1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đề thể
hiện bản sắc riêng, đó khơng chỉ là cái độc đáo riêng biệt, mà còn là sức sống
của bản thân dân tộc đó. Bản sắc văn hóa từ lâu đã trở thành điều kiện tiên
quyết để giữ vững sức mạnh của cộng đồng, rộng hơn đó chính là nền tảng
giữ vững nền độc lập tự chủ của mỗi quốc gia dân tộc.
Trong thời đại hiện nay, thế hệ trẻ được hưởng thành tựu khoa học kĩ
thuật, có cơ hội tiêp xúc với nhiều nền văn hóa bên ngồi từ công nghệ thông
tin là cơ hội nhưng cũng là những thách thức lớn. Những hệ lụy từ mặt trái
của những luồng văn hóa độc hại, lai căng, mất gốc đã trở thành vấn nạn cho
xã hội, cho thanh niên học sinh. Đứng trước tình hình đó, việc giáo dục học
sinh biết trân trọng nền văn hóa của dân tộc là vô cùng quan trọng, khi học
sinh hiểu và biết trân q nền văn hóa của cha ơng sẽ là lăng kính đề các em
vừa biết bảo vệ giữ gìn, lại có đủ bản lĩnh tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa bên
ngồi làm giàu cho bản sắc văn hóa dân tộc.
Đối trường THPT Như Thanh 2, tổng số học sinh 750, học sinh đồng bào
dân tộc thiểu số chiếm 60%, trong đó học sinh dân tộc Thái là 254 em. Tuy
nhiên hiện nay tình trạng phổ biến của học sinh đồng bào dân tộc Thái tại
trường THPT Như Thanh 2 đó là phần đơng các em khơng biết nói tiếng Thái,
khơng hiểu về phong tục cổ truyền của chính dân tộc mình, thờ ơ với những di
sản của cha ông, không ít học sinh đã bị tác động từ những tư tưởng sống tiêu
cực, sa ngã vào các tệ nạn xã hội.
Trong chương trình giáo dục phổ thơng 2018 tiếp cận theo hướng phát
triển phẩm chất, năng lực của học sinh, do đó giáo viên cần chủ động đổi mới
phương pháp giảng dạy để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, vì vậy vấn đề
cho học sinh tham quan, dã ngoại, trực tiếp tham gia quá trình lưu giữ và
sáng tạo văn hóa là phù hợp với tinh thần của chương trình mới. Đặc biệt đối
với bộ mơn Nội dung giáo dục của địa phương thì đây cũng là kế hoạch trải
nghiệm khi các em tìm hiểu về lịch sử văn hóa địa phương.
Với những lí do cơ bản trên cùng với những cảm nhận của bản thân
mình trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy và với mong muốn giúp học
sinh đồng bào dân tộc Thái có ý thức trân trọng và giữ gìn bản sắc dân tộc
mình và học sinh các dân tộc khác hiểu thêm về văn hóa dân tộc Thái, tơi đã
xây dựng đề tài: Tổ chức một số hoạt động nhằm giáo dục ý thức giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc Thái cho học sinh khối 10 ở trường THPT Như
Thanh 2.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của tơi là từ việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu về
văn hóa dân tộc Thái giúp các em có ý thức giữ gìn bản sắn văn hóa địa
1
skkn
phương. phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và có bản lĩnh tiếp thu
chọn lọc tinh hoa văn hóa bên ngồi làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của tơi là văn hóa của dân tộc Thái.
- Phạm vi nghiên cứu: tác giả chỉ nghiên cứu về văn hóa của dân tộc Thái ở
phương diện ẩm thực, trang phục, và một số phong tục của đồng bào Thái tại
hai xã Thanh Tân và Thanh Kỳ huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong phạm vi của đề tài, tôi sử dụng kết hợp các phương pháp như:
phương pháp thống kê – phân loại; phương pháp phân tích tổng hợp; phương
pháp so sánh – liên tưởng; phương pháp vấn đáp – gợi mở; nêu ví dụ… và một
số phương pháp khác.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mỗi dân tộc trên thế giới đều khẳng định sự tồn tại của mình thơng qua
bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy bản sắc văn hóa vơ cùng quan trọng nó quyết
định khơng chỉ sự tồn tại mà cịn định hướng cho sự phát triển vững bền. Sau
hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam đã xây dựng một nền
văn hóa riêng đậm đà tính dân tộc, trong đó mỗi dân tộc trong cộng đồng lại
mang trong nó những nét văn hóa độc đáo
Khái niệm văn hóa theo UNESCO: "Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người
gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua
một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ qt, đồng thời
có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học
thức, lối sống. theo nghĩa chuyên biệt, nó được dùng để chỉ trình độ phát triển
của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả mọi
thứ, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối
sống... Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn
hóa - Thơng tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất,
tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử".
Bản sắc văn hóa dân tộc (tiếng Anh: National cultural identity) là một
khái niệm gắn liền với khái niệm văn hóa. Theo tâm lý học xã hội, xã hội học
và nhân học, bản sắc là cách nhận thức của một cá thể về: Chính cá thể đó,
một cá thể khác hoặc một nhóm xã hội. Như vậy, khái niệm bản sắc thường
dùng để chỉ những cá tính khác nhau của một cá thể hay một nhóm nhiều cá
thể của một nhánh hoặc nhóm xã hội đặc trưng.
2
skkn
Theo giáo sư Tâm lý học Peter Weinreich, đại học Ulster: “Bản sắc của
một cá thể là tổng thể của phân giải cá nhân, qua đó cách mà cá thể phân giải
chính mình ở hiện tại được tiếp tục từ cách cá thể phân giải chính mình trong
q khứ, cũng như truyền cảm hứng cho tiến trình phân giải chính mình
trong tương lai”.
