Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn một số kinh nghiệm dạy học các tác phẩm truyện hiện đại việt nam theo định hướng phát triển năng lực của học sinh lớp 9 trường thcs hoa lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.54 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Nội dung
1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng đê giải quyết vấn đề
2.3.1. Giáo viên xác định mục tiêu bài học, hướng dẫn học sinh
chuẩn bị bài từ đó hình thành động cơ, hứng thú học tập cho học
sinh
2.3.2. Biên soạn các câu hỏi, bài tập cụ thể theo mức độ yêu cầu
2.3.3. Đổi mới trong hình thức, phương pháp dạy học qua 5 hoạt
động
2.3.3.1. Khởi động bài học bằng những tình huống có vấn đề,
thu hút học sinh hứng thú học bài
2.3.3.2. Tổ chức hoạt động hình thành kiến thức bằng việc sử
dụng linh hoạt nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại
2.3.3.3. Hướng dẫn học sinh củng cố bài học thông qua hoạt
động luyện tập
2.3.3.4. Phát huy năng lực tự học và sáng tạo cho học sinh
thông qua hoạt động “Vận dụng và mở rộng/ sáng tạo”
2.3.3.5. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân
và đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.


3.2. Kiến nghị.

Trang

1
2
2
2
2
2
5
6
6

7
8
8
9
14
17

17
18
19
19
20

0

skkn



1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Đổi mới giáo dục, nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy - học đang là
những yêu cầu cấp bách, cần thiết đối với tất cả các giáo viên, tất cả các nhà
trường. Trong Báo cáo chính trị Đại hội Đáng tồn quốc lần thứ XI đã xác định:
“Đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy học theo hướng hiện đại;
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng,
giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo,
kỹ năng thực hành, ý thức trách nhiệm xã hội”. Nội dung trọng tâm của việc đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục phổ thông là sự phát triển năng lực người học, từ
đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước.
“Dạy học phát triển năng lực” là đổi mới căn bản cốt lõi nhất của đổi mới giáo
dục hiện nay, mà Ngữ văn được coi là một trong những mơn học cơng cụ có vai
trò rất quan trọng đối với việc định hướng phát triển năng lực học sinh. Thông
qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác
phẩm văn học, bằng hoạt động nghe, nói, đọc, viết giúp học sinh phát triển
những phẩm chất cao đẹp; có những cảm xúc lành mạnh, biết tơn trọng cái đẹp;
có đời sống tinh thần phong phú, có tâm hồn nhân hậu và lối sống nhân ái, vị
tha. Đây cũng là mơn học có vai trị quan trọng trong việc phát triển tư duy và
bồi đắp tâm hồn cho học sinh, giúp học sinh hình thành, phát triển các năng lực
chung và năng lực môn học như năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ để học
tập tốt môn học khác, để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Và cũng từ
đó rèn cho các em tính tự lập, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ
trong văn học, nghệ thuật. Ngoài ra học văn cịn mở mang tâm hồn, trí tuệ cho
học sinh, góp phần giúp các em hồn thiện nhân cách.
Thấy rõ tầm quan trọng của yêu cầu đổi mới trong dạy học nói chung và dạy
học Ngữ văn nói riêng, tơi luôn chú ý tới việc đổi mới phương pháp dạy học,
đặc biệt là dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh

nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ mơn ở từng khối lớp do mình đảm nhận.
Hơn thế trong giờ dạy tôi đã cố gắng truyền niềm say mê, yêu văn đến cho học
sinh và giúp các em có cái nhìn thân thiện đúng đắn hơn về bộ mơn đầy tính
nhân văn này. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy
học các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam theo định hướng phát triển năng
lực của học sinh lớp 9 trường THCS Hoa Lộc” để nghiên cứu, nhằm góp phần
`năng cao trình độ chun mơn cho bản thân và vận dụng linh hoạt các phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực trong thực tiễn giảng dạy. Trình bày sáng kiến
kinh nghiệm này, bản thân rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp để sáng
kiến thực sự mang tính khả thi. Tơi hy vọng sẽ góp phần cải tiến được phương
pháp dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường THCS, giúp học sinh có được
kỹ năng học văn, kỹ năng vận dụng tri thức vốn có được trong cuộc sống, kỹ
năng thẩm thấu cái đẹp, để từ đó biết rõ hơn thế nào là sống đẹp trong cuộc đời!
Từ đó bồi dưỡng nhân cách, giá trị sống: chân – thiện – mĩ cho các em.
1

skkn


1.2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học các tác phẩm truyện hiện đại
Việt Nam theo định hướng phát triển năng lực của học sinh lớp 9 trường THCS
Hoa Lộc”, trước hết tôi muốn giúp học sinh phát triển năng lực học tập, rèn
luyện năng lực tư duy, liên tưởng, năng lực đọc - hiểu văn bản, làm việc nhóm,
giao tiếp (thuyết trình, tích hợp, khái quát, tổng hợp kiến thức). Đồng thời rèn
luyện cho các em một số phẩm chất như : tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự
hào dân tộc, lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì...Từ đó ni dưỡng tâm
hồn học sinh hướng tới chân, thiện, mĩ, các em biết sống tốt hơn, đẹp hơn. Biết
cách đọc - hiểu một tác phẩm, một bài văn hoặc một đoạn trích theo đặc trưng
thể loại.

Ngồi ra với mục đích trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau xây dựng cho
giải pháp càng hồn thiện hơn trong q trình áp dụng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tìm ra các giải pháp dạy học một số văn
bản truyện hiện đại Việt Nam (Ngữ văn lớp 9) theo định hướng phát triển năng
lực học sinh. Tôi tiến hành nghiên cứu:
- Phương pháp dạy học thể loại truyện ngắn
- Phương pháp dạy học phát triển năng lực
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Khảo sát chất lượng và năng lực nhận biết, vận dụng của học sinh để tìm
ra những điểm yếu kém của học sinh trong quá trình học tập.
- Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên Ngữ văn 9, các tài liệu tham
khảo. Soạn giáo án, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết
dạy. Sử dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh: thuyết trình, vấn đáp, thảo luận…
- Phương pháp thực nghiệm: Đưa ra các dạng bài tập cho học sinh làm. Từ
kết quả bài làm của học sinh để phân tích, khẳng định khả năng thực thi của đề
tài
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Theo điều 27 - Luật giáo dục năm 2015 thì “ Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng
tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Để thực hiện mục tiêu trên, quá trình dạy học nói chung và dạy học bộ
mơn Ngữ văn 9 ở THCS nói riêng đã và đang thực hiện bước chuyển từ chương

trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học – từ chỗ
quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh học
2

