Đây là một địa danh thuộc tỉnh Quảng Ninh nhiều lần được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới?
(Vịnh Hạ Long)
Câu 4: Đây là tỉnh có khu cơng nghiệp Fomosa?
(Hà Tĩnh)
Câu 5: Đây là quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp?
(Quảng Bình)
Câu 6: Chồng của bà Nguyễn Thị Hinh từng làm quan ở huyện nào?
(Huyện Thanh Quan)
Câu 7: Đây là một nữ sĩ nổi tiếng, tên tuổi bà gắn liền với bài Bánh trôi
nước.
(Hồ Xuân Hương)
Câu 8: Đây là tên gọi của kinh thành trước đây của Thủ đô Hà Nội?
(Thăng Long)
Từ các ơ Từ khóa, giáo viễn dẫn dắt vào bài
2.3.5. Liên tưởng loại suy
Loại suy là phép suy luận logic dựa vào một số dấu hiệu giống nhau giữa
những đối tượng để kết luận những dấu hiệu giống nhau khác. Có người xem
đây là một hình thức suy diễn (Suy luận diễn dịch) nhưng thông thường người ta
vẫn xem là một phép suy luận có tính độc lập ngang với quy nạp và chứng minh.
Với hình thức khởi động này có thể dùng vật để gợi suy nghĩ về người, mượn
hiện tượng tự nhiên để chỉ hiện tượng xã hội, dùng cái cụ thể để nói cái trừu
tượng…Nhìn chung, loại suy là loại suy luận rất đa dạng và linh hoạt vận dụng
được vào nhiều lĩnh vực nhận thức và cuộc sống.
Bài: Thành ngữ (Ngữ văn 7)
Giải thích thành ngữ: Lên thác xuống ghềnh
Có người nói: Cuộc đời ln có nhiều ghềnh thác. Em hiểu câu nói đó
như thế nào?
Gợi ý: Thác là nơi nước chảy vượt qua vách đá; ghềnh là nơi có đá lởm
chởm, nước chảy xiết. Như vậy thác và ghềnh đều chỉ nơi có địa hình khơng
bằng phẳng, rất khó khăn cho người đi lại mà còn là chỉ sự gian truân vất vả.
Xuất phát từ nét nghĩa trên người nói dùng cụm từ này đế chỉ cuộc đời của
những con người gặp nhiều gian lao, vất vả. Cuộc đời của chúng ta không phải
lúc nào cũng màu hồng mà đôi khi chúng ta sẽ gặp những điều khơng thuận lợi,
khó khăn, tut vọng, vấp ngã nhưng quan trọng là chúng ta có thể vượt qua hay
khơng đó chính là ý nghĩa của câu nói.
2.3.6. Nêu câu hỏi (nêu ra nghi vấn).
Với hình thức khởi động này, giáo viên đưa ra những câu hỏi. Nội dung
câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau nhưng phải
hướng vào nội dung bài học. Các câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học sinh phát triển
skkn
11
tư duy, xâu chuỗi vấn đề một cách mạch lạc. Đây là biện pháp khởi động đơn
giản có thể áp dụng cho nhiều kiểu bài trong dạy học môn Ngữ văn.
Bài: Cảnh khuya (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống/vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp, kĩ thuật: Vấn đáp, trực quan.
- Phương tiện: Máy chiếu
- Thời gian: 5p
- Tổ chức cuộc thi: Ai nhanh hơn
Giáo viên đưa ra câu hỏi: Em hãy kể tên các bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đã
được học
Gợi ý: Nam quốc sơn hà, Bánh trôi nước, Hồi hương ngẫu thư
Giáo viên dẫn dắt vào bài: Thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt khá là quen
thuộc với chúng ta. Hôm nay cô sẽ giới thiệu cho các em một bài thơ viết theo
thể loại này nữa, đó chính là bài "Cảnh khuya" của nhà thơ HCM.
Bài: Điệp ngữ (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống, vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp, kĩ thuật: Vấn đáp, trực quan, thuyết trình.
- Phương tiện: Máy chiếu
- Thời gian: 5p
Giáo viên đọc hoặc cho học sinh nghe bài "Thằng Bờm có cái quạt mo"
và hỏi học sinh: Cụm từ nào được lặp đi lặp lại, việc lặp đi lặp lại đó có tác dụng
gì?
Gợi ý: - Bờm rằng Bờm chẳng lấy; Phú ông xin đổi
-> Giúp bài ca dao có vẻ như đang đối đáp nhau, tạo cảm giác vui tươi
cho bài ca.
Giáo viên dẫn dắt vào bài: Những cụm từ được nhắc đi nhắc lại mà các
em vừa phát hiện đó chính là phép điệp ngữ. Để hiểu kĩ hơn về vấn đề, chúng ta
sẽ học bài "Điệp ngữ".
