SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
NHẰM PHÁT HUY PHẨM CHẤT NĂNG LỰC CHO HỌC SINH
TRONG MÔN HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN CẤP TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
CỬA LỊ, NGHỆ AN
LĨNH VỰC: MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT CỬA LÒ
_____________________________________________________________
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
NHẰM PHÁT HUY PHẨM CHẤT NĂNG LỰC CHO HỌC SINH
TRONG MÔN HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN CẤP TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
CỬA LỊ, NGHỆ AN
LĨNH VỰC: MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Họ và tên tác giả:
Tổ bộ môn:
Năm thực hiện:
Số điện thoại:
Lê Thị Thu Trung
Khoa học xã hội
2021
0912363533
Cửa Lò - 2021
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Mục đích của đề tài ......................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................2
4. Thời gian. .....................................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................2
6. Tính mới của đề tài.......................................................................................2
II. NỘI DUNG ...................................................................................................3
1. Cơ sở lí luận .................................................................................................3
1.1. Tổng quan chung về đổi mới phương pháp dạy học ...............................3
1.2 Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh ....3
1.3 Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học .....................................4
1.4 Một số phẩm chất năng lực được hình thành và phát triển trong mơn
Giáo dục cơng dân............................................................................................5
1.5 Một số vấn đề về tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học ....................6
2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................7
2.1. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học hiện nay ....7
2.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động khởi động trong việc dạy học
môn giáo dục công dân cấp trung học phổ thông ...........................................9
2.3 Nguyên nhân ......................................................................................... 10
3. Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm chất
năng lực cho học sinh trong môn học Giáo dục công dân cấp trung học phổ
thông tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị, Nghệ An................................. 10
3.1. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động khởi động .................................. 10
3.2. Lựa chọn nguồn tư liệu khởi động phù hợp, giá trị ............................... 15
3.3. Xây dựng hoạt động khởi động phù hợp năng lực người học................ 16
4. Kết quả đạt được ........................................................................................ 17
III. KẾT LUẬN ............................................................................................... 20
1. Phạm vi ứng dụng của đề tài ...................................................................... 20
2. Mức độ vận dụng ....................................................................................... 20
3. Kết luận...................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 22
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 23
Phụ lục 1. PHIẾU KHẢO SÁT DÀNH CHO GIÁO VIÊN ............................ 23
Phụ lục 2. PHIẾU KHẢO SÁT DÀNH CHO HỌC SINH.............................. 24
Phụ lục 3. HỌC SINH THAM GIA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG ................. 25
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
1
GDCD
Giáo dục công dân
2
GV
Giáo viên
3
HS
Học sinh
4
THPT
Trung học phổ thông
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì
qua việc học. Để làm được điều đó nhất định phải thực hiện thành công việc
chuyển từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học,
cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
Trong phương pháp dạy học tích cực học sinh luôn được cuốn hút vào các hoạt
động do giáo viên tổ chức và chỉ đạo. Một trong những hoạt động của tiến trình
dạy học đó chính là hoạt động khởi động.
- Khởi động là hoạt động đầu tiên tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người
học trong tồn tiết học, có vai trị rất lớn giúp tiết dạy thành cơng.Hoạt động khởi
động sẽ kích thích tính tị mị, sự hứng thú, tâm thế của học sinh ngay từ đầu tiết
học. Nếu tổ chức tốt hoạt động này sẽ tạo một tâm lí hưng phấn, tự nhiên để “lơi
kéo” học sinh vào tiết học, tạo ra khơng khí vui vẻ giúp học sinh tiếp cận nội dung
bài học. Hơn nữa, nếu hoạt động khởi động càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những
bất ngờ thú vị cho học sinh, người học sẽ khơng cịn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, lo
lắng, nhàm chán như khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Các em sẽ thoải mái tham gia
vào hoạt động học tập, giờ học vì thế sẽ giảm bớt căng thẳng, khô khan. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy để tạo ra được một cách khởi động hấp dẫn, có hiệu quả cũng
không phải là điều dễ dàng đối với một số giáo viên hoặc quá trình tổ chức rời rạc,
nặng kiến thức khiên học sinh không hứng thú… Việc thực hiện tiết dạy của giáo
viên vẫn cịn theo hình thức cũ: nặng về lý thuyết, thiếu đi tính hấp dẫn, lôi cuốn
học sinh ngay từ hoạt động vào bài; giáo viên còn xem nhẹ việc dẫn dắt vào bài mà
chủ yếu dành thời gian cho việc tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến tiết học khô khan,
học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức.
Trước những định hướng đổi mới của Đảng, nhà nước và của ngành về dạy
học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh; cơ bản giáo viên trường trung
học phổ thông Cửa Lị nói chung và giáo viên bộ mơn Giáo dục cơng dân nói riêng
đã có tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung
tâm, phát huy tính tích cực của các em.
Trong những năm qua bản thân tơi ln quan tâm, tìm tịi đổi mới để tìm ra
cách khởi động bài học hấp dẫn, đúng yêu cầu và đem lại hiệu quả cho từng tiết
dạy. Chính vì vậy tơi mạnh dạn chia sẻ những kinh nghiệm thực tế của bản thân và
xin đề xuất Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm
chất năng lực cho học sinh trong môn học Giáo dục công dân cấp trung học phổ
thơng tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị, Nghệ An.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về
phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học; đặc biệt là việc
1
dạy học theo chuỗi hoạt động. Đề tài tập trung vào xây dựng hoạt động khởi động
nhằm phát huy phẩm chất năng lực cho học sinh trong môn học GDCD cấp THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm chất năng
lực của học sinh trong môn GDCD cấp THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: Trường THPT Cửa Lò, Nghệ An.
4. Thời gian: Đề tài được thực hiện tại Trường trung học phổ thơng Cửa Lị
trong năm học 2019 - 2020 và năm học 2020 - 2021.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương pháp thu thập thông tin thơng
qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những nội dung liên quan đến
vấn đề nghiên cứu; làm cơ sở lý luận cho đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, dự
đốn về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mơ hình lý
thuyết hay thực nghiệm ban đầu.