skkn


được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, trước hết cần phải thực
hiện thành cơng việc “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học;
phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Trong q
trình đổi mới phương pháp dạy học, để dạy học theo định hướng phát triển năng
lực mỗi giáo viên có thể linh hoạt vận dụng nhiều con đường, nhiều phương
pháp, kỹ thuật dạy học khác nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ
mơn và phù hợp với dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
cho học sinh.
2.1.1. Khái niệm về năng lực
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành
năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có
tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,…
nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh
nhất định.”
Định hướng chương trình giáo dục phổ thơng 2018 đã xác định một số
năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: tự học, giải quyết vấn đề,
sáng tạo, quản lí bản thân.
- Năng lực xã hội, bao gồm: giao tiếp, hợp tác.
- Năng lực công cụ, bao gồm: tính tốn, sử dụng ngơn ngữ, ứng dụng cơng nghệ

thơng tin (ITC)
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất
cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học
tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
* Các năng lực chuyên biệt mà môn học Ngữ văn 9 hướng đến:
Ngoài các năng lực chung, cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như
đã nêu trên thì mơn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng cần hình thành
các năng lực chun biệt đặc trưng là:
- Năng lực giao tiếp tiếng Việt:
Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng
lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh
mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng
Việt, học sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng
phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập
những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương
châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp. Các
bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học sinh được giao tiếp
cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng
sử dụng tiếng việt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn, tức là dạy học theo quan điểm giao tiếp,
coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức Tiếng Việt trong những
3

skkn


bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học Tiếng Việt được thể hiện ở 4
kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kỹ
năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.

- Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ:
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư
duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác
phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác
phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng
lực cảm thụ thẩm mĩ trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương
được thể hiện ở những phương diện sau:
- Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình
ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc
sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.
- Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn học:
cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn….từ đó cảm nhận được
những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua
tác phẩm.
- Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn
học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết
cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có
những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế
giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
- Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động trước
cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những
hình tượng, biểu hiện khơng đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn nhằm giúp học sinh hình thành và phát
triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn
luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong q trình hướng dẫn
học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn cịn giúp học sinh từng bước hình
thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp
nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ
năng nói và viết).

2.1.2. Đặc trưng của dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể
hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
Một là, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học
sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành
các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã
biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
Hai là, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và
4

skkn


các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm
tịi và phát hiện kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân
tích, tổng hợp, sáng tạo.
Ba là, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở
thành môi trường giao tiếp giữa GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu
biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ
học tập chung.
Bốn là, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt
tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Chú trọng phát triển kỹ
năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo
lời giải, đáp án mẫu, theo hướng dẫn tìm ra được nguyên nhân và nêu cách sửa
chữa các sai sót.
Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thơng qua bộ mơn,
học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ,
tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp
của hoạt động trong một số hồn cảnh nhất định. Trong mơn học Ngữ văn, quá

trình thực hiện một nội dung học tập nhằm hình thành đồng thời nhiều năng lực.
Bởi thế cần vận dụng một cách hợp lí phương pháp và quy trình dạy học giúp
học sinh thể hiện được các năng lực của cá nhân trong từng nội dung học tập.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là một trong
những yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc dự giờ đồng nghiệp
tôi nhận thấy rằng:
Về phía giáo viên: Sự vận dụng sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy
học, phát huy tính tích cực, tự lực để phát triển năng lực cho học sinh chưa
nhiều, dạy học văn vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong các giờ dạy còn chưa được đầu tư quan tâm... Tất cả những điều
đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng thiếu các năng lực cần thiết khi giải
quyết các tình huống học tập và trong thực tiễn.
Về phía học sinh: Một thực trạng đáng buồn là một bộ phận không nhỏ học
sinh tỏ rõ thái độ thờ ơ và tâm lý chán học môn Ngữ văn. Thực trạng ấy là vấn
đề đáng lo ngại đối với những giáo viên dạy bộ mơn, vì vậy sau khi được phân
cơng chun mơn dạy Ngữ văn 9 tôi đã xác định được rằng lớp 9 là lớp cuối cấp
của bậc học THCS, năm học 2022 – 2023, các em sẽ tiếp cận với việc học tập
sách giáo khoa theo chương trình GDPT 2018, cần phải làm quen với chương
trình, mức độ kiến thức, phương pháp học tập… nên nếu như sự hứng thú học
tập bộ mơn của các em bị “thui chột” thì ở những lớp học tiếp sau việc vực dậy
niềm đam mê học tập mơn văn sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều cần thiết lúc này là
phát triển niềm yêu thích khám phá, tìm hiểu kiến thức của các em. Vì thế, tôi đã
lập phiếu điều tra khảo sát 50 học sinh lớp 9 trường THCS Hoa Lộc để tìm hiểu
rõ nguyên nhân dẫn đến việc thiếu sự yêu thích học văn. Kết quả tổng hợp như
sau:
Bảng 1: Kết quả điều tra trước khi áp dụng biện pháp.
5


skkn


Nội dung điều tra ( Chọn 1 ý kiến)
Kết quả trả lời
Tỉ lệ
1. Không học bài, không làm bài tập Ngữ a. Có và thường xuyên. 82 %
văn... Em có vi phạm lỗi đó khơng?
b. Có nhưng khơng 12 %
thường xuyên.
c. Không vi phạm
6%
2. Khi được giáo viên giao bài tập, em có: - Có
65%
Chép văn mẫu, chép sách giải, chép bài của - Không
35%
bạn ..... không?
3. Trong giờ học văn, em có thường xuyên - Có
38%
xây dựng bài, trao đổi hợp tác với với bạn bè
- Không
62%
trong các hoạt động nhóm, cặp đơi ... khơng?
4. Khi tạo lập văn bản ( nói, viết) trong giờ - Có
81%
học văn, em có thường xun mắc lỗi dùng - Khơng
19%
từ sai, viết câu sai, mắc lỗi chính tả, bố cục
và lời văn lủng củng, thiếu logic hoặc diễn
đạt ngô nghê, tối nghĩa... không?

Kết quả khảo sát trên cho thấy:
+ Tỉ lệ học sinh có câu trả lời thể hiện các năng lực tự học, giải quyết vấn
đề, sáng tạo, hợp tác, giao tiếp tiếng Việt, sử dụng ngơn ngữ ... cịn thấp.
+ Tỉ lệ học sinh có cách ứng xử chưa tích cực, thiếu các năng lực giải quyết
vấn đề học tập bộ mơn Ngữ văn 9 cịn cao.
Sau khi thu nhận được kết quả trên, tôi tiếp tục thu thập thông tin từ thực tế
qua việc pháp vấn trực tiếp 50 HS trên qua câu hỏi: “Em sẽ hứng thú và tích cực
tham gia học tập trong những giờ học ngữ văn như thế nào?” thì đến hơn 90 %
học sinh được hỏi đều có chung câu trả lời là: rất thích được giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học tích cực và học sinh được quan sát, nghe nhìn thơng tin
qua hình ảnh/ máy chiếu, video... để tìm hiểu, học tập, củng cố kiến thức.
Thực trạng trên đã thôi thúc tơi cần phải tìm ra giải pháp, biện pháp để
nâng cao chất lượng dạy học văn cho học sinh và kết quả bước đầu đó đem lại
thành cơng nhất định. Trong bài viết này tôi xin được chia sẻ một số kinh
nghiệm trong việc dạy học Ngữ văn 9 phần truyện hiện đại Việt Nam theo định
hướng phát triển năng lực học sinh, từ đó tạo sự hứng thú say mê của các em
với các giờ học văn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề .
2.3.1. Giáo viên xác định mục tiêu bài học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài từ đó hình thành động cơ, hứng thú học tập cho học sinh
 Bước 1: Giáo viên xác định mục tiêu chung của bài học.
     * Về kiến thức:
      Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm hoặc đoạn
trích. Các cảm hứng sáng tác lãng mạn, hiện thực, ý nghĩa nhân văn; nghệ thuật
xây dụng cốt truyện, nhân vật.
     * Về kĩ năng:
6