Bản sắc văn hóa là một phạm vi nhỏ thuộc nền văn hóa rộng lớn của
một địa phương, một vùng hay thậm chí là một quốc gia. Bản sắc văn hóa là
nói về những nét đẹp trong văn hóa, những nét tinh hoa mà chỉ vùng, địa
điểm hay dân tộc đó mới có, và là nét văn hóa đặc sắc nhất trong nền văn hóa
chung để khi nhắc đến là nhớ ngay đến địa điểm cụ thể nào đó, hoặc dân tộc
nào đó.
Vì vậy, ta có thể hiểu, bản sắc văn hóa dân tộc là thuật ngữ chỉ sắc thái,
vẻ đẹp và tính chất đặc biệt, cái riêng của một nền văn hóa, của một dân tộc
để phân biệt với những dân tộc khác trên thế giới. Bản sắc văn hóa dân tộc là
cái gốc của nền văn hóa, những đặc trưng khơng thể trộn lẫn trong cội nguồn
văn hóa của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những nét đặc
trưng đặc biệt làm nên sắc thái, bản lĩnh và dấu ấn riêng của dân tộc Việt, từ
những nét đó để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Như vậy mỗi dân tộc, mỗi vùng, mỗi miền đều có những nét văn hóa đặc
trưng riêng biệt tạo nên bản sắc riêng, đối với đồng bào dân tộc Thái ở hai xã
Thanh Tân và Thanh Kỳ huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa vừa mang nét văn
hóa chung của người Thái miền bắc Việt Nam lại có những bản sắc độc đáo
riêng biệt. Việc giáo dục cho học sinh lớp 10 ở trường THPT Như Thanh 2 tìm
hiểu về văn hóa địa phương là vấn đề rất cần thiết.
2.2. Thực trạng trước khi sử dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Vấn đề giáo dục cho học sinh ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là
trách nhiệm của tất cả giáo viên. Đối với những thầy cô giáo đang công tác
tại các trường THPT miền núi Thanh Hóa thì nó cịn là nỗi trăn trở bởi vì khi
tiếp xúc với những truyền thống văn hóa dân tộc thiểu số chúng ta thấy có cả
một kho tàng đồ sộ những di sản vật thể và phi vật thể mà qua thời gian nó
đã trở thành trầm tích văn hóa. Giáo viên cơng tác tại địa phương miền núi có
hiểu về truyền thống phong tục của đồng bào mới hiểu được tâm tư của họ,
hiểu được chính học sinh của mình và có phương pháp giáo dục phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay có một thực trạng đó là đa phần các em học
sinh đồng bào thường có mặc cảm tự ti khi mình là người dân tộc thiểu số,
các em chưa phát huy hết được những năng lực của bản thân, không dám thể
hiện bản sắc văn hóa dân tộc mình, bên cạnh đó cịn có một bộ phận khơng
nhỏ học sinh đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay do quá trình giao lưu tiếp xúc
với văn hóa người Kinh khiến cho các em trở nên xa lại đối với chính nền văn
hóa dân tộc mình.
Riêng đối với học sinh đồng bào dân tộc thiểu số trường THPT Như
Thanh 2 thuộc địa bàn hai xã Thanh Tân và Thanh Kỳ, nhiều em khơng biết
nói tiếng dân tộc, không hiểu nhiều về phong tục tập quán, nguy hiểm hơn đó
3
skkn
là các em chịu ảnh hưởng tiêu cực từ không gian mạng, số học sinh vi phạm
nội quy nền nếp, an ninh học đường ngày càng cao. Bởi vậy việc giáo dục
truyền thống văn hóa dân tộc là vơ cùng cần thiết, nó là sự trở về với văn hóa
dân tộc, sự thay đổi nhận thức để các em biết giữ gìn và phát huy truyền
thống văn hóa của dân tộc mình.
Trước những thực trạng trên, với niềm tâm huyết đối với sự nghiệp
trồng người, đã có rất nhiều sáng kiến kinh nghiệm của các thầy cô giáo đã và
đang công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với mục
đích giáo dục ý thức giữ gìn bản sắn văn hóa cho học sinh đồng bào dân tộc
thiểu số tiêu biểu như đề tài “Giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc cho học sinh trường THPT Mường Lát qua công tác chủ nhiệm” của
thầy giáo Phạm Văn Tuyển trường THPT Mường Lát, qua đó tác giả đã đi sâu
vào tìm hiểu tâm lí học sinh, cung cấp tri thức để học sinh hiểu thêm về văn
hóa các dân tộc. Tuy nhiên đề tài trên mới dừng lại trong hoạt động của giáo
viên chủ nhiệm trên lớp học mà chưa giúp học sinh đi sâu vào thực tế cuộc
sống của người đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong đề tài “Đưa bản sắc văn hóa của dân tộc Thái tại địa phương
vào tiết ngoại khóa mơn Giáo dục cơng dân nhằm giáo dục ý thức giữ
gìn bản sắc dân tộc cho học sinh trường THPT Như Thanh 2” của cô giáo
Lê Thị Phương trường THPT Như Thanh 2 đã có sự tích hợp, lồng ghép văn
hóa địa phương trong tiết dạy học mơn giáo dục cơng dân để giáo dục ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng cũng mới chỉ là sự kết hợp một phần
trong tiết học cụ thể.