- Nhóm nghiên cứu thực tiễn:
+ Điều tra bảng hỏi.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp xử lý thống kê.
6. Tính mới của đề tài
Đề tài đề xuất và bước đầu hình thành một số hoạt động khởi động áp dụng
trong chương trình GDCD cấp THPT nhằm nâng cao hiệu quả trong việc dạy học.
Là đề tài đầu tiên được áp dụng tại trường THPT Cửa Lị.
Thơng qua hoạt động khởi động đã góp phần phát huy phẩm chất năng lực
cho người học. Tạo mối quan hệ gắn kết giữa giáo viên và học sinh, tạo điều kiện
cho học sinh phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập. Với những kết quả đó,
tơi có thể khẳng định rằng việc tổ chức hoạt động khởi động theo các phương pháp
mà tôi đã nêu trên sẽ là cơ sở, là điều kiện để nâng cao chất lượng dạy học cũng
như tạo được hứng thú và niềm đam mê môn GDCD của học sinh.
Mặc dù có một số đồng nghiệp đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng tôi xin
khẳng định những vấn đề tơi nêu ra ở đây hồn tồn là những kinh nghiệm, những
tâm huyết mà bản thân tôi đã đúc kết lại trong quá trình giảng dạy của mình tại
trường trung học phổ thơng THPT Cửa Lị đã được kiểm định qua thực tế và mang
lại những hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu giảng dạy của của bản thân.
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Tổng quan chung về đổi mới phương pháp dạy học
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ
nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng
việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người
học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi
mới phương pháp dạy học ở trung học phổ thơng nói riêng là phát huy tính tích
cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc
của người học. Đó cũng là những xu hướng tất yếu trong cải cách phương pháp
dạy học ở mỗi nhà trường.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới
căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có
nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng
phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng này.
1.2 Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp
dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học
tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri
thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học
tập tích hợp liên mơn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát
triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thơng
tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc
thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng
3
phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức
(tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy
học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình
thức tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngồi
lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu
cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng KT vào thực tiễn, nâng cao hứng thú
cho người học.
Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học mơn học tối thiểu đã qui
định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội
dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng CNTT trong dạy
học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể
hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp
học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các
hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào
các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
Thứ hai: chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và
các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tịi
và phát hiện kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích,
tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen… để dần hình
thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Thứ ba: tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở
thành môi trường giao tiếp GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và
kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập
chung.
Thứ tư: chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt
tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú
trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều
hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí
để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót (tạo
điều kiện để học sinh tự bộc lộ, tự thể hiện, tự đánh giá).
1.3 Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
- Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Đổi mới phương pháp dạy học khơng có nghĩa là loại bỏ các phương pháp
dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng
việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao
4
hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm
vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc
chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu
trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các
phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các
phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học
mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm
thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.
- Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong tồn bộ
q trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng
cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đơi và dạy học cá
thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức
có những chức năng riêng. Tình trạng độc tơn của dạy học tồn lớp và sự lạm dụng
phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thơng qua làm việc nhóm.
Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến
bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc
nhóm, góp phần tích cực hố hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình
thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ
học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà cịn có những hình thức làm việc
nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học,
sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu
trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm
xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hố “bên ngồi” của
học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hố “bên trong” cần chú ý đến mặt bên
trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các
phương pháp dạy học tích cực khác.
1.4 Một số phẩm chất năng lực được hình thành và phát triển trong mơn
Giáo dục công dân
Về phẩm chất: Mục tiêu của môn GDCD cho thấy việc hình thành, phát
triển cho học sinh các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực,
trách nhiệm là ưu thế của môn học này. Các môn học và hoạt động giáo dục khác,
tùy theo đặc trưng riêng mà góp phần hình thành, phát triển cho học sinh những
phẩm chất khác nhau ở những mức độ khác nhau. Khác với các môn học và hoạt
động giáo dục khác, mơn GDCD có mục tiêu chủ yếu là hình thành, phát triển cho
học sinh cả 5 phẩm chất đạo đức
Về năng lực: mơn GDCD hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực
là: năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản thân, năng lực tìm hiểu và
tham gia hoạt động kinh tế - xã hội. Các năng lực này là biểu hiện đặc thù của các
năng lực chung (năng lực tự học và tự chủ, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
5
giải quyết vấn đề và sáng tạo) và năng lực khoa học
1.5 Một số vấn đề về tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học
Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực
hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn
cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng
thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu
hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần
này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng
có thể trả lời được. Khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích
thú để tạo tâm lý tốt khi vào học.
Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu
tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ khơng có hứng
thú tìm hiểu kiến thức mới, khơng kích thích được trí tị mị và nhu cầu học tập một
cách chủ động và tích cực của các em. Do đó bên cạnh câu hỏi dễ cần có một
lượng nhất định các câu hỏi khó liên quan đến nội dung bài học, đòi hỏi học sinh
phải tư duy, phải chủ động khai thác kiến thức mới thì mới trả lời được. Do đó,
trong hoạt động khởi động nếu giáo viên tìm ra được tình huống khó nhưng lại hấp
dẫn, kích thích trí các em thì dù là học sinh khá giỏi hay học sinh trung bình, học
sinh yếu cũng sẽ có nhu cầu tìm hiểu để trả lời. Từ đó dẫn các em vào bài học một
cách tự nhiên, khơng gị bó mà các em tự giác, tích cực học tập để giải quyết cái
khúc mắc đã được đưa ra từ tình huống ban đầu. Một khởi động bài học thành cơng
cần khơi gợi trong học trị mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt
động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Muốn như vậy, hoạt động
khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề để thực
hiện một loạt các hoạt động tìm tịi, giải quyết vấn đề. Muốn như vậy, giáo viên
phải là người có ý tưởng, biết gieo vấn đề để kích thích trí tị mị của người học.
Việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, thiết kế tiến
trình dạy học các bài học hoặc chủ đề dạy học đảm bảo các yêu cầu về phương
pháp dạy học, cách xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá chuỗi các hoạt
động học theo sự định hướng phát triển năng lực người học là rất cần thiết đối với
giáo viên trong giai đoạn hiện nay. Khởi động là hoạt động đầu tiên, hoạt động này
nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân
về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới. Mặt khác hoạt động khởi
động sẽ kích thích tính tị mị, sự hứng thú, tâm thế của học sinh ngay từ đầu tiết
học. Chính vì vậy trong q trình thiết kế giáo viên phải tìm tịi các hình thức và
phương pháp phù hợp, phải linh hoạt, sáng tạo, trong việc tổ chức hoạt động khởi
động bài học. Tránh tình trạng hoạt động đơn điệu, nhàm chán, hoặc khơng tổ chức
hoạt động khởi động mà để nó diễn ra một cách tuần tự, cứng nhắc.
Xác định mục tiêu khởi động
Hoạt động khởi động phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ
thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách
rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao trong hoạt động khởi động cần liên quan đến
6
kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài
học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS vào
phần hình thành kiến thức mới.
Kỹ thuật cơ bản khi xây dựng hoạt động khởi động
Phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu dẫn
nhập nên không mất nhiều thời gian. Hiện nay, hình thức đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, do đó khởi động cần tổ
chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian
nhiều hơn. Vì vậy khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động, giáo viên cần
lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội
dung mang tính chất minh họa. Chúng ta cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để
khởi động, sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó
giúp GV biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để
khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết (điều này có thể sẽ khác nhau
ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với đối tượng
học sinh ở các lớp).
Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực
hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn
cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng
thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu
hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Đồng thời việc đưa các câu hỏi ở
phần khởi động cũng nên theo nhiều mức độ dành cho học sinh yếu, khá, giỏi.
Tránh tình trạng, có em tham gia có em khơng.
Giáo viên khi tổ chức khởi động cũng cần lưu ý, mỗi lớp học có 1 đặc điểm
riêng nên tùy hồn cảnh của mỗi lớp để điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với lớp
đó. Phương án xây dựng hoạt động khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự
đổi mới hình thức, phương pháp, tránh tình trạng nhàm chán khi tiết nào cũng tổ
chức một hình thức như nhau.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học hiện nay
Quá trình dạy - học là một hoạt động phức tạp có sự tác động đa chiều, trong
đó chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy - học cơ bản phụ thuộc vào chủ thể
nhận thức - người học. Tuy nhiên các yếu tố khách quan cũng đóng vai trị rất quan
trọng trong việc tác động để tạo tâm lý sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ và hứng thú
học tập của học sinh. Hiện nay đa số giáo viên đều có tinh thần tự đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh; tuy nhiên phần lớn
các thầy cô giáo đều hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành kiến thức
là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động cũng như vai trò của
khởi động trong việc định hướng tiết dạy, tạo tâm lý tích cực cho học sinh để các
em chủ động và tích cực khai thác, khám phá kiến thức mới nhằm đạt được mục
tiêu giáo dục đề ra về kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần hình thành cho
học sinh sau mỗi tiết học. Thực tế cho thấy hầu hết giáo viên khi thiết kế hoạt động
7
khởi động thường chỉ làm theo hình thức giới thiệu qua một chút để vào bài, như
vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian dành cho hoạt động khai thác kiến thức mới,
không lo lắng nhiều về vấn đề thiếu thời gian, cháy giáo án… do đó tiết học tương
đối khô khan, thiên về lý thuyết và giảng mà thiếu đi sự hợp tác tích cực của học
sinh; ngay từ bước vào bài học sinh đã có tâm lý thụ động chờ giáo viên dẫn dắt
nội dung và truyền thụ một chiều, từ đó sẽ khó tạo tâm lý để các em sẵn sàng thực
hiện nhiệm vụ một cách tích cực ở các hoạt động tiếp theo của bài học.
Để khách quan tôi đã tiến hành khảo sát việc tiến hành thực hiện hoạt động
khởi động của giáo viên ở tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị nơi tơi đang
công tác và đem lại kết quả như sau:
- Đối tượng khảo sát: Giáo viên
- Số lượng: 50 GV
- Nội dung khảo sát: Các nội dung liên quan đến việc tổ chức hoạt động khởi
động trong dạy học
Kết quả khảo sát:
Nội dung
Số lượng Tỷ lệ %
1. Thầy/ cơ có thực hiện hoạt động khởi động trong q
trình giảng dạy khơng?
- Có
27
54
- Khơng
23
46
2. Để tiến hành hoạt động khởi động thầy cô căn cứ vào
cơ sở nào ?
- Căn cứ vào nội dung bài học
22
44
- Không căn cứ vào nội dung bài học
18
36
- Chỉ cần vui vẻ, hấp dẫn
10
20
3. Thầy (Cô) tổ chức hoạt động khởi động nhằm mục đích
gì?
- Dẫn dắt kiến thức
28
56
- Tạo hứng thú
17
34
- Tạo tình huống có vấn đề
15
30
4. Cách thức tiến hành hoạt động khởi động thường dùng
- Sử dụng các phương pháp tích cực
21
42
- GV tự dẫn dắt
29
58
5. Người thực hiện hoạt động khởi động?
- Giáo viên
31
62
- Học sinh
5
10
- Giáo viên và học sinh
16
32
6. Mức độ thu hút và hiệu quả?
- Cao
20
40
- TB
16
32
- Thấp
14
28
8
* Kết quả: Về việc thực hiện hoạt động khởi động: Có 27/50 GV (54%) có
tổ chức hoạt động; cịn lại 23/50 GV (26%) không tổ chức hoạt động khởi động;
Về cơ sở để xây dựng hoạt động khởi động có 22/50 (44%) GV cho rằng cần căn
cứ vào nội dung bài học, có 28 / 50 (56%) GV cho rằng không cần căn cứ nội dung
(18 GV) và chỉ cần vui vẻ, hấp dẫn (10 GV); Có tới 29/50 (58%) GV tự dẫn dắt bài
học mà không sử dụng phương pháp tích cực tổ chức khởi động; Có tới 46 % GV
thực hiện nhiệm vụ khởi động.