skkn



     - Vận dụng những tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm để đọc
hiểu văn bản.
     - Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của tác giả thể hiện trong tác
phẩm.
     - Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm hoặc một đoạn trích của truyện hiện đại
theo đặc trưng thể loại.
     - Tóm tắt và nắm bắt được cốt truyện, phân tích diễn biến nội tâm nhân vật,
các mối quan hệ của nhân vật trong truyện.
     - Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những truyện hiện đại
khác của Việt Nam.
     - Nêu lên những kiến giải, suy nghĩ về các phương diện nội dung, nghệ thuật
của các tác phẩm, đoạn trích được học trong chủ đề.
- Viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về những văn bản đã học trong chủ
đề; rút ra những bài học về lí tưởng sống, cách sống từ những văn bản đã đọc và
liên hệ, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân.
    * Về phẩm chất:
     - Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, Có ý thức trân trọng
những giá trị văn hóa truyền thống, lưu giữ những giá trị tinh thần quý báu của
dân tộc cho hơm nay và mai sau.
     - Có tấm lòng nhân ái, yêu thương con người, yêu thương gia đình.
- Có lý tưởng sống cao đẹp, đóng góp trí tuệ, tài năng để xây dựng quê
hương, đất nước.
   * Năng lực cần hình thành cho học sinh
     - Năng lực thu thập thông tin liên quan đến chủ đề.
     - Năng lực cảm thụ văn chương
     - Năng lực phân tích, so sánh, tổng hợp.
     - Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân.
     - Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận, làm việc nhóm.
     - Năng lực giải quyết các tình huống đặt ra trong chủ đề.

     - Năng lực tạo lập văn bản.
 Bước 2: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài.
Giúp học sinh chuẩn bị bài ở nhà được tốt, giáo viên hướng dẫn học sinh
thực hiện các nhiệm vụ sau:
    * Đọc văn bản trước khi đến lớp: Để đạt được hiệu quả, học sinh cần có một
số phương pháp đọc sau sau: Đọc có suy nghĩ ; Đọc có hệ thống; Đọc có ghi
nhớ. Ngồi đọc văn bản học sinh cũng nên có kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến
thức cũ để học kiến thức mới. Tốt nhất là vừa đọc vừa ghi chép, lưu lại tri thức,
những ý tưởng hay và khi sử dụng giúp ta khái quát vấn đề nhanh và nhớ lâu. 
      * Học sinh phải soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo
khoa hoặc theo hướng dẫn của giáo viên.Tác dụng của biện pháp này là giúp
học sinh chủ động tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh biết cách phát
hiện và giải quyết vần đề, biết cách thu thập và xử lý thơng tin, biết cách hồn
thiện sản phẩm khoa học ban đầu.
2.3.2 Biên soạn các câu hỏi/ bài tập cụ thể theo mức độ yêu cầu
7

skkn


     Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS, giáo viên cần phải
giúp HS thông qua bài học hình thành được tri thức, kĩ năng, thái độ; vận dụng
những tri thức, kĩ năng, thái độ đó vào những tình huống mới. Để đạt được mục
tiêu đó, GV có thể sử dụng các câu hỏi theo các mức độ sau đây:
- Câu hỏi ở mức độ nhận biết: trong câu hỏi thường xuất hiện các từ yêu cầu
học sinh: nêu, xác định, mô tả, nhận định, hồi tưởng…
- Câu hỏi ở mức độ thông hiểu: trong câu hỏi thường xuất hiện các từ: trình
bày, phân tích, suy luận, giải thích, cho thấy như thế nào…
- Câu hỏi ở mức độ vận dụng: trong câu hỏi thường xuất hiện các từ: dự
đoán, đánh giá, so sánh và đối chiếu, lựa chọn…

 
Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập minh họa: Hệ thống câu hỏi trong dạy
học một số truyện ngắn hiện đại Việt Nam theo định hướng phát triển năng lực
gồm hệ thống câu hỏi cốt lõi và các câu hỏi cụ thể phù hợp với từng truyện
ngắn.
Ví dụ: Dạy đoạn trích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân giáo viên có thể sử
dụng một số câu hỏi sau: (1) Truyện được kể ở ngôi thứ mấy? Tác dụng của việc
sử dụng ngơi kể đó là gì? (2) Tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn. (3) Hãy nêu tình
huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện ấy?(4) Phân tích diễn biến tâm
trạng của ơng Hai khi nghe tin làng mình theo giặc? (5) Qua đó, em thấy ơng
Hai là người như thế nào? (6) Qua đoạn trích em có thêm những hiểu biết gì về
cuộc sống và phẩm chất của người nông dân trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chống Pháp?
2.3.3. Đổi mới trong hình thức, phương pháp dạy học qua 5 hoạt động:
Khởi động - Hình thành kiến thức - Luyện tập - Vận dụng - Mở rộng/sáng
tạo. Trong thiết kế, giáo viên phải cho thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm
vị trí chủ yếu trong tiến trình tổ chức dạy học. Để làm tốt các hoạt động trên,
giáo viên cần thực hiện các giải pháp sau:
     2.3.3.1. Khởi động bài học bằng những tình huống có vấn đề để lôi cuốn, thu
hút học sinh hứng thú với bài học
     Trong phần khởi động giáo viên cần dẫn dắt bài học bằng những tình huống
có vấn đề, kích thích nhu cầu ham hiểu biết, khám phá ở học sinh. Đồng thời
giáo viên đưa ra phần thưởng cho học sinh nào trả lời được và lí giải sâu sắc
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Cách làm này sẽ khuyến khích, động viên
tinh thần học sinh, tác động vào động cơ thành tích, nhu cầu tự khẳng định của
các em.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Những ngơi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê để giới
thiệu bài mới, phần khởi động tơi tổ chức hình thức sau:
 
Nội dung: Trình chiếu một đoạn phim ca nhạc bài hát “Cô gái mở đường”

của tác giả Xuân Giao và đặt câu hỏi: Trong đoạn phim ca nhạc trên tác giả đã
ghi lại và ngợi ca hình ảnh của ai? trong giai đoạn lịch sử nào của dân tộc ta?
Nhiệm vụ: - Nhận thức được nhiệm vụ  cần giải quyết của bài học.
 