Như vậy, hai đề tài trên đã có những các tiếp cận xử lí vấn đề mới mẻ,
khoa học, tuy nhiên mới chỉ dừng lại trong không gian giáo dục của nhà
trường. Bản thân tơi nhận thấy, bản sắc văn hóa dân tộc nó phải gắn liền với
chính khơng gian nó ra đời và được lưu truyền, nếu như tách ra khỏi khơng
gian đó văn hóa sẽ khơng cịn sức sống.
Trước thực trạng đó, với nội dung đề tài “Tổ chức một số hoạt động
nhằm giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Thái cho học sinh
khối 10 ở trường THPT Như Thanh 2 ”, tôi đưa ra cách giải quyết đó là cho
học sinh tham quan giao lưu, trực tiếp với nhân dân để các em tiếp xúc với
văn hóa dân tộc Thái một cách trực quan sinh động và thực tế, sau đó tổ chức
một tiết ngoại khóa tại nhà trường nhằm tổng hợp kiến thức mà các em đã
tiếp nhận từ thực tế chuyến dã ngoại, đồng thời đưa ra một số giải pháp cho
giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc cho học sinh.
2.3. Các hoạt động.
2.3.1. Hoạt động trải nghiệm thực tế.
Để giúp học sinh hiểu sâu sắc về bản sắc văn hóa dân tộc Thái tại địa
phương, chúng tôi đã tổ chức cho các em chuyến đi thực tế đến tham quan
các bản làng người Thái trên địa bàn xã Thanh Tân và xã Thanh Kỳ, chứng
4
skkn
kiến trực tiếp truyền thống văn hóa địa phương. Đây là chuyến đi về nguồn để
đến với nhân dân, những người sáng tạo và lưu giữ truyền thống văn hóa.
2.3.1.1. Tìm hiểu trang phục cổ truyền của người phụ nữ dân tộc Thái.
Trang phục của phụ nữ Thái có bốn vật bao gồm: Xín, sứa, khắn, énh
đó là váy, áo, thắt lưng và khăn trùm đầu. Bộ trang phục này thường được
mặc vào những lễ trọng đại của gia đình hoặc của cộng đồng. Tất cả đều được
dệt bằng thổ cẩm, người phụ nữ Thái xưa phải tự dệt váy may áo cho mình, vì
vậy ngồi vật dụng trang sức, nó cịn thể hiện sự đảm đang khéo léo của
người phụ nữ Thái. Trong buổi đi thực tế tại thôn Tân Quang xã Thanh Tân
các em đã được tận mắt thấy trang phục của các bà, các mẹ và sự chỉ dẫn
trực tiếp quá trình mặc áo vấn khăn theo cách của người phụ nữ dân tộc
Thái. Tôi và học sinh đã được cụ Lương Thị Hoan, bà Vi Thị Phúc, bà Vi Thị
Lâm, chị Hà Thị Diệu chỉ dẫn cách mặc trang phục của phụ nữ Thái.
Cụ Lương Thị Hoan 85 tuổi, dạy học sinh cách vấn khăn
2.3.1.2. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực qua q trình đồ xơi theo cách cổ truyền
của đồng bào dân tộc Thái.
Xôi là món ăn quen thuộc của người đồng bào dân tộc thiểu số vùng
cao, ngoài hương vị đặc trưng của loại nếp nương đặc sản, bà con đã sáng tạo
ra những vẻ đẹp thẩm mĩ đó chính là q trình tạo màu đặc biệt từ các loại lá
rừng tự nhiên với hương thơm độc đáo.
Điều thú vị nhất đối với các bạn học sinh đó là được tham gia trực tiếp
quá trình tạo màu và đồ xơi theo phương thức cổ truyền:
- Qúa trình tạo màu: Để có một mâm xơi đủ năm màu Xanh, hồng, cam,
tím và trắng cần phải có các loại lá như: lá dứa tạo màu xanh, cây có cáng
cống màu tím và cây có cáng cống màu cam, nếu màu cam pha nhạt sẽ
5
skkn
thành màu hồng. Gạo nếp sau khi vò kĩ được ngâm trong nước màu khoảng
hai tiếng thì vớt ra để ráo nước và cho vào nồi hơng.
- Qúa trình đồ xôi: Nồi hông đúc bằng gang chuyên dụng và dụng cụ
hông xôi bằng gỗ phải làm từ cây sung rừng mới có đủ điều kiện khơng bị nứt
khi nhiệt độ cao, rút nước nhanh làm cho xôi khô đều, đủ nhiệt làm xơi chín.
Điều này cho ta thấy nếu nồi hông xôi bằng nhôm sẽ gây ra hiện tượng nhão
bên thành.
Bà Lương Thị Hoa hướng dẫn học sinh cách tạo màu bằng lá cây
Qúa trình đồ xơi bằng vật dụng cổ truyền
2.3.1.3. Tìm hiểu phong tục hơn nhân của người Thái.
Mặc dù đám cưới của người Thái hiện nay đã có phần “Kinh hóa” với đồ
lễ su sê long phụng, loa đài nhạc sống, cỗ bàn hiện đại, nhưng người Thái ở
Thanh Tân vẫn giữ truyền thống cổ xưa với những phong tục đẹp mang bản
sắc riêng đó là những nghi lễ:
- Chú rể phải sang nhà gái ngủ qua một đêm, tối ăn lễ tơ hồng gọi là kín
kháu láu huốm.
- Chuẩn bị đưa dâu đi thì chú rể lạy ông bà, cha mẹ, họ nhà vợ gọi là
khưới lạy, người được lạy sẽ tặng quà cho vợ chồng bằng một đồng tiền.