Kết luận: Đa số giáo viên có thực hiện khởi động nhưng chỉ được tiến hành
trong giờ thao giảng, dạy học chủ đề, dạy học minh họa, nghiên cứu bài học. Họ
dành thời gian và tập trung cho hoạt động khai thác kiến thức mới được nhiều hơn
còn việc định hướng vào bài học chỉ sơ qua bằng một vài câu dẫn dắt có liên quan,
mang tính chất giới thiệu bài học. Khơng ít giáo viên gặp lúng túng khi tổ chức do
chưa nắm được các yêu cầu, mục tiêu cơ bản của hoạt động khởi động, làm cho giờ
học còn nặng nề, nhàm chán.
Một số ít giáo viên có nêu tình huống khởi động nhưng cịn mang tính hình
thức, chưa xuất phát và tạo được liên kết thực sự với bài học để tạo hứng thú, kích
thích sự sáng tạo, chủ động học tập của học sinh. Giáo viên bộ môn GDCD đã đều
tay trong triển khai trong giờ dạy song có một số có khi có lúc cịn lúng túng, làm
cho xong chuyện.
2.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động khởi động trong việc dạy học
môn giáo dục công dân cấp trung học phổ thơng
Để tìm hiểu thực trạng việc tổ chức hoạt động khởi động trong môn GDCD,
tôi tiến hành khảo sát 10 GV dạy GDCD thuộc địa bàn Nghi Lộc, Cửa Lị.
Với các câu hỏi: Thầy, cơ có thường xuyên tổ chức hoạt động khởi động
không? (thường xuyên/ thỉnh thoảng/ khơng); Theo thầy, cơ mục đích chính của
hoạt động khởi động là gì?(tạo hứng thú cho người học/ dẫn dắt bài học/ kiểm tra
kiến thức.); Thông qua hoạt động khởi động có thể hình thành và phát triển được
phẩm chất và năng lực cho người học khơng? (có/ không); Việc tổ chức hoạt động
khởi động phù hợp sẽ đem lại hiệu quả cho bày học như thế nào? (tốt; khá; bình
thường).
Kết quả thu được như sau: có 5/10 GV thường xuyên tổ chức hoạt động khởi
động. Có 03/10 GV thỉnh thoảng và 02/10 GV không tổ chức hoạt động khởi động.
Có 07/10 GV hiểu đúng về mục đích hoạt động khởi động là tạo hứng thú, kích
thích tư duy cho người học. Có 05/10 GV cho rằng có thể hình thành và phát triển
phẩm chất năng lực cho người học thơng qua hoạt động khởi động. Có 7/10 GV
thừa nhận việc tổ chức hoạt động khởi động phù hợp sẽ đem lại hiệu quả tốt cho
tiết dạy.
Kết luận: Qua kết quả khảo sát có thể khẳng định đa số GV đã hiểu và thấy
được vai trò quan trọng của hoạt động khởi động trong tiết dạy. Tuy nhiên, vì một
số lý do nào đó mà vẫn cịn có một số GV xem nhẹ hoặc không tổ chức hoạt động
9
khởi động. Đây là một hạn chế trong việc dạy học theo định hướng phát triển năng
lực và đồng thời không tạo được cơ hội cho học sinh phát huy phẩm chất năng lực
bản thân.
2.3 Nguyên nhân
- Nguyên nhân chủ quan: Giáo viên chưa thực sự đầu tư vào hoạt động khởi
động; tổ chức hoạt động cịn nặng tính nội dung; chưa mạnh dạn vận dụng phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào việc thiết kế hoạt động khởi động.
- Nguyên nhân khách quan: Việc tổ chức hoạt động khởi động cịn gặp khó
khăn do học sinh thiếu hợp tác hoặc học sinh chưa tự tin, mạnh dạn thực hiện
nhiệm vụ; nhiều học sinh thiếu sự chủ động trong nhận và thực hiện nhiệm vụ;
chất lượng học sinh không đồng đều.
3. Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm
chất năng lực cho học sinh trong môn học Giáo dục công dân cấp trung học
phổ thơng tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị, Nghệ An
3.1. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động khởi động
Đa dạng được hiểu là nhiều, phong phú; Đa dạng hóa hình thức hoạt động
khởi động là việc sử dụng nhiều cách thức để tổ chức khởi động.
Việc đa dạng hóa hình thức khởi động tạo nên tính hấp dẫn, mới mẻ cho
người học. Mặt khác, thông qua việc thực hiện đa dạng nhiệm vụ học sinh có cơ
hội phát triển nhiểu năng lực và phẩm chất.
Để thực hiện đa dạng hóa hình thức khởi động tơi sử dụng kết hợp các
phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp tình huống. trị chơi, sử dụng
video và trực quan.
3.1.1 Sử dụng phương pháp đóng vai khi thiết kế hoạt động khởi động
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử” một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp HS
suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các
em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” khơng phải là phần chính của
phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Trong các
phương pháp dạy học tích cực, đóng vai là phương pháp phù hợp với đặc trưng dạy
- học của môn GDCD, đặc biệt là dạy học phần pháp luật và đạo đức. Đây là
phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những suy nghĩ, cảm
nhận và ứng xử theo một vai giả định. Từ đó giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một
vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào
một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình. Với phương pháp
đóng vai học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái
độ trong thực tiễn. Đồng thời gây hứng thú và chú ý cho học sinh, tạo điều kiện
làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học
sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị - xã hội. Tuy nhiên trong quá
10
trình sự dụng phương pháp này GV cần lưu ý về tình huống đóng vai phải phù hợp
với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hồn cảnh lớp
học, khơng nên q dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép, tình huống phải
có nhiều cách giải quyết, cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù
hợp, khơng cho trước “kịch bản”, lời thoại. Mỗi tình huống có thể phân cơng một
hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai, cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai
của các nhóm. Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng
nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết, nên khích lệ cả học sinh nhút
nhát cùng tham gia.