- Tập trung cao và hợp tác tốt để giải quyết nhiệm vụ.
Kết quả: HS báo  cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
 Giáo viên nhận xét và dẫn vào bài mới: Lời bài hát “Cô gái mở đường” đã đưa
8

skkn


ta về với những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy oanh liệt của dân tộc
ta.Trong thời kỳ lịch sử ấy có một lớp người, một bộ phận thế hệ trẻ thời bấy giờ
đã từng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lịng phơi phới dậy tương lai”. Đó
là những anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, những người chiến sĩ vào
sinh ra tử hoặc là những cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm “Những
ngôi sao xa xơi” của Lê Minh Kh. Chúng ta nhìn thấy một bức tượng đài về
những nữ thanh niên xung phong thời chống Mỹ với nhiều phẩm chất anh hùng
dũng cảm nhưng lại có tâm hồn vơ cùng mơ mộng và trong sáng. Để hiểu rõ hơn
về tác phẩm ngày hơm nay cơ cùng các em sẽ tìm hiểu qua bài học.
     Ví dụ 2: Khi dạy tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,
phần khởi động của tiết học, tơi tổ chức hình thức sau:
     Nội dung:  Em hãy kể tên các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam mà em
biết?
       - Giáo giới thiệu một số bức ảnh về chân dung tác giả Nguyễn Quang Sáng
và hình ảnh minh họa bé Thu ơm ba. Qua những hình ảnh trên gợi cho em liên
tưởng đến tác phẩm nào? Của ai? Kể tên một số tác phẩm của tác giả đó?
      Nhiệm vụ: -  Nhận thức được nhiệm vụ cần giải quyết của bài học.
                       - Tập trung cao và hợp tác tốt để giải quyết nhiệm vụ.

     Kết quả: Học sinh kể được tên một số tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam.
Đồng thời, học sinh xác định được tác phẩm Chiếc lược ngà của tác giả
Quang Sáng và kể tên được một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng mà các
em biết như tiểu thuyết “Đất lửa”, truyện ngắn “Con chim vàng”, “Cánh đồng
hoang”…
      Với những cách thức khởi động bài học như các ví dụ trên, đã tạo được hứng
thú, cuốn hút học sinh vào bài học, khích lệ các em tích cực tìm tịi, sáng tạo góp
phần làm cho tiết học thành cơng.
     2.3.3.2. Tổ chức hoạt động hình thành kiến thức bằng việc sử dụng linh hoạt
nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại.
2.3.3.2.1. Sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực.
     Trong q trình dạy học giáo viên sử dụng các phương pháp, kỹ thuật, các
hình thức dạy học tích cực để phát huy tính năng động, sáng tạo và nâng cao
năng lực cảm nhận nội dung của tác phẩm ở học sinh. Cụ thể:
     * Phương pháp thuyết trình: Dạy học theo hướng phát huy năng lực học
sinh thì giáo viên hạn chế tối đa việc sử dụng phương pháp này. Người thầy chỉ
nên sử dụng trong một vài đoạn bình cảm thụ ngắn với giọng truyền cảm và
chọn dùng từ ngữ độc đáo... sẽ tạo khơng khí văn học thực sự giúp học sinh tăng
thêm hứng thú tìm hiểu, khám phá, sáng tạo.
      Ví dụ: Khi dạy đoạn trích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, giáo viên
có thể bình khắc sâu chi tiết : Ông Hai khi vừa mới nghe tin làng mình theo giặc
lập tề từ miệng những người dân tản cư ở dưới xuôi lên. Tin dữ đến với ông quá
đột ngột như sét đánh ngang tai khiến ơng bàng hồng, sững sờ “cổ họng ông
lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng đến không thở được,
một lát sau ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng ở cổ”.Từ đỉnh cao của
niềm vui, niềm tin, ông Hai rơi xuỗng vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin
9

skkn



ấy q bất ngờ, điều đó như khiến ơng như khơng thể điều khiển nổi cơ thể
mình. Giá như ơng khơng u làng đến thế thì có lẽ ơng sẽ không cảm thấy đau
đớn, tủi hổ như thế này.
     * Phương pháp thảo luận nhóm
      Khi tổ chức hoạt động nhóm tơi sử dụng 2 hình thức tổ chức nhóm thảo
luận: một là do giáo viên quy định, sắp xếp thành nhóm (gọi là nhóm định sẵn).
Giáo viên phân chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi - hai bàn là một nhóm - với số
lượng 4 học sinh. Các nhóm đó có thể là các nhóm định sẵn với các thành viên
quen thuộc vốn ngồi chung một bàn (nếu học sinh học cố định ở phịng lớp học),
đồng thời các nhóm đó có thể thay đổi với các thành viên khác tùy từng giờ học
(nếu học ở các phịng học nghe nhìn hoặc phịng học khác, khi có sự thay đổi vị
trí chỗ ngồi). Cách tổ chức nhóm như thế này rất thơng dụng trong nhiều bài dạy
Ngữ văn nói chung; hai là những nhóm được hình thành ngẫu nhiên do cùng có
chung sở thích hay năng lực thực hiện một yêu cầu, nhiệm vụ nào đó do giáo
viên giao cho (gọi là nhóm linh hoạt). Cách phân nhóm khơng do giáo viên quy
định mà do học sinh tự hình thành nhóm. Khi giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề thảo
luận, học sinh dựa vào năng lực hiểu biết, sở thích cá nhân hay sự hứng thú mà
lựa chọn, đăng kí, và nhóm linh hoạt được hình thành là tập hợp của các học
sinh có cùng chung sự lựa chọn. Nhóm linh hoạt khơng do giáo viên sắp xếp nên
số lượng học sinh/nhóm bất thường (có nhóm đơng q hoặc có nhóm ít q),
nên cần có sự điều tiết của giáo viên để đảm bảo hiệu quả thảo luận.
      Khi tổ chức thảo luận nhóm, thường hướng dẫn cho học sinh thảo luận các
thơng tin sau:
     + Tìm hiểu các sự việc, chi tiết làm nên cốt truyện.
     + Hướng dẫn tìm hiểu nhân vật trong truyện ngắn.
     + Hướng dẫn HS rút ra những nhận xét, đánh giá về nhân vật, về chi tiết nghệ
thuật, về hồn cảnh, tình huống...
      Giáo viên tổ chức cho các nhóm cùng tìm hiểu một câu hỏi. Học sinh có thể
sẽ đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Giáo viên cần phải biết trân trọng