6
skkn
- Cơ dâu về nhà chồng có sẵn một chậu nước gọi là lễ rửa chân vào nhà
là lễ suối tín kháu hươn. Sau lễ này cơ dâu đi trước chú rể bước lên tam cấp
hoặc lên cầu thang vào nhà.
- Vào nhà việc đầu tiên là hai vợ chồng lạy ma nhà gọi là lạy phí hươn.
- Cơ dâu chú rể lạy bố mẹ chồng, những người trên bên nhà chồng đây
là lễ trầu cau vợ lạy.
Đám cưới của anh Hà Văn Lâm thôn Tân Quang xã Thanh Tân
2.3.1.4. Tìm hiểu các điệu múa của người Thái.
- Múa sạp
Các em học sinh trường THPT Như Thanh 2 múa sạp
Nhảy sạp (hay còn gọi là múa sạp) là điệu múa dân gian đặc sắc của
dân tộc Thái trong những dịp vui, hay trong lễ hội xuân. Khởi thủy của nhảy
sạp là bắt nguồn từ công việc trong đời sống hằng ngày. Để tổ chức nhảy sạp,
người ta chuẩn bị hai cây tre lớn, chắc và đủ dài làm sạp chính, cùng với
nhiều cặp sạp con nhỏ hơn. Hai chiếc sạp chính đặt cách nhau một khoảng
rộng vừa đủ để gác hai đầu các sạp con. Từng cặp sạp con đặt song song tạo
7
skkn
thành một dàn sạp. Hai chiếc sạp cái đặt cách nhau một khoảng rộng đủ để
gác hai đầu các cây sạp con, từng cặp sạp con đặt song song, cách đều nhau
chừng hai gang tay, tạo thành dàn sạp. Người tham gia nhảy sạp thường là
trai gái trong bản được chia thành hai tốp, một tốp đập sạp và một tốp nhảy
sạp. Mỗi đôi trai gái ngồi hai đầu một cặp sạp con và gõ theo nhịp 4/4, cứ 3
lần gõ sạp lên sạp cái thì một lần gõ hai sạp con vào nhau tạo ra âm thanh,
tiết tấu vừa múa, vừa gõ vừa hát. Những người đập sạp phải đều tay, tốc độ
ban đầu chậm nhưng sau có thể nâng dần lên, khiến các bước nhảy khó dần.
Người múa lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, mỗi người cầm một
chiếc khăn múa dài, khi tung lên, khi uốn lượn quanh người. Động tác nhẹ
nhàng, uyển chuyển, lúc dồn dập biến đổi ngang, dọc, chéo, tròn, tất cả đều
diễn ra trên dàn sạp và phải đúng nhịp, làm sao khi hai sạp con chập vào
nhau thì người nhảy không bị kẹp vào chân.
- Khua loong (luống):
Thầy và trị bên cái loong cổ
Khua loong có rất nhiều làn điệu và tùy thuộc vào số người tham gia
hoặc các ngữ cảnh cụ thể. Theo nghiên cứu thì luống có 11 điệu: Loong ton
khéch - luống đón khách với nhịp điệu vui tươi, rạo rực; Loong Phạ lương luống đón mừng tiếng sấm và cơn mưa đầu mùa, mong một mùa bội thu;
Loong xoỏng, Loong xảm, Loong pạc xac - đây là những luống thể hiện tâm
trạng mừng được mùa, hát múa chung quanh cây hoa, diễn tả cảnh đẹp cũng
như khơng khí đập lúa đêm trăng; Loong tùng - luống diễn tả tâm trạng của
đồn người chờ đón cơ dâu về; Loong xom kết, Loong tung xạc, Loong căm
quảng - diễn ra trong lễ hội mừng cơm mới; Luống báo tang; Luống nhịp 3 đưa linh hồn người chết về với Mường Trời... Cùng với loong còn rộn rã tiếng
gõ boong bu, tiếng cồng chiêng diễn tả đi săn, hái lượm, bắt cá, bẫy chim thú...
8
skkn
2.3.1.5. Tìm hiểu tín ngưỡng của người Thái.
- Thờ cúng tổ tiên:
Cũng như người Kinh, người Thái xã Thanh Tân, xã thanh Kỳ cũng có
phong tục thờ cúng tổ tiên, với người Thái gọi đó là ma nhà. Trong quan niệm
của người Thái, linh hồn tổ tiên ông bà vẫn hiện diện về trong những dịp lễ
tết, chứng kiến những việc trọng đại của gia đình. Cách bài trí bàn thờ đơn
giản, lời khấn cũng giản dị chân thành.
Lời khấn mời ma nhà:
Pi mơ có khám ậm lúc mới ống ấu mưa kín sết nắm lúc nắm lán.
(Năm mới cũng sang rồi, con mời ông bà về ăn tết với con cháu)
Lễ vật gồm có một mâm cơm, trầu rượu.
- Thầy tày - thầy mo:
Trong phong tục của người Thái, thầy tày - thầy mo có vị trí quan
trọng, là người chủ trì các nghi lễ quan trọng của cộng đồng. Thầy tày mà
chúng tôi tiếp xúc là ông Lô Văn Nam năm nay đã gần 80 tuổi, là một thương
binh. Nghề làm thầy tày là nghề gia truyền nhiều đời của gia đình ơng. Theo
ơng giải thích, thầy tày là người có quyền làm nhiều nghi lễ trong khi đó thầy
mo chỉ được phép cúng đám ma.