Ví dụ: Khởi động bằng phương pháp đóng vai khi dạy: Bài 2 Thực hiện
pháp luật
Mục tiêu:
- Kích thích HS tự tìm hiểu xem các em đã biết gì về thực hiện pháp luật
- Rèn luyện năng lực nhận xét đánh giá, tư duy phê phán
- Rèn luyện kĩ năng quan sát, giao tiếp
Cách tiến hành:
GV cho HS xem tình huống (tình huống do học sinh đóng vai)
Nhân vật:
- Cảnh sát giao thơng
- Nhóm học sinh đi xe đạp
Đạo cụ:
- Xe đạp
Trang phục:
- Học sinh mặc đồng phục Cảnh sát giao thông mặc đồng phục công an
Thực hiện:
* Tốp học sinh (gồm 5 bạn): giờ tan học, trên đường đi học về, trong đó
(một tốp 3 bạn) đi dàn hàng ngang; cịn tốp học sinh khác (2 bạn) vừa đi, vừa hát
nghêu ngao, lạng lách.
* CSGT: đến ngã tư, CSGT tuýt còi và yêu cầu các em học sinh dừng lại
* Tốp học sinh (gồm 3 bạn) đã tuân theo hiệu lệnh của CSGT dừng xe và đi
vào sát lề đường; Còn tốp học sinh (gồm 2 bạn) không tuân theo hiệu lệnh của
CSGT, vẫn ngang nhiên phóng qua ngã tư
Hỏi: Trong tình huống trên, hành vi nào đúng? Hành vì nào chưa đúng?
HS: Trả lời
GV: dẫn dắt vào Bài 2: thực hiện pháp luật
11
Kết luận: Sử dụng phương pháp đóng vai trong thiết kế hoạt động khởi động
đã làm bầu khơng khí trong lớp học luôn sôi nổi, hấp dẫn và thu hút người học,
hiệu quả mang lại rất rõ rệt. Các em sẽ được trải nghiệm vào các nhân vật được rèn
luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ của mình trước những
vấn đề đặt ra. Chính vì vậy với việc sự dụng phương pháp này khi tổ chức hoạt
động khởi động tơi đã có những thành cơng nhất định khi dạy các bài ở chương
trình GDCD đặc biệt là phần pháp luật và đạo đức.
3.1.2. Sử dụng phương pháp trò chơi khi thiết kế hoạt động khởi động
Trò chơi là hoạt động được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy nó có
khả năng lơi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trị chơi
ngồi mục đích đó cịn có thể ơn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt
động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trị chơi
giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực
tâm lý do tiết học trước gây ra.
- Sử dụng phương pháp trò chơi là phương pháp giáo viên thông qua việc tổ
chức các trị chơi có liên đến nội dung bài học, có tác dụng tạo hứng thú học tập
cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
- Qua trò chơi học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,
đồng thời cũng phát triển tính tự giác ở học sinh. Bản chất của phương pháp sử
dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động cho học sinh.
Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi
trong đó mục đích của trị chơi chuyển tải mục tiêu của bài...
- Phương pháp trị chơi có một số ưu điểm và nhược điểm sau:
+ Ưu điểm:
. Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn HS do
đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, đo đó
giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới.
. Trị chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học
tập hợp tác cho HS.
+ Nhược điểm:
. Khó củng cố kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống.
. Học sinh dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính chất học tập của các
trò chơi.
Khi sự dụng phương pháp này GVcần lưu ý một số điều sau:
. Lựa chọn hoặc tự thiết kế trò chơi đảm bảo những yêu cầu:
. Mục đích của trị chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần
12
của chương trình.
. Hình thức chơi đa dạng giúp HS được thay đổi các hoạt động học tập trên
lớp, giúp HS phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động.
. Luật chơi đơn giản để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi
có nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác.
. Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ
. Chọn quản trị chơi có năng lực phù hợp với u cầu của trò chơi.
. Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh
hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của
bài học một cách có hiệu quả.
- Trong q trình tổ chức hoạt động khởi động bản thân tôi thường sử dụng
một số trò chơi sau: Trò chơi “Hỏi nhanh, đáp gọn”, trò chơi “làm theo lời tơi hát”,
trị chơi ơ chữ, trị chơi “Gió thổi”, Trị chơi mảnh ghép, trị chơi đốn ý đồng đội,
trị chơi “nhanh như chớp”...
Sau đây tơi xin trình bày một số ví dụ cụ thể trong các tiết dạy của tơi khi
vận dụng phương pháp trị chơi để thiết kế hoạt động khởi động trong bài dạy mơn
GDCD bậc THPT
Ví dụ: Khi dạy bài: Quyền bình đẳng giữa các Dân tộc và Tơn giáo. Tơi sử
dụng trị chơi “Tiếp sức”
- Mục tiêu:
+ Kích thích HS tự tìm hiểu xem các em biết gì về 54 dân tộc hiện nay ở
nước ta
+ Rèn luyện kĩ năng tổng hợp, giao tiếp
+ Rèn luyện năng lực tư duy, hợp tác.
- Cách tiến hành: Chia lớp thành 2 đội, Cư 3 bạn làm trọng tài
- Thời gian: 5 phút
- GV phổ biến luật chơi:
+ Mỗi đội cử 1 người kể tên 1 dân tộc mà em biết
+ Lần lượt 1người của đội này nói xong thì đội kia tiếp tục...
+ Các đội đưa ra đáp án không trùng nhau (Nếu trùng là phạm luật)
- Các nhóm thảo luận trong vịng 1 phút
- Các nhóm tiến hành trị chơi, Tổ trọng tài làm việc
- Dự kiến sản phẩm của học sinh: Học sinh kể tên được 54 dân tộc hiện nay
ở nước ta.
- GV chốt ý dẫn dắt: Như vậy ở nước ta hiện nay có 54 dân tộc đang sinh
sống có cả dân tộc lớn và dân tộc nhỏ. Vậy quan điểm của Nhà nước ta đối với các
13
dân tộc như thế nào? Các dân tộc có được bình đẳng với nhau hay khơng? Hơm
nay chúng ta học bài: Quyền bình đẳng giữa các Dân tộc và Tơn giáo.