ý kiến, biết động viên, khích lệ các em có thêm sự tự tin khi bày tỏ quan điểm
của mình. Giáo viên cũng không nên áp đặt cách hiểu với học sinh mà có những
nhận xét, định hướng để học sinh suy ngẫm và phát triển tư duy biết tự nhận
thức đánh giá vấn đề.
     * Phương pháp đóng vai
Giáo viên cho học sinh sắm vai nhân vật để tạo hứng thu cho bài học. 
Ví dụ: Khi dạy văn bản Làng của Kim Lân, học sinh sẽ nhập vai nhân vật ông
Hai trong từng thời điểm khác nhau để thấy rõ diễn biến tâm lý của nhân vật,
qua đó học sinh hiểu hơn tấm lịng, tình cảm của người nơng dân Việt Nam đối
với quê hương, đất nước sau cách mạng tháng Tám, đồng thời bồi dưỡng các em
tình u xóm làng, yêu tổ quốc…
* Kỹ thuật trình bày một phút
Kỹ thuật này có thể tiền hành ở giữa tiết học hoặc cuối tiết học, giáo viên sử
dụng câu hỏi tổng kết lại kiến thức để củng cố quá trình học tập của học sinh.
Thực hiện kỹ thuật dạy học này thành công, việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức bài
10

skkn


học của học sinh sẽ tốt hơn, khắc sâu kiến thức bài học lâu hơn và có hứng thú
khi làm những bài tập làm văn liên quan đến kiến thức truyện ngắn.
Ví dụ: Để tạo hứng thú cho học sinh, thay đổi khơng khí giờ học thoải mái, nhẹ
nhàng hơn, giáo viên sử dụng kỹ thuật “Tia chớp” (huy động sự tham gia của
các thành viên đối với một câu hỏi liên qua đến tình huống có vấn đề nhằm cải
thiện tình trạng giao tiếp và khơng khí học tập trong lớp học).
Ví dụ: Khi dạy đoạn trích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân giáo viên đặt câu
hỏi: Có ý kiến cho rằng: Đặc sắc của truyện ngắn Làng trước hết thể hiện ở
cách xây dựng tình huống truyện độc đáo. Theo em, tác giả đặt nhân vật ông
Hai vào một tình huống như thế nào?

Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời nhanh và ngắn gọn. Trong trường hợp, người
được hỏi chưa có câu trả lời, giáo viên hãy bỏ qua và chuyển sang hỏi người
khác. Khi học sinh trả lời đúng, giáo viên có thể tiếp tục nội dung tiếp theo của
câu hỏi để học sinh không những nắm vững được tình huống truyện mà cịn hiểu
được dụng ý của nhà văn khi xây dựng tình huống truyện độc đáo, gây cấn đó.
Với cách sử dụng kỹ thuật “Tia chớp” này, giáo viên sẽ tạo được tâm lý thoải
mái, sự hứng thú cho học sinh khi tiếp cận nội dung của tác phẩm. Nhờ đó, các
em sẽ tích cực xung phong phát biểu xây dựng bài và có thái độ tích cực hơn
trong việc chiếm lĩnh kiến thức bài học.
Việc vận dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực này sẽ
giúp học sinh chủ động trong khi tiếp cận với các tác phẩm văn tự sự, đồng thời
phát huy năng lực chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình lĩnh hội nội
dung, tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật.
     2.3.3.2.2. Giáo viên sử dụng đa dạng các câu hỏi nhằm tạo sự bất ngờ, hứng
thú cho học sinh tham gia tiết học.
     Trong quá trình dạy học giáo viên thường xuyên đưa ra những câu hỏi sẽ tạo
cho học sinh sự tương tác tích cực và tất cả đều phải tham gia vào hoạt động học
tập tức “tạo ra trạng thái động cơ học tập”. Với nhiều dạng câu hỏi cho nhiều đối
tượng học sinh sẽ thỏa mãn nhu cầu đó:
     * Câu hỏi phân tích, nhận xét, đánh giá
      Loại câu hỏi này giúp học sinh biết phân tích, đánh giá và khái quát những
vấn đề quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng
của tác phẩm.
     Ví dụ: Khi dạy văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, giáo viên
hỏi: Tại sao trong truyện tác giả không đặt tên riêng cho các nhân vật mà lại
gọi bằng các tên chung như: anh thanh niên, ông họa sĩ, bác lái xe, cô kỹ sư,
anh kỹ sư vườn rau…?Hãy nêu ý nghĩa của cách gọi đó?
     * Câu hỏi yêu cầu có sự so sánh đối chiếu
Qua việc so sánh đối chiếu, học sinh có thể nhận ra những nét độc đáo, những
ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Các loại câu hỏi đưa ra có thể là để so sánh các

hình ảnh chi tiết trong tác phẩm hoặc với các tác phẩm khác:
      Ví dụ: Khi dạy văn bản Làng của Kim Lân, GV hỏi: Em hãy so sánh hình
ảnh của nhân vật ơng Hai với hình ảnh người nông dân trước cách mạng (chị
Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố (Ngữ văn 8 tập 2), từ đó chỉ ra
11

skkn


những điểm mới của Kim Lân khi khắc họa hình ảnh người nông dân sau cách
mạng?
     * Câu hỏi hiểu biết về nội dung và hình thức tác phẩm
      Có hai mức độ trong hệ thống câu hỏi này là:
    - Kể lại được văn bản (đòi hỏi học sinh phải nhớ được cốt truyện)
      Ví dụ: Em hãy tóm tắt đoạn trích truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng?
    - Phân tích lí giải được những sự kiện, sự việc, chủ đề của tác phẩm hoặc
những biến cố trong cuộc đời các nhân vật. (Học sinh phải tìm ra mối tương
quan của sự kiện, sự việc, chủ đề, nhân vật. HS phải đối chiếu, so sánh, quy
nạp, phân tích, giải thích...)
      Ví dụ: Tại sao tác giả Nguyễn Thành Long lại đặt nhan đề văn bản là
“Lặng lẽ sa Pa” trong khi Sa Pa không hề lặng lẽ?
     Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa của nhan đề văn bản: Tác giả
đặt nhan đề văn bản là: Lặng lẽ Sa Pa vì Sa Pa là nơi có khí hậu mát mẻ, trong
lành, nơi có khơng gian tĩnh mịch, yên ắng, thơ mộng - nơi nghỉ mát nổi tiếng,
lý tưởng. Thế nhưng, bên trong cái vỏ yên tĩnh, lặng lẽ ấy là cả một cuộc sống
sôi động của những con người đầy trách nhiệm, tâm huyết đối với công việc, đối
với đất nước. Họ là những nhà khoa học khơng có tên. Tên của họ gắn liền với
cơng việc. Đó là anh thanh niên làm cơng tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên
đỉnh Yên Sơn với cách sống, cách nghĩ cao đẹp, đáng khâm phục, đáng yêu. Đó