Thầy tày – mo Lô Văn Nam thôn Thanh Trung xã Thanh Kỳ
Điều kiện để học làm thầy tày – thầy mo: chỉ truyền riêng cho người
Thái, lễ vật nhập mơn gồm có trầu cau và rượu, thời gian học nhanh hay
chậm tùy vào trình độ tiếp thu của người học. Khi theo học thầy chỉ dạy từ lúc
chập tối đến 12 giờ đêm, mười đêm đầu phải đến học liên tục, sau đó cứ 3 đêm
đến một lần cho đến lúc học xong. Khi đã học xong, được sự cho phép của
thầy, người học sẽ tổ chức một buổi lễ trao quyền gọi là xịt mun để làm chá
công bố trước bà con cộng đồng về ông tày – mo mới. Trong buổi lễ, lễ vật
gồm 6 con lợn, 4 con gà, 2 con vịt… ngồi ra cịn tổ chức cúng trong 1 đêm, 1
ngày với sự tham dự chứng kiến của bà con, với các trò vui dân gian như
9
skkn
múa hát, ăn uống linh đình. Với thầy tày khi đang học thì kiêng thịt chó, cịn
rau hẹ và cây rau thì là cùng với nhau trâu bị thì kiêng cả đời.
Bộ đồ nghề của thầy cúng người Thái gồm có 1 kiếm tày, 1 kiếm mo,
quạt, nanh lợn rừng, sừng nai, búa thánh, cục bạc sống, móng gấu, móng hổ,
đồ vật truyền đời của nhà thầy… bỏ trong túi đeo.
Bộ đồ nghề của thầy Tày
2.3.1.6. Tìm hiểu y học cổ truyền của người Thái.
Bà Lê Thị Lan hướng dẫn cách sơ chế thuốc
Cộng đồng dân tộc Thái cũng như các dân tộc thiểu số ở nước ta có
cuộc sống gắn bó với thiên nhiên để tồn tại vì vậy trải qua nhiều đời họ đã
tích lũy được nhiều kinh nghiệm y học lấy các loại cây tự nhiên xung quanh để
chữa bệnh cho mình. Qua thời gian, nhiều dịng họ đã sưu tập được những bài
thuốc nam để truyền lại cho con cháu, người Thái gọi những thầy bốc thuốc
cây là xây pốc hắng mạy có. Bà Lê Thị Lan người Thái tại thơn Thanh Trung
xã Thanh Kỳ có nghề bốc thuốc nam từ nhiều đời, mỗi loại bệnh gói thuốc
được kết hợp với nhiều loại cây hoặc củ trong rừng, trong đó có một loại cây
chủ đạo như: chữa bệnh dạ dày gồm cây máu chó, máu người; bệnh xương
khớp là cây xoắn trái, xoắn phải, cây mật gấu; bệnh yếu tim là cây chưa pi:
chữa sỏi thận là cây ngơ đồng, râu ngơ, có chan, bon nam, bệnh trĩ là cây có
10
skkn
toong…để trở thành thuốc chữa bệnh các loại cây rừng mang về được chặt
hoặc thái nhỏ, phơi khô, tùy loại có thể rang vàng hạ thổ hay phơi sương rồi
kết hợp nhiều loại cây khác thành thuốc. Mỗi gói thuốc ít nhất có từ 11 đến 15
vị, nhiều nhất là 99 vị, đặc biệt 12 giờ trưa ngày tết Đoan Ngọ là thời điểm
quan trọng của nghề thuốc, theo quan niệm của y học cổ truyền đây là thời
gian khí dương cực thịnh vì vậy các loại cây thuốc phát huy dược tính mạnh
nhất.
Từ những chuyến đi trải nghiệm thực tế, tôi đã cho các em quan sát,
tiếp xúc, thâm nhập vào nền văn hóa một cách trực quan sinh động. Mặc dù
chưa phải là khám phá hết tất cả mọi phương diện nhưng các em đã nắm
được cơ bản những nét độc đáo của văn hóa truyền thống người Thái tại địa
phương. Để củng cố kiến thức, chúng tôi đã cho các em làm bài thu hoạch với
nội dung: Thuyết minh về một nét văn hóa của người Thái tại xã Thanh Tân
và Thanh Kỳ.
2.3.2. Hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Đây được xem là hoạt động củng cố kiến thức thu hoạch được từ những
chuyến đi thực tế vào bản của người Thái tại hai xã Thanh Tân và Thanh kỳ.
Chủ đề: Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hai đội chơi
2.3.2.1. Phần thi khởi động.
Lĩnh vực
Câu hỏi
Phương án
Lịch sử
địa
Địa danh Bái Tập
phương
của xã Thanh Kỳ gắn
liền với nhân vật lịch
sử nào?
Người lập làng Phát
Câu trả lời đúng
a. Tú Phương
b. Quách Công Nhẹ
c. Vi Văn Yêu
a
d. Lang Văn Tân
a. Lý Cáng
11
skkn
c
b. Xã Hiếm
Vinh đầu tiên là ai?
c. Kiểm Xếm
d. Quách Sản
a. Tắm
Hành động đầu tiên
của cô gái Thái khi
về làm dâu?
b. Gội đầu
d
c. Uống rượu
‘ d. Rửa chân
Phong
tục
a. Lạy ma nhà
Nghi lễ “lạy phí
hươn” là nghi lễ gì?
b. Lạy cha mẹ chồng
a
c. Lạy họ hàng
d. Lạy cha mẹ vợ
a. Thần
Trong một toa thuốc
chia thành: Quân,
thần, tá, sứ. loại nào
là chủ đạo
Y học cổ
truyền
b. Quân
b
c. Tá
d. Sứ
a. Ngâm nước suối
Khi đào củ hà thủ ơ
trên rừng về, ta phải
làm gì?
b. Ngâm
gạo
nước
vo
b
c. Ngâm nước muối
d. Ngâm với mật ong
Tín
ngưỡng
Hoa chá chiêng dùng
để làm gì?
a. Trang trí ngày tết
b. Trang trí phịng
cưới
c. Nghi lễ của thầy
12
skkn
c
tày
d. Đón khách
a. Muối – gạo
Khi hành lễ thầy tày
– mo ln cầm 2 vật
gì?
b. Gậy – dao
c. Kiếm – quạt
c
d. Xôi – thịt
a. Canh lá lốt
Trong mâm cỗ của
người
Thái
địa
phương thường có
món canh?