Kết luận: Có thể nói rằng khi sự dụng phương pháp trò chơi trong thiết kế
hoạt động khởi động đã làm cho bài học thêm sôi nổi, hấp dẫn, đem lại hiệu quả
cao trong giờ học. Tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó
các em sẽ được trải nghiệm. Trị chơi giúp cho hoạt động dạy học trở nên nhẹ
nhàng, hứng thú với học sinh, giúp các em rèn luyện sự mạnh dạn tự tin, tinh thần
đoàn kết và dễ dàng tiếp cận với kiến mới của bài học.
3.1.4. Sử dụng video, hình ảnh trong việc thiết kế hoạt động khởi động
Hình ảnh và video - clip có chức năng cơ bản là tích hợp và cơ động.
Hình ảnh trước hết là để thơng báo thơng tin, sau đó là để minh họa, giải
thích, mơ tả trực quan. HS sẽ quan sát hình ảnh, xử lý tài liệu và trao đổi với nhau
về thơng tin hình ảnh đó. Việc sự dụng hình ảnh, video vào hoạt động khởi động
làm cho giờ dạy bớt khơ khan, cứng nhắc. Đồng thời làm tăng tính hấp dẫn đối với
nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở HS, làm cho việc học trở nên dễ dàng,
thuận lợi hơn. Các hình ảnh, video - clip là nguồn cung cấp các chất liệu để học
sinh khai thác nội dung học tập một cách tích cực, tự giác hơn.
Ví dụ: Để tiến hành hoạt động khởi động chủ đề: Xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tôi chọn video clip
về kinh tế Việt Nam thời bao cấp và thời ngày nay
Mục tiêu: - Khích thích HS tìm hiểu về quá trình nền kinh tế nhiều thành
phần. Giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với việc chuẩn bị các
video trực quan để dạy học
* Thời gian: 5 phút
* Cách tiến hành:
- Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ: GV cho HS xem một đoạn video clip về
kinh tế Việt Nam thời bao cấp và thời ngày nay
- Thực hiện nhiệm vụ học tập: Học sinh tiến hành thảo luận chung
Câu hỏi: So sánh kinh tế thời kỳ bao cấp và kinh tế ngày nay? Thời kỳ bao
cấp và thời kỳ ngày nay nước ta có mấy thành phần kinh tế?
14
- Báo cáo kết quả: Học sinh trả lời ý kiến cá nhân:
- Dự kiến sản phẩm của học sinh: Học sinh bước đầu nắm được sự tồn tại
các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan để đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển
+ Giáo viên định hướng học sinh nêu: Thời đại ngày nay có sự đổi mới về
kinh tế, xóa bỏ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trường
Đảng ta xác định hiện nay nước ta có 5 thành phần kinh tế. Vậy thành phần
kinh tế là gì? Tình tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế như thế nào?Bài
học hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
Kết luận: Trong quá trình thiết kế hoạt động khởi động cho các bài thì việc
sự dụng hình ảnh, video có ý nghĩa to lớn khơng chỉ là nguồn kiến thức mà cịn có
tác dụng hình thành tri thức, kĩ năng, phát triển tư duy cho học sinh, các hình ảnh
sinh động với màu sắc tươi sáng cịn có tác dụng hình thành xúc cảm thẩm mĩ cho
các em. Tranh ảnh, video giúp phần khởi động bài học trở nên hấp dẫn hơn, đồng
thời giúp cho học sinh biết cách cảm nhận các vấn đề của cuộc sống. Phần mở đầu
giới thiệu bài học sẽ rất nhẹ nhàng và thú vị đem lại hiệu quả cao trong quá trình
dạy và học.
3.2. Lựa chọn nguồn tư liệu khởi động phù hợp, giá trị
Ngồi việc đa dạng hóa các hình thức khởi động, thì việc lựa chọn tư liệu
phù hợp là điều hết sức quan trọng.
Nguyên tắc lựa chọn nguồn tư liệu phục vụ cho hoạt động khởi động cần
đảm bảo: Tính khoa học, phù hợp đặc thù bộ mơn; mang tính giáo dục và đặc biệt
là tạo được tâm thế và khích thích tính tích cực học tập cho người học.
Các nguồn tư liệu có thể sử dụng trong mơn học GDCD: Đoạn phim, video
phóng sự, tư liệu bằng hình ảnh, số liệu... đã được kiểm chứng và rõ nguồn; các
trang “quà tặng cuộc sống”; “tư vấn pháp luật”...; các thơng tin chính luận...
Cách tiến hành:
Bước 1: Dựa vào nội dung bài học để định hướng nguồn tư liệu (phim,
phóng sự, âm nhạc, hình ảnh, câu chuyện, tình huống, thơng tin, số liệu...).
Bước 2: Chọn lọc nguồn tư liệu (các trang, các tài liệu đảm bảo tính khoa
học, tính giáo dục...).
Bước 3: Xác định phương pháp phù hợp với nguồn tư liệu đã chọn (với tư
liệu đã chọn thì sẽ phù hợp với phương pháp nào như đóng vai, trị chơi, giải quyết
vấn đề, trình chiếu...).
Bước 4: Triển khai nhiệm vụ cho học sinh (giao nhiệm vụ cho học sinh từ 2
đến 6 ngày...).
15
Bước 5: Kiểm tra, giám sát và hỗ trợ việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh
(trong quá trình học sinh thực hiện giáo viên phải thường xuyên kiểm tra và hỗ trợ
để các em hoàn thành nhiệm vụ và đảm bảo dự định...).
Bước 6: Thực hiện khởi động tại tiết học
Ví dụ: Để thực hiện phần khởi động bài 2 Thực hiện pháp luật, tơi đã tìm
hiểu, tìm kiếm nguồn tư liệu… và thực hiện như sau:
- Dựa vào nội dung bài học Thự hiện pháp luật tôi đã tìm kiếm nguồn tư liệu
+ Từ YouTobe video về thự hiện pháp luật giao thông đường bộ của học
sinh ( />+ Chọn lọc nguồn tư liệu, thông tin từ báo: Vietnamnet, báo pháp luật về
hành vi vi phạm pháp luật của công dân.