là ơng kỹ sư vườn rau Sa Pa ngày này qua ngày khác ngồi cặm cụi miệt mài
ngoài vườn, chăm chú rình xem cách con ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào,
để rồi nghĩ ra cách thụ phấn cho hàng vạn cây su hào, lai tạo và cho ra giống su
hào to hơn, ngọt hơn, tốt hơn phục vụ cho nhân dân tồn miền Bắc. Đó là anh
cán bộ chuyên nghiên cứu sét ở trung tâm đã 11 năm không một ngày xa cơ
quan, lúc nào cũng luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, để lập bản đồ tìm ra
nguồn tài ngun trong lịng đất. Những con người ấy, họ đã làm việc thầm lặng,
cống hiến sức lực của mình để xây dựng đất nước. Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” đã
thể hiện rõ chủ đề của truyện: ca ngợi vẻ đẹp và ý nghĩa những công việc thầm
lặng của các nhà khoa học ở Sa Pa.
2.3.3.2.3. Giáo viên tích cực sử dụng CNTT, phương tiện dạy học hiện đại
vào dạy học.
     Việc sử dụng CNTT, phương tiện dạy học hiện đại vào dạy học có tác
dụng giúp học sinh phát huy năng lực sở trường của bản thân để đáp ứng với
thời đại. Học sinh được trực tiếp tương tác với các cơng nghệ thơng tin. Các
hình ảnh video, sơ đồ tư duy trực tiếp tác động vào giác quan của học sinh tạo
cảm xúc từ đó hình thành hứng thú và hỗ trợ tạo động cơ học tập. Phương tiện
trực quan giúp học sinh nắm bài dễ hơn, giờ học sinh động hơn vì vậy tránh
căng thẳng mệt mỏi.
      Ví dụ 1: Khi dạy văn bản Những ngơi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, giáo
viên cho HS tự thao tác lập bản đồ tư duy trên phần mềm imindmap để củng cố
hệ thống hóa kiến thức cũng như kĩ năng sử dụng công nghệ công tin:
12

skkn


      - Tìm hiểu, thu thập hình ảnh tác giả Lê Minh Khuê và những tác phẩm của
bà.
      - Video minh họa về hình ảnh những nữ thanh niên xung phong khi vào bài

để tạo ấn tượng.

   
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, giáo viên
cho học sinh quan sát hình ảnh trên màn hình tivi kết hợp với việc đưa câu hỏi:
? Bức tranh minh họa cho cảnh nào trong truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng ?
? Qua bức tranh đó, em có suy nghĩ gì về tình cảm cha con trong hồn cảnh éo
le của chiến tranh?

Việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi trên giúp học sinh phát triển các năng lực:
ITC (sử dụng CNTT và truyền thông), giải quyết vấn đề, cảm thụ thẩm mĩ...
 Giáo viên đã giúp học sinh củng cố thêm kỹ năng về công nghệ thông tin. Cho
13

skkn


học sinh trình bày ý kiến của nhóm trước lớp nhằm rèn kĩ năng thuyết trình, tạo
được sự tự tin cho học sinh đồng thời tăng sức thuyết phục và hiệu quả cho tiết
học, các em được lĩnh hội kiến thức một cách có hệ thống, bài bản và khoa học.
 2.3.3.3. Hướng dẫn học sinh củng cố bài học thông qua hoạt động luyện tập
     Hoạt động này yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu
được ở hoạt động hình thành kiến thức để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, qua
đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức
độ nào.
Học sinh có thể làm việc cá nhân hoặc hoạt động nhóm để học tập lẫn nhau,
tự sửa lỗi cho nhau, giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn. Trong quá trình
dạy truyện ngắn hiện đại Việt Nam lớp 9, tơi áp dụng những hình thức, phương
pháp sau:

 * Tạo khơng khí sơi nổi qua hình thức trò chơi hoặc giáo dục kĩ năng sống
Trong dạy học mơn Ngữ văn 9, trị chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh
tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, những thái độ, những việc
làm thơng qua một trị chơi nào đó. Trong cuộc chơi mọi người đều bình đẳng
và đều cố gắng thể hiện hết mình. Vì vậy tổ chức trị chơi là biện pháp giáo dục
có nhiều tác dụng để phát triển năng lực cho học sinh. Cụ thể:
- Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học của các em. Nâng cao
hứng thú cho người học góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong học tập
của HS. Từ đó phát triển các năng lực như: tự quản lí.
- Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh
với nhau, giúp học sinh rèn luyện, phát triển năng lực giao tiếp tiếng Việt, sử
dụng ngôn ngữ...
- Thu hút cả lớp tham gia các hoạt động học tập trong giờ học để rèn cho các
em năng lực: hợp tác, giải quyết vấn đề, sáng tao…
  - Tạo ra tiết học thoải mái, đan xen kể và liên hệ những câu chuyện đời sống để
giáo dục các em.
   - Tạo hoạt động vui chơi, thi đua để giờ học sơi nổi gồm trị chơi ơ chữ, thi
đua nhóm, đóng kịch.
- Để sử dụng thành cơng phương pháp “Trị chơi” trong dạy nói chung và dạy
học mơn Ngữ văn 9 nói riêng giáo viên cần lưu ý:
+ Trò chơi phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh.
+ Trị chơi phải dễ tổ chức, được thực hiện luân phiên và không gây nguy
hiểm cho HS, phải phù hợp với quỹ thời gian và điều kiện thực tế của lớp học.
+ Trị chơi phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo
điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu từ chuẩn bị,
tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.
- Các thời điểm có thể sử dụng phương pháp trò chơi như:
+ Sử dụng trò chơi vào đầu giờ học để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới.
+ Sử dụng trị chơi nhằm hình thành tri thức mới.
+ Sử dụng trò chơi nhằm củng cố tri thức.

Việc tổ chức các trò chơi trong tiết học hiện nay rất đa dạng và khá phong phú.
Hình thức là trị chơi theo nhóm hay cá nhân …Một số trị chơi có thể sử dụng
14

skkn


trong các tiết học Ngữ văn 9:
Trị chơi giải ơ chữ: Là hình thức mà người tổ chức ơ chữ đưa ra những ô
vuông để trống, yêu cầu người chơi phải điền cho đúng những chữ mà người tổ
chức đã đưa ra cho mỗi ơ chữ bằng một từ khóa. Căn cứ vào chìa khóa, người
chơi có thể làm cơng việc điền chữ vào một cách dễ dàng.
     Cách tiến hành:
     + Giáo viên soạn ra một ô chữ cùng với các câu hỏi đi kèm tương ứng với
kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện.
     + Giáo viên treo bảng phụ (Hoặc mở phần trình chiếu khi soạn giảng bằng
giáo án điện tử) và lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện. Bắt đầu
từ nhóm 1. Các nhóm có quyền lựa chọn ơ hàng ngang. Nếu nhóm nào khơng trả
lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trị
chơi.
     + Nhóm nào tìm được kiến thức ở ơ hàng ngang thì được cộng điểm, tìm
được ơ hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
Trò chơi ô chữ bí ẩn với phương châm: "Học mà chơi, chơi mà học" sẽ tạo
được tâm lý thoải mái cho học sinh, tạo được khơng khí hịa đồng giữa giáo
viên và học sinh và sẽ thu hút được nhiều em tham gia. Cịn gì thú vị hơn khi kết
thúc giờ học, các em thật sự thỏa mãn, hài lòng với tiết học khi mình đã thực sự
chinh phục được tri thức bằng ơ chữ bí ẩn. Qua đó các em được phát triển năng
lực: giải quyết vấn đề đặt ra trong các câu hỏi tìm ơ chữ, sử dụng ngơn ngữ…