2.3.7. Hình thức đưa tình huống
Với biện pháp này giáo viên có thể đưa ra những tình huống buộc học
sinh phải giải quyết tình huống đó theo thực tế cuộc sống: có thể làm việc theo
cá nhân hoặc nhóm. Hình thức này học sinh sẽ vận dụng tư duy và năng lực của
mình để giải quyết tình huống.
Bài: Thêm trạng ngữ cho câu (Ngữ văn 7)
Hoạt động khởi động
- Mục đích: Tạo hứng thú, tâm thế cho học sinh; tạo tình huống/vấn đề
học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có của học sinh và nhu cầu
tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống/vấn đề học tập.
- Phương pháp: Diễn giảng, thảo luận nhóm, trị chơi.
skkn
12
- Kĩ thuật: Động não, làm việc nhóm, khăn trải bàn.
- Thời gian: (5p )
GV: Tổ chức cho lớp hoạt động theo cặp đôi.
Mỗi một cặp sẽ đặt 2 câu đơn:
Câu 1: Quan sát bên ngoài sân trường và đặt một câu đơn có 2 thành phần
là chủ ngữ và vị ngữ.
Câu 2: Quan sát trong lớp học và đặt 2 câu đơn có 2 thành phần là chủ
ngữ và vị ngữ.
Sau khi các nhóm làm xong, giáo viên yêu cầu các em thêm từ chỉ thời
gian, địa điểm vào phía trước câu vừa đặt.
Ví dụ: Chim hót líu lo. -> Trên cành cây, chim hót líu lo.
Giới thiệu bài: Thành phần mà các em vừa thêm vào đó chính là trạng
ngữ. Vậy trạng ngữ là gì, thêm trạng ngữ cho câu để làm gì, chúng ta sẽ tìm hiểu
bài học hôm nay.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Sau một thời gian áp dụng các biện pháp vào giảng dạy, tôi nhận thấy
học sinh đã có nhiều hứng thú và đam mê trong giờ học Ngữ văn. Các em đã
tích cực và tự giác hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập, hoàn thành
các nhiệm vụ học tập được giao. Niềm vui của giáo viên dạy Ngữ văn khơng chỉ
là chất lượng tính bằng các con số, bằng tỉ lệ mà còn là những ánh mắt long
lanh, say sưa tiếp nhận tri thức, những bàn tay tự viết ra những bài văn hay, tự
nhiên, đầy cảm xúc, những nụ cười thân thiện của các em. Qua kiểm tra, đánh
giá cho thấy sự tiến bộ rõ rệt của học sinh, điều đó khẳng định hiệu quả của các
biện pháp đã nêu.
- Thông qua kết quả các phiếu khảo sát cá nhân: Đa số học sinh có hứng
thú với việc học tập mơn Ngữ văn thơng qua các hình thức khởi động tích cực
thay vì truyền thống.
- Thông qua kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra giữa kì, cuối
kì, tỉ lệ học sinh khá, giỏi ngày càng tăng, tỉ lệ học sinh trung bình ngày càng
giảm, chất lượng mơn học cũng tăng lên rõ rệt.
* Kết quả cụ thể:
+ Kết quả khảo sát trước khi thực hiện các biện pháp:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Sĩ số
Lớp
HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
7B
47
8
17,2
10
27
2
4,2
21,2
57,4
+ Kết quả khảo sát sau khi thực hiện các biện pháp:
Giỏi
Khá
TB
Sĩ số
Lớp
HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
7B
47
15
31,9
25,5
20
40
12
Tăng
0
14,7
4,3
0
0
07
02
Giảm
0
0
0
0
0
07
17,4
3. Kết luận - Kiến nghị
skkn
13
3.1. Kết luận
Tóm lại, thực hiện được các phương pháp dạy học tích cực trong việc dạy
- học mơn Ngữ văn trong nhà trường là hết sức cần thiết và quan trọng, hơn thế
nữa nó cịn góp phần thay đổi phương pháp dạy học truyền thống bằng phương
pháp mới nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, tính độc lập, sáng tạo của học
sinh. Đồng thời nó cũng góp phần làm thay đổi cách kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh - từ kiểm tra, đánh giá bằng lý thuyết suông chuyển sang
kiểm tra, đánh giá cả kỹ năng và khả năng vận dụng kiến thức. Từ nhận thức đó
trong năm năm học 2021- 2022, tơi đã đúc kết và áp dụng tương đối thành công
nội dung theo đề tài đã chọn này để giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 tại trường
THCS Lê Quý Đôn. Vấn đề này đã được tơi áp dụng vào q trình nghiên cứu
soạn giảng giúp học sinh ở lớp tôi giảng dạy học tập đạt được những kết quả
nhất định. Qua bài nghiên cứu, giúp tôi thêm kinh nghiệm trong việc nghiên cứu
để soạn giảng, giúp cho bài học sinh động hơn, khoa học hơn, góp phần “Đổi
mới phương pháp dạy học”.