+ Sau khi nghiên cứu tài liệu tôi lựa chọn nguồn tư liệu từ nguồn tin tức từ
báo Vietnamnet và pháp luật về vi phạm pháp luật của công dân, của nhóm học
sinh vi phạm pháp luật giao thơng, tơi lựa chọn hành vi vi phạm pháp luật của
nhóm học sinh từ nguồn Youtobe phù hợp với nội dung bài học và sử dụng phương
pháp đóng vai, tiến hành giao nhiệm vụ cho học sinh, thống nhất nội dung và hình
thức đóng vai để thực hiện phần khởi động.
+ Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ của mình tơi thường xun
giám sát kiểm tra đơn đốc các em hoàn thành đúng kế hoạch để tiến hành hoạt
động khởi động tại tiết học.
Với việc tổ chức khởi động trong dạy học thì giờ dạy đã có sự thay đổi nhiều
và theo chiều hướng tích cực, với sự chuẩn bị chu đáo về cách thiết kế, sự kết hợp
kiến thức của giáo viên nên bước vào giờ học không còn cứng nhắc, đơn điệu,
truyền thụ kiến thức một chiều, mà giờ học trở nên sinh động, học sinh rất tích cực
tham gia xây dựng bài.
3.3. Xây dựng hoạt động khởi động phù hợp năng lực người học
Để hoạt động khởi động có hiệu quả ngồi việc đa dạng hóa các hình thức tổ
chức, nguồn tư liệu phong phú, giá trị thì người giáo viên cần quan tâm đến năng
lực người học. Bởi năng lực người học sẽ quyết định đến chất lượng của hoạt động
khởi động.
Năng lực người học được thể hiện qua: khả năng tiếp thu, khả năng trình
bày, tính sáng tạo, sự tự tin, ý thức tham gia...
Việc xác định năng lực người học là việc làm hết sức cần thiết trong dạy học
nói chung và tổ chức các hoạt động nói riêng. Bởi khi nắm được năng lực người
học, giáo viên sẽ đưa ra được những nhiệm vụ phù hợp, vừa sức, giúp các em tự tin
thoải mái trong thực hiện. Trên thực tế, có một số giáo viên chỉ tập trung phương
pháp, hình thức hoạt động, nguồn tư liệu mà không chú ý đến khả năng thực hiện
nhiệm vụ của học sinh nên hiệu quả không như mong muốn dẫn đến áp lực trong
16
học tập, căng thẳng trong tâm lý của cả giáo viên và học sinh.
Vậy làm thê nào để xác định được năng lực người học? Để tìm hiểu về khả
năng học tập và tình hình đạo đức của học sinh trong lớp mình được phân cơng
giảng dạy giáo viên có thể sử dụng nhiều cách khác nhau. Trong đó áp dụng việc
kiểm tra nhanh đầu năm và nghiên cứu hồ sơ của học sinh trong thời gian trước
đó là một trong những cách thực hiện mang lại hiệu quả nhanh và tương đối
chính xác.
Cách thực hiện:
Bước 1: Nhận lớp
Bước 2: Nghiên cứu hồ sơ của học sinh
Bước 3: Tiến hành kiểm tra năng lực (có thể sử dụng nhiều hình thức khác
nhau)
Bước 4: Trao đổi và phối hợp với các đồng nghiệp (cùng lớp dạy)
Bước 5: Xây dựng(hoặc điều chỉnh) hình thức dạy học.
Với tính chất là hoạt động đầu tiên nhằm mục đích tạo tâm thế thoải mái,
tăng tính hấp dẫn, gợi mở nội dung bài học nên sự thành cơng của hoạt động khởi
động góp phần lớn vào sự thành cơng cho tồn tiết dạy. Vì vậy, hiểu được đối
tượng sẽ giúp giáo viên có sự lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp. Ví dụ: Đối với
lớp học sinh có năng lực học giỏi, năng động, tự tin trong giao tiếp có thể sử
phương pháp khởi động như đóng vai, khám phá, Trị chơi...; Với lớp có học sinh
năng khiếu về âm nhạc, mỹ thuật có thể sử dụng phương pháp trực quan; kỹ thuật
phòng tranh...; với lớp học sinh chưa mạnh dạn, năng lực không đồng đều,... có thể
sử dụng hình thức xem video, phóng sự, ghép ảnh...
Kết luận: Trong quá trình giảng dạy, với đặc thù bộ mơn ít tiết / tuần, tơi
cũng như các đồng nghiệp cùng chuyên môn khác là phải dạy nhiều lớp. Vì vậy
việc xây dựng hình thức dạy học nói chung và tổ chức hoạt động khởi động nói
riêng ban đầu gặp nhiều khó khăn nhất là việc tìm hiểu năng lực người học. Sau
quá trình thực hiện đề tài, với các bước như trình bày ở trên tơi đã khắc phục được
những khó khăn nhất định, ln coi việc tìm hiểu đối tượng người học là việc làm
cần thiết để đảm bảo thành công cho tiết dạy. Đến nay, có thể khẳng định rằng, bản
thân đã nắm bắt được tình hình, đặc điểm, mức độ năng lực, khả năng nổi trội của
từng lớp mình đảm nhận. Từ đó xây dựng được hình thức, phương pháp tổ chức
cho từng lớp một cách phù hợp đem lại hiệu quả giáo dục.
Sử dụng hình thức dạy học phù hợp giúp học sinh phát huy được năng lực,
phẩm chất của mình. Và đây cũng là mục tiêu của đề tài hướng tới.
4. Kết quả đạt được
Số học sinh được khảo sát: 684 học sinh ở cả 3 khối 10, 11, 12 của trường
THPT Cửa Lò năm học 2019 - 2020 (7 lớp do tác giả đề tài thực hiện giảng dạy
17
khơng thực hiện khảo sát ở mục này).
* Hình thức khảo sát:
- Dùng phiếu điều tra.
- Số lượng HS được khảo sát: 684 HS (19 lớp).
Bảng thống kê số liệu về việc thực hiện đề tài
Thứ tự câu hỏi
Kết quả
Câu 1. Em cảm nhận thế nào về các hoạt động khơi
động?