Ẩm thực
b. Canh bột
c. Canh hải sản
b
d. Canh lá chua
a. Lá tía tơ
Loại lá tạo cho xơi có
màu tím?
b. Lá huyết dụ
c. Lá sả
d
d. Lá có cáng cống
2.3.2.2. Phần thi vượt chướng ngại vật – trị chơi ơ chữ.
1
2
3
4
5
N
K
É
H
H
K
M
U
À
H
K
A
V
Ắ
B
Ò
L
Ă
N
Á I S I M
N
U Ố N G
N A N
Câu hỏi:
1. Trước khi lập làng, nơi này có rất nhiều cây mua, cây sim mọc vì vậy khi
lập làng người ta lấy đặc điểm này đặt tên cho thôn làng?
2. Đây là tên một môn thể thao thường xuất hiện trong lễ hội của người
đồng bào?
13
skkn
3. Từ một hoạt động lao động, dần dần nó trở thành một điệu múa độc
đáo của người Thái?
4. Người đầu tiên của xã Thanh Tân và Thanh Kỳ được kết nạp vào đảng?
5. Một vật trong trang phục của người phụ nữ Thái?
2.3.2.3. Biểu diễn văn nghệ với trang phục của người phụ nữ Thái.
- Bài hát Chín bậc tình yêu do nhạc sĩ An Thuyên phổ nhạc
- Bài hát Inh lả ơi
2.3.2.4. Phần thi dành cho khán giả.
Hãy tìm những câu tục ngữ bằng tiếng Thái với những nội dung sau:
1. Câu chúc tết: ngày lành tháng tốt đến thăm nhà chúc gia đình dồi dào
sức khoẻ:
Bướn đí pí mơ ma dám hươn chín khoe nớ..
2. Nhà có chủ nhà, đất có thổ địa:
Hươn mi cháu . Háu mi phí hươn
3. Thấy súng đừng nâng thấy cị đừng cướp:
Hín khúng nha nho hín co nha lăn
4. Con trai uống nước chè ăn chẻo con gái biết thêu biết trơng nhà:
Pó ke Kín che chắm cheo
Mé ke hụ seo hụ muai hươn
5. Đừng đùa với thầy mo đừng dỡn với người lớn tuổi:
Nha ệt ín nắm cun mó
Nha ệt co nắm cun tháu
2.3.2.5. Phần thi về đích.
Hãy dịch câu sau ra tiếng Việt:
Pí mớ nọng chúc sây năm cua hươn hau chín khoe, ệt kín pín khẩn
chúc .
(Năm mới em chúc thầy và gia đình mình ln mạnh khoẻ, ăn nên làm ra phát
lộc phát tài.)
2.3.3. Lồng ghép nội dung giáo dục giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong các
hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm.
2.3.3.1. Quan tâm, tìm hiểu tâm sinh lí lứa tuổi học sinh đồng bào dân tộc.
- Học sinh miền núi ln có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng. Các
em học sinh miền núi có gì khơng vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm
thẳng thắn và thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thơng cịn
hạn chế, có những lúc làm cho giáo viên “nóng mặt”; nếu như giáo viên thiếu
am hiểu tường tận và thơng cảm sâu sắc thì dễ kết luận đó là những hành vi
“thiếu lễ độ”. Vì vậy, giáo viên cần nắm vững đặc điểm này, thận trọng suy xét
trong quá trình đánh giá phẩm chất đạo đức của từng em.
- Thích sống tự do, khơng thích bị ràng buộc về nền nếp, lối sống tập
thể.
- Nhận thức về thế giới bên ngồi: Bước đầu có nhiều em đã có ý thức
sâu sắc về con người và cuộc sống, nhiều khi cịn có tâm lý ỷ lại.
14
skkn
- Về vấn đề khen thưởng, kỉ luật: Các em khơng thích bị nêu ra những
khuyết điểm trước đám đơng, trước tập thể.
- Về giao tiếp: Các em lễ phép khi chào thầy cô.
- Vấn đề các xưng hô: Các ngơi trong dân tộc có những khác biệt lẫn
nhau về tên gọi, ngơi thứ.v.v…
2.3.3.2. Thăm gia đình học sinh để hiểu hồn cảnh sống của các em.
Trong cơng tác chủ nhiệm, việc tìm hiểu hồn cảnh gia đình học sinh vơ
cùng quan trọng, từ đó chúng ta có phương hướng, biện pháp giáo dục học
sinh phù hợp.
- Hiểu được môi trường sống của các em.
- Hiểu được hoàn cảnh gia đình của các em.
- Hiểu được phong tục tập quán, sinh hoạt gia đình, cách giáo dục con cái
của cha mẹ học sinh.
Từ sự quan tâm chia sẻ đó của giáo viên chủ nhiệm, tình cảm thầy trị,
mối quan hệ giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trở nên thân thiết gần gũi để
thấu hiểu và sẻ chia với nhau dễ dàng hơn.