Với đề tài này tơi hi vọng nó sẽ góp phần nào đó giải quyết những khó
khăn của một số giáo viên khi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, khó
khăn khi khởi động một bài dạy Ngữ văn.
Trên đây là toàn bộ nội dung đề tài “Một số biện pháp tổ chức hoạt động
khởi động nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn
lớp 7” mà tơi đã thực hiện để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ
văn trong nhà trường. Tôi hi vọng rằng sáng kiến kinh nghiệm này là một đóng
góp nhỏ của cá nhân góp phần nâng cao chất lượng mơn Ngữ văn nói riêng và
chất lượng chung của nhà trường. Tuy nhiên, đây là một sáng kiến kinh nghiệm
của cá nhân nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong Hội
đồng khoa học cấp trên xem xét, đánh giá để đề tài được hồn thiện hơn. Tơi xin
chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị
Từ kết quả đã đạt được qua việc áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong các tiết học, tơi xin đề xuất một số kiến nghị sau đây:
* Đối với giáo viên:
Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị bài dạy một cách chu đáo và
đầy đủ các phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy. Ở mỗi bài dạy, giáo viên
phải xác định được: bài dạy cần những gì? dạy như thế nào? Để tiết dạy nhẹ
nhàng, tự nhiên và hiệu quả từ đó lựa chọn phương pháp và cách tổ chức các
hoạt động dạy học phù hợp với nội dung bài học.
Biết lựa chọn hệ thống phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với
nội dung bài dạy và đối tượng học sinh trong lớp tạo nên sự hoạt động đồng bộ
giữa thầy và trò, tạo sự hứng thú học tập của học sinh một cách tự nhiên, thoải
mái. Để đạt yêu cầu đó yêu cầu giáo viên phải biết khai thác vốn kiến thức của
học sinh vào việc xây dựng kiến thức bài học.
Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải có sự say mê trong giảng dạy, ln
có ý thức coi trọng nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm và tình thương với học
sinh. Có như vậy bản thân người thầy giáo mới say mê công tác chuyên môn
nghiệp vụ, nghiên cứu kỹ tài liệu, sưu tầm tư liệu, tìm tòi phương pháp đặc trưng
skkn
14
đối với từng bài, từng nội dung và kiến thức cần thiết.
* Đối với tổ chuyên môn, nhà trường:
Cần khuyến khích, động viên giáo viên nghiên cứu, thực hiện và áp dụng
những sáng kiến hay vào giảng dạy để đẩy mạnh phong trào nâng cao chất
lượng chuyên môn trong nhà trường, tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt
động trải nghiệm, sáng tạo, tổ chức các câu lạc bộ yêu thơ văn...để khơi dạy
niềm đam mê, hứng thú học tập bộ môn Ngữ văn.
* Đối với các tổ chức quản lý giáo dục:
Cần tổ chức nhiều hơn các hội thảo, chuyên đề cấp trường, cấp cụm để
giáo viên có cơ hội được thảo luận và học hỏi các bạn đồng nghiệp, giao lưu về
những kinh nghiệm và mở rộng kiến thức môn học gắn với cuộc sống nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường...
Đầu tư cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo phục
vụ kịp thời cho giáo viên dạy học. Từng bước hiện đại hoá các phương tiện dạy
học trong nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2022
Tôi xin cam kết đây là sáng kiến
kinh nghiệm được viết qua sự đúc kết
trong quá trình giảng dạy, khơng sao
chép, vi phạm bản quyền.
Người viết
Nguyễn Thị Hồ
XÁC NHẬN CỦA PHỊNG GD&ĐT
skkn
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hồ
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Giáo viên trường THCS Lê Quý Đôn – Bim Sơn
TT
1.
2.
3.
Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm nâng cao
chất lượng môn Ngữ văn 7
thông qua việc rèn luyện kỹ
năng làm bài tập
Một vài kinh nghiệm phát huy
tính tích cực của học sinh
trong giờ học phần văn bảnNgữ văn lớp 8
Phương pháp sử dung bản đồ
tư duy trong q trình dạy
học mơn Ngữ văn
Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp Phòng,
Sơ, Tỉnh…)
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
Năm học
đánh giá
xếp loại
Phịng
GD & ĐT
huyện Hà
Trung
C
2016-2017
Sở GD &
ĐT Thanh
Hố
B
2019-2020
Phịng
GD & ĐT
Bỉm Sơn
C
2020-2021
skkn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013.
[2] Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014.
[3] Danh ngôn về giáo dục (Horaceman)
[4] Từ điển bách khoa Việt nam (2011). NXB Từ điển bách khoa.
[5] Từ điển Tiếng Việt (2011). NXB Đà Nẵng.
[6] Chương trình giáo dục phổ thơng mới năm 2018. PGS-TS Tơ Văn Bình.
[7] Nguồn Internet.
skkn