100
- Thích
209/684
30.6
- Rất thích
313/684
45.8
- Bình thường
162/684
23.6
- Khơng thích
0/684
0
Câu 2. Các phương pháp và hình thức dạy học được
sử dụng trong hoạt động khởi động?
100
- Đóng vai
164/684
24
- Chơi trị chơi
196/684
24,7
- Xem video
189/684
27,6
- Câu hỏi tình huống
135/684
19,7
Câu 3. Theo em các năng lực nào được phát triển
thông qua các hoạt động khởi động đã thực hiện?
Tỉ lệ %
100
Năng lực giải quyết vấn đề
157/684
23.0
Năng lực giao tiếp
160/684
23,4
- Năng lực hợp tác
276/684
40,4
Năng lực sử dụng ngơn ngữ
178/684
26,2
Câu 4. Em thích nhất là hình thức khởi động nào
dưới đây?
100
- Đóng vai
134/684
19,6
- Chơi trị chơi
216/684
31,6
- Xem video
214/684
31,3
- Câu hỏi tình huống
120/684
17,5
Câu 5. Em có muốn được tham gia vào các hoạt động
khởi động khơng?
100
- Có
561/684
72.0
- Khơng
123/684
18.0
18
Lựa chọn phương pháp phù hợp, mềm hóa kiến thức và sinh động tiết dạy,
tăng cường khả năng tự học cho học sinh là một trong những yêu cầu thường
xuyên trong các giờ học GDCD tại trường THPT Cửa Lò. Để làm được điều đó
giáo viên và học sinh đã và đang nỗ lực hết mình cùng hợp tác, điều chỉnh để dần
trở thành một trong những dạng hoạt động tiêu biểu đặc trưng của bộ môn. Qua
cách học trên học sinh đã tự tin, mạnh dạn, sáng tạo hơn rất nhiều, từ những buổi
đầu còn lúng túng, ngập ngừng trước tập thể đến hôm nay các em đã biết trình bày
lưu lốt, biết tự xây dựng một chương trình hồn chỉnh, biết tìm hiểu và chọn lọc
thơng tin, biết khai thác các phương tiện hiện đại và đặc biệt tạo ra được một số
sản phẩm có ý nghĩa. Thơng qua đó các em hiểu hơn về tinh thần hợp tác, tính tập
thể, rèn luyện tính chủ động và giải quyết tình huống. Qua cách học này các em
được trải nghiệm, được làm những việc mà các em tưởng chừng như khơng thể và
từ đó hiểu thêm về các giá trị của cuộc sống.
19
III. KẾT LUẬN
1. Phạm vi ứng dụng của đề tài
Đề tài được nghiên cứu và ứng dụng một số kinh nghiệm trong việc thiết kế
hoạt động khởi động trong các bài dạy môn GDCD cấp THPT từ năm học 20192020 và 2020-20201và đang tiếp tục được triển khai tại Trường trung học phổ
thơng Cửa Lị. Đối với giáo viên mơn GDCD tôi hi vọng sáng kiến của tôi sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo cho các GV trong công tác giảng dạy bộ môn GDCD tại
trường trung học phổ thông.
2. Mức độ vận dụng
Đề tài “Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy phẩm
chất năng lực cho học sinh trong môn học Giáo dục công dân cấp trung học phổ
thông tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị, Nghệ An” có thể vận dụng cho tất cả
các trường trung học phổ thơng trong q trình giảng dạy mơn GDCD nhằm góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn.
3. Kết luận
Đề tài được áp dụng trong dạy học và nhận được sự ủng hộ của đồng nghiệp
và học sinh. Học sinh ln có tâm thế mong chờ đến tiết học để được thể hiện bản
thân, thể hiện năng lực của mình. Đồng thời các em cũng phát huy được một số
năng lực như giao tiếp, tự tin, công nghệ thông tin, giải quyết vấn đề, hợp tác.
Tiết học với sự mở đầu vui vẻ bằng một bản nhạc hay sự hào hứng của một
vở kịch; cũng có thể là một câu chuyện cảm động hay một phóng sự nóng; cũng có
thể là tình huống gây khó cho người học... Dù là trạng thái nào thì các em cũng
ln thể hiện hết mình, đón nhận một cách tích cực và chủ động. Nhiều học sinh đã
phát triển được năng lực, nhiều em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, khả năng hợp tác
được cải thiện, biết lắng nghe, chia sẻ; bước đầu biết giải quyết tình huống, tư duy
độc lập, phản biện...
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số học sinh lười vận động, nhút
nhát, thiếu hợp tác trong việc thực hiện nhiệm vụ ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả
chung. Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục khích lệ, động viên các em để các em chủ
động và tích cực hơn.
Tơi tin rằng với việc đa dạng hóa hình thức tổ chức, nguồn tư liệu phong
phú, có giá trị được sử dụng trong các hoạt động khởi động sẽ góp phần giúp các
em học sinh phát triển được một số phẩm chất và năng lực phù hợp.
Với đề tài “Một số biện pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát huy
phẩm chất năng lực cho học sinh trong môn học Giáo dục công dân cấp trung học
phổ thông tại trường trung học phổ thơng Cửa Lị, Nghệ An” đã giúp tơi đạt được
những thành công trong việc dạy học môn GDCD tạo ra được sự thích thú đối với
20
HS khi học bộ môn này, các em thật sự u thích bộ mơn của tơi khơng xem đó là
mơn phụ nữa. Một điều không thể phủ nhận là với niềm đam mê của mình trong
việc thiết kế các bài dạy môn GDCD bản thân tôi ngày càng nâng cao chuyên môn,
được đồng nghiệp ghi nhận và được Ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao đó là
động lực để tơi khơng ngừng phấn đấu hồn thiện bản thân mình, thành cơng hơn
nữa trong sự nghiệp giảng dạy của mình.
Đến hôm nay, sau nhiều năm thực hiện, mỗi ngày, mỗi bài học, mỗi tiết dạy
qua đi bản thân tôi cũng như các đồng nghiệp trong tổ bộ môn vẫn luôn quan sát,
rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh để các hoạt động, các phương pháp, các kinh
nghiệm trên ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
21