Các thầy cơ đến thăm gia đình học sinh
2.3.3.3. Đưa việc giáo dục giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vào các hoạt động
ngoại khóa.
Trường THPT Như Thanh 2 là ngơi trường đặc biệt khó khăn đóng trên
địa bàn Thơn Hợp Nhất, xã Thanh Tân, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa,
ngơi trường có đến 60% con em dân tộc thiểu số. Để giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hóa địa phương, nhà trường đã tổ chức các hoạt động để
thể hiện nét đặc trưng của văn hóa địa phương như: Ném cịn, hội thi bắn nỏ,
hát khặp của người dân tộc Thái và các hoạt động TDTT khác.
15
skkn
Hội thi gói bánh chưng đón xn
Hình ảnh học sinh tham gia thi bắn nỏ và ném cịn
Thơng qua những hoạt động này giúp cho các bạn học sinh dân tộc
thiểu số có điều kiện thể hiện văn hóa địa phương, vừa thể hiện được tài năng
riêng của mình, các bạn có thể tiếp thu bài hơi chậm nhưng trong các hoạt
động mang tính văn hóa địa phương các bạn tỏ ra rất xuất sắc, thông qua đây
giúp cho các bạn tự tin hơn và rút ngắn khoảng cách về sự chênh lệch trình
độ giữa các bạn dân tộc thiểu số với các bạn dân tộc kinh. Từ đó củng cố tinh
thần đoàn kết giữa các bạn học sinh với nhau, cũng thông qua các hoạt động
này các thầy cô giáo hiểu thêm về học sinh và văn hóa địa phương, từ đó điều
chỉnh cách dạy phù hợp với đặc thù học sinh vùng đặc biệt khó khăn chủ yếu
là học sinh dân tộc, từ đó nâng cao hiệu quả dạy và học.
2.3.3.4. Tổ chức các chương trình từ thiện, chia khó với đồng bào để cho tất
cả học sinh có điều kiện hiểu về hồn cảnh sống của bà con, qua đó giáo dục
tinh thần nhân ái cho học sinh.
Hàng năm chuẩn bị đón tết âm lịch, nhà trường kết hợp với cơng đồn,
đồn trường THPT Như Thanh 2 phát động kêu gọi quyên góp quần áo, sách
vở, từ các em học sinh, cựu học sinh, mạnh thường quân, sự ủng hộ của các
nhà trường có thầy cơ giáo tăng cường lên công tác tại trường để tổ chức các
chương trình “Đơng ấm tình thương”, “ Xn về trên bản” để giúp đỡ đồng
bào và các em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Đồn thiện nguyện bao gồm
tồn thể giáo viên, cán bộ nhân viên nhà trường và các em học sinh tham dự,
từ những thực tế trải nghiệm này học sinh người Kinh có điều kiện gần gũi
16
skkn
hơn với các bạn học sinh đồng bào, các em hiểu và thương yêu gần gũi nhau
hơn.
2.3.3.5. Giáo viên học tiếng Thái để giao tiếp với phụ huynh học sinh.
Ngôn ngữ và văn hóa là hai phạm trù sự đan xen với nhau. Khi ta
tương tác với một ngôn ngữ khác, điều đó có nghĩa là ta cũng đang tương tác
với văn hóa sử dụng ngơn ngữ đó. Chúng ta khơng thể hiểu một nền văn hóa
mà khơng trực tiếp tiếp cận với ngơn ngữ của nó. Vì vậy, khi nghiên cứu về
bản sắc văn hố dân tộc Thái ta khơng thể bỏ qua ngôn ngữ Thái, muốn giáo
dục các em bảo tồn văn hóa dân tộc các thầy cơ giáo phải biết tiếng Thái để
giao tiếp.
Trong quá trình giáo dục học sinh ở nhà trường miền núi, ngôn ngữ là
tiếng phổ thơng, tuy nhiên để giáo dục có hiệu quả đối với học sinh đồng bào
Thái chiếm số lượng lớn như ở trường THPT Như Thanh 2 thì việc giáo viên
biết giao tiếp tiếng Thái với học sinh và phụ huynh là một ưu điểm lớn.
Sau nhiều năm công tác tại trường miền núi, bằng 'tinh thần tự nguyện
gắn bó lâu dài với trường THPT Như Thanh 2 và tâm huyết với sự nghiệp
trồng người, đem con chữ về với bản, nhiều thầy cô giáo đã tự học tiếng Thái
và giao tiếp thành thục với bà con như cô Nguyễn Thị Huyền môn Địa lý, thầy
Nguyễn Tiến Hùng môn Lịch sử, thầy Đặng Cao Cường môn thể dục… đã là
tấm gương điển hình để giáo viên trong trường học tập. Với chúng tôi cũng
đang phấn đấu học tiếng và học chữ của đồng bào Thái để phát triển chuyên
môn nghiệp vụ của mình.
3.Hiệu quả khi sử dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Đối với học sinh tồn trường nói chung và học sinh khối 10 trường
THPT Như Thanh 2 nói riêng, lần đầu tiên các em được tiếp xúc với nền văn
hóa của dân tộc Thái một cách toàn diện và sâu sắc. Những trải nghiệm thực
tế là những bài học bổ ích và lý thú khi các em được trực tiếp tham gia quá
trình sáng tạo và lưu giữ những nét văn hóa độc đáo của đồng bào. Vì vậy tất
cả các em đều hào hứng khi tham gia, qua những buổi dã ngoại, những
chuyến đi chia sẻ cùng với đồng bào đó tình bạn xích lại gần hơn, hiểu và
thơng cảm với các bạn học sinh đồng bào hơn.