      

Ví dụ: Khi dạy xong bài “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng”, giáo
viên có thể áp dụng trị chơi ơ chữ để củng cố nhằm khắc sâu kiến thức đã học.
      - Giáo viên cho học sinh tham gia trò chơi theo nhóm hoặc cá nhân.
       - Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác
giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm “Chiếc lược ngà”. Đặc biệt khi kết thúc trò
chơi, học sinh phải nắm được nội dung cơ bản, chủ đề của văn bản.
       - Giáo viên lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ
nhóm 1. Các nhóm có quyền lựa chọn ơ hàng ngang. Nếu nhóm nào khơng trả
lời được theo thời gian qui định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trị
chơi.
  - Nhóm nào tìm được kiến thức ở ơ hàng ngang thì được cộng điểm, tìm
15

skkn


được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
   - Cụ thể về bảng ô chữ: (10 hàng)
Đáp án :
1
B E T H U
2

N G Ư Ơ I K Ê C H U Y Ê N

3

Ô N G S A U

4


V Ê T T H E O

5

B A C B A

6

C H I

Ê N K H U

7

C H I Ê N T R A N H

8

D U N G C A M
C O G

9
10

I

A O L

I Ê N


C H I Ê C L Ư Ơ C N G A

Câu hỏi:
Ô hàng ngang số 1: Đây là ô chữ gồm 5 chữ cái. Đây là một trong hai nhân
vật chính trong đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng?
Ô hàng ngang số 2: Đây là ô chữ gồm 13chữ cái. Bác Ba (người bạn chiến
đấu của ơng Sáu) trong đoạn trích đóng vai trị gì?
Ơ hàng ngang số 3: Đây là ô chữ gồm 6 chữ cái. Đây là một nhân vật chính
trong đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng?
Ô hàng ngang số 4: Đây là ô chữ gồm 7 chữ cái. Đây là một nguyên nhân
dẫn đến bé Thu không nhận ông Sáu là cha?
Ơ hàng ngang số 5: Đây là ơ chữ gồm 5 chữ cái. Đây là một nhân vật trong
đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng?
Ơ hàng ngang số 6: Đây là ô chữ gồm 8 chữ cái. Đây là nơi mà ông Sáu trở
lại sau chuyến về thăm nhà?
Ơ hàng ngang số 7: Đây là ơ chữ gồm 10 chữ cái. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến cảnh cha con ông Sáu không nhận ra nhau?
Ơ hàng ngang số 8: Đây là ơ chữ gồm 7 chữ cái. Đây là một trong những
phẩm chất của người chiến sỹ?
Ô hàng ngang số 9: Đây là ô chữ gồm 10 chữ cái. Khi lớn lên bé Thu làm
gì?
Ơ hàng ngang số 12: Đây là ơ chữ gồm 10 chữ cái. Đây là kỉ vật mà ông
Sáu nhờ đồng đội trao tặng lại cho con gái?
* Hàng dọc: Đây là ô chữ gồm 10 chữ cái. Chủ đề của văn bản là gì?
Trị chơi điền bảng (hoạt động nhóm):
- Cách thường làm: Trị chơi này dùng trong giờ ôn tập về các tác phẩm
truyện hiện đại Việt Nam. Thay bằng việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến
thức bình thường (tờ phiếu A0), ta có thể làm thành những thẻ (tờ phiếu) kiến
16


skkn


thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để điền
vào ơ trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống kê
được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả
lớp.Với cách làm này giáo viên chuẩn bị rất vất vả, tốn thời gian, sản phẩm dùng
xong thường bị vứt vào 1 góc.
* Điểm mới: Giáo viên vẫn chuẩn bị những nội dung trên nhưng lập bảng
thống kê kiến thức bình thường (tờ phiếu A4), những thẻ (tờ phiếu nhỏ) kiến
thức. Các em ghép thẻ, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, nhóm nào nhanh giáo
viên chụp lên máy chiếu, các nhóm khác bổ sung, hồn thiện sản phẩm của
nhóm mình. Đặc biệt khi học xong các em ghép phiếu vào vở ghi để làm tài liệu
học tâp.
2.3.3.4. Phát huy năng lực tự học và sáng tạo cho học sinh thông qua hoạt động
“Vận dụng và mở rộng/ sáng tạo”
     Qua hoạt động vận dụng và mở rộng, học sinh có thể mở rộng kiến thức
bằng việc tự đọc những tác phẩm cùng loại hoặc gần gũi, hoạt động tự học lại
tiếp diễn nhưng lúc này, kĩ năng tự học đã trở nên thành thạo hơn, từ đó năng
lực tự học của người học ngày càng được trau dồi thêm. Giáo viên có thể rèn
cho học sinh kỹ năng này bằng cách giao cho học sinh các bài tập mang tính
chất củng cố kiến thức, bài tập có sự liên hệ và vận dụng vào chính bản thân và
cuộc sống. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số đường link liên quan
đến bài học để học sinh mở rộng thêm vốn kiến thức.
 2.3.3.5. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
      Khi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, học sinh trình bày xong, giáo
viên đánh giá ngay câu trả lời của các em, nhận xét, so sánh kết quả của các
nhóm với nhau.
    Trong việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực, giáo viên phải trân

trọng những ý kiến riêng, quan điểm riêng, sự sáng tạo của học sinh. Câu trả lời
vận dụng thực tế, thể hiện sự suy ngẫm sâu sắc về nhân vật và triết lí trong tác
phẩm sẽ được đánh giá cao, thúc đẩy các em đi theo hướng đó để phát triển tốt
năng lực của mình. Đánh giá phải cơng bằng, kịp thời, khách quan, chú trọng
việc hiểu và vận dụng kiến thức, phát huy năng lực của học sinh.
      Có sự khen ngợi, khích lệ, động viên kịp thời bằng nhiều hình thức với các
em học sinh tích cực hoạt động, có những câu trả lời hay. Góp ý nhẹ nhàng và
gợi ý cho các em trước những câu hỏi khó và các em trả lời chưa chính xác.
     Vì vậy, chúng ta cần xác định chuẩn và có chiến lược để cho mọi học sinh
có thể thành cơng: Câu hỏi dễ dành cho học sinh có học lực trung bình, câu hỏi
khó cho học sinh khá giỏi. Mỗi giáo viên phải biết phát huy tối đa sức mạnh
của mỗi giờ học, tạo được niềm vui, sự hứng khởi và thích thú của học trị và
các em thật sự cảm thấy khơn lớn trưởng thành sau mỗi giờ học văn.
      Ví dụ: Khi dạy xong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa, giáo viên có thể nêu ra câu
hỏi: Có ý kiến cho rằng: Trong truyện Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành
công chân dung nhân vật anh thanh niên, em có đồng ý với ý kiến đó khơng? Vì
sao ?
Học sinh đã đưa ra những ý kiến khác nhau. “Mỗi em đều có cách suy nghĩ,
17