Với các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là học sinh dân
tộc Thái, trở về với chính nguồn cội văn hóa của mình các em thấy tự hào với
di sản của cha ông, nhắc nhở các em biết trân trọng giữ gìn bản sắc văn hóa
của dân tộc mình, các em tự tin xóa đi mặc cảm mình là người dân tộc thiểu
số, hãnh diện khi khốc trên mình bộ quần áo cổ truyền trong những buổi lễ
của nhà trường trước mắt bạn bè. Hiện nay có một bộ phận không nhỏ học
sinh đồng bào do quá trình giao thoa văn hóa đã mai một mất gốc văn hóa,
những buổi dã ngoại này là sự nhắc nhở các em biết trân trọng giữ gìn vốn
quý của cha ông mình, biết yêu nguồn cội, lưu giữ và phát huy tinh hoa văn
hóa dân tộc.
Đối với giáo viên chúng tơi khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này đã
có cơ hội học hỏi rất nhiều từ nhân dân, những con người sáng tạo và lưu giữ
17
skkn
văn hóa. Chúng tơi đã khám phá được những tầng sâu trầm tích văn hóa bao
đời của người Thái, từ thực tế nghiên cứu văn hóa chúng tơi càng thêm u
mến miền đất mình gắn bó, thương hơn học sinh của mình, cảm thơng hơn
với những gian nan vất vả của đồng bào, bản thân thấy cần phải cố gắng hơn
nữa để góp phần bảo tồn những di sản văn hóa địa phương.
4. Kết luận và kiến nghị.
4.1. Kết luận.
Đồng bào dân tộc Thái ở hai xã Thanh Tân và Thanh Kỳ đã có lịch sử
định cư lâu đời. Từ vùng Tây Bắc họ di cư vào Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa, rồi
xi về phương Nam, một số dịng họ đã dừng lại lập bản làng ở đất Thanh Kỳ
(nay là 2 xã Thanh Kỳ và Thanh Tân). Như vậy người Thái ở đây vừa mang
đặc điểm phong tục tập quán của người Thái Tây Bắc Việt Nam lại vừa mang
bản sắc riêng, đặc biệt họ đã để lại những di sản văn hóa lớn cho cộng đồng,vì
vậy việc giữ gìn bản sắc văn hóa là một cơng việc vơ cùng cấp bách hiện nay.
Trách nhiệm của chúng ta phải giáo dục cho học sinh hiểu được giá trị văn
hóa địa phương để các em có trách nhiệm giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
đó làm giàu cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
4.2. Kiến nghị.
Từ tình hình kinh tế xã hội thực tế của đia phương xã Thanh Tân và xã
Thanh Kỳ nơi địa bàn tuyển sinh của nhà trường là khu vực đặc biệt khó
khăn, vì vậy rất cần sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành đối với sự
nghiệp giáo dục để các em học sinh có nhiều cơ hội học tập, phát triển bản
thân và sẽ là chủ nhân tương lai để xây dựng quê hương giàu đẹp.
Là một địa bàn có nhiều dân tộc anh em sinh sống lâu đời với nhiều giá
trị văn hóa cổ truyền đang bị mai một dần do sự giao thoa văn hóa vì vậy rất
cần sự chung tay của toàn xã hội trong việc bảo vệ các di sản quý báu của
đồng bào dât tộc thiểu số, phát huy những giá trị tốt đẹp làm giàu thêm bản
sắc văn hóa của dân tộc thiểu số nói riêng và cộng đồng dân tộc nói chung.
Với hiệu quả thực tế của việc sử dụng sáng kiến kinh nghiệm này, đối
với nhà trường cần tổ chức nhiều chuyến tham quan dã ngoại để học sinh có
cơ hội tiếp xúc với nền văn hóa địa phương, những hội thi tìm hiểu về văn hóa
để các em có ý thức bảo vệ giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
XÁC NHẬN CỦA
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
T hanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2022 THỦ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép của người khác
Người viết
Vũ Quang Bình
18
skkn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lương Xuân Chấn (2014), Lịch sử Đảng bộ và phong trào đấu tranh
Cách mạng xã Thanh Kỳ, Cơng ty cổ phần in báo Thanh Hóa.
2.
Cao Sơn Hải (2017), Văn hóa dân gian Mường Thanh Hóa, Nxb Thanh
Hóa.
3.
Nguyễn Liên (2017), Âm nhạc dân gian xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa.
4.
Hồng Anh Nhân (2015), Tuyển tập sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân
gian Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa.
5.
Hồng Tuấn Phổ (2019), Tinh hoa văn hóa xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa.
6.
Bùi Sỹ Tụng (2006), Hoạt động ngoài giờ lên lớp, SGV 10, Nxb Giáo dục.
7.
Hoàng Bá Tường (2020), Hát khặp dân tộc Thái tỉnh Thanh Hóa, Nxb
Thanh Hóa.
19
skkn
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XẾP LOẠI
Họ và tên: VŨ QUANG BÌNH
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Giáo viên trường THPT Như Thanh 2
TT
1
2
Tên đề tài SKKN
Kết
quả
Cấp đánh giá
Năm học đánh
đánh
giá
xếp loại
giá xếp loại
xếp loại
Hà Nội trong tùy bút Sở GD&ĐT
của Băng sơn
tỉnh Gia Lai
Sử dụng phương Sở GD&ĐT
pháp dạy học nhóm tỉnh Thanh
20
skkn
B
2013 – 2014
C
2018 – 2019