skkn


lý giải riêng”. Song các em đều thống nhất: Em đồng ý với ý kiến cho rằng:
Trong truyện, Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công chân dung nhân vật
anh thanh niên trong một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: Một mình
trên đỉnh Yên Sơn, quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ
cây, mây núi. Công việc của anh thật gian khổ, thật vất vả. Đặc biệt cái khó
khăn, thách thức lớn nhât đối với anh chính là sự cơ đơn thường trực, lúc nào
cũng "thèm người". Nhưng dù ở nơi cô đơn, hẻo lánh nhất của đất nước anh vẫn

khơng bỏ qn nhiệm vụ của mình, thậm chí những lúc gió rét nhất của 1 giờ
sáng anh cũng khơng ngại khó để hồn thành. Qua đó, ta có thể thấy được một
vẻ đẹp đáng trân trọng về anh thanh niên, một người trẻ tuổi dám đương đầu sự
thử thách công việc nơi cô đơn, vắng vẻ. Anh không hề cảm thấy cô đơn trên
đỉnh núi Yên Sơn mà ngược lại anh vô cùng hạnh phúc trong công việc của
mình. Anh chính là đại diện tiêu biểu cho những người ở Sa Pa là chân dung
người lao động mới.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng đề tài này vào quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn cho
học sinh trường THCS Hoa Lộc tôi tôi nhận thấy: Dạy học theo hướng phát triển
năng lực học sinh khi dạy các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam (lớp 9) là rất
cần thiết và có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dạy – học. Tiến hành khảo sát, điều
tra lại, tôi đã thu kết quả như sau:
Bảng 2: Kết quả điều tra sau khi áp dụng biện pháp.
Nội dung điều tra ( Chọn 1 ý kiến)
Kết quả trả lời
Tỉ lệ
1. Không học bài, không làm bài tập ngữ a. Có và thường xuyên. 4 %
văn... Em có vi phạm lỗi đó khơng?
b. Có nhưng khơng 10 %
thường xuyên.
c. Không vi phạm
86 %
2. Khi được GV giao bài tập, em có: Chép - Có
12%
văn mẫu, chép sách giải, chép bài của bạn ..... - Không
88%
không?
3. Trong giờ học văn, em có thường xuyên - Có
94%

xây dựng bài, trao đổi hợp tác với với bạn bè
- Không
6%
trong các hoạt động nhóm, cặp đơi ... khơng?
4. Khi tạo lập văn bản ( nói, viết) trong giờ - Có
16%
học văn, em có thường xun mắc lỗi dùng - Khơng
84%
từ sai, viết câu sai, mắc lỗi chính tả, bố cục
và lời văn lủng củng, thiếu logic hoặc diễn
đạt ngô nghê, tối nghĩa... không?
Kết quả khảo sát trên cho thấy :
- Tỉ lệ học sinh có câu trả lời thể hiện các năng tự học, giải quyết vấn đề,
sáng tạo, hợp tác, giao tiếp tiếng Việt, sử dụng ngôn ngữ ... đã tăng lên rõ rệt.
- Tỉ lệ học sinh có cách ứng xử chưa tích cực, thiếu các năng lực giải quyết
vấn đề học tập bộ môn ngữ văn 9 đã giảm xuống thấp.
18

skkn


- Ngoài ra qua việc dạy học và chấm bài của các em tôi nhận thấy rõ sự tiến
bộ về năng lực của học sinh về các phương diện:
+ Khi tạo lập một văn bản học sinh đã giảm hẳn những lỗi sai cơ bản về
chính tả, dùng từ, viết câu, lập luận...
       + Khi trình bày một vấn đề trước lớp thì các em mạnh dạn hơn, logic hơn.
+ Khi giáo viên tổ chức các hoạt động nhóm, cặp đơi, trị chơi các em rất
tích cực và hứng khởi tham gia, tạo khơng khí học tập sơi nổi.
So sánh kết quả điều tra, khảo sát ở 2 thời điểm, tôi thấy kết quả đạt được là
rất đáng mừng. Các em say mê u thích mơn Ngữ văn 9, thấy thích thú khi

được tham gia vào các hoạt động học tập trong giờ học và bước đầu các em đã
rèn được các kĩ năng, phát triển được những năng lực cần thiết.
Như vậy việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong dạy học
Ngữ văn 9 không chỉ chú ý vào việc hình thành, củng cố tri thức mà qua đó các
em được tìm hiểu, được trải nghiệm và quan trọng hơn các em đã tự học, tự rèn
luyện các năng lực phù hợp, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học. Đó chính là nền tảng để tạo tâm thế cho các em phát huy và thể hiện
trí lực của mình một cách tích cực hơn trong học tập nói chung và học Ngữ văn
9 nói riêng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận:
Q trình dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng phải chú ý căn cứ
kết quả của quá trình học tập của học sinh để đánh giá về tri thức, thái độ, hành
vi. Muốn vậy giáo viên phải có kiến thức phong phú, hiểu đúng, hiểu sâu về bài
dạy, có phương phương pháp tổ chức quá trình dạy học trên lớp sát đối tượng,
nắm vững tâm lý học sinh.
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý
tích cực hố học sinh về hoạt động trí tuệ mà cịn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời
gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học
tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – Học sinh theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Trong quá trình giảng dạy cần vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
nhằm tích cực hố hoạt động của người học. Các bước lên lớp cần phải linh hoạt
dựa vào nội dung bài giảng và tình hình cụ thể của mỗi lớp. Giáo viên cần chú ý
đến hoạt động giao tiếp trong dạy học. Đây là một biện pháp phát huy tính tích
cực, sáng tạo của học sinh trong việc tạo lập văn bản; đồng thời, qua hoạt động
này, học sinh được rèn luyện để hình thành nhiều kĩ năng sống.
Giáo viên cần phát huy vai trò chủ thể của học sinh một cách thực sự. Các
tiết học cần được học sinh chuẩn bị bài tốt, để dưới sự hướng dẫn của giáo viên,

học sinh tự khám phá các tri thức cần đạt, từ đó mà cụ thể hố bài đã học.
Để đạt được hiệu quả cao, khơng chỉ địi hỏi phương pháp giảng dạy của
người giáo viên, mà quan trọng hơn là sự tích cực chủ động của học sinh. Tuy
nhiên, phương pháp khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh, nhất là môn văn – một môn
19

skkn



×