Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Skkn vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực đọc hiểu bài tuỳ bút người lái đò sông đà (nguyễn tuân) cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.17 KB, 36 trang )

1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục đào tạo tác động không nhỏ đến việc thịnh suy của mỗi quốc
gia. Ở nước ta hiện nay giáo dục đang là vấn đề cấp thiết nhận được sự quan tâm
của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Nhất là giáo dục phổ thông đang thực
hiện những bước chuyển mạnh mẽ và gặt hái được những thành công đáng kể
nhờ vào sự kế thừa tinh hoa của nền giáo dục truyền thống và đặc biệt đang tiến
hành đổi mới “ căn bản và tồn diện”.
Luật Giáo dục nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 24.2, đã
ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong các trường phổ thơng hiện nay, nội dung chương trình dạy học nói
chung và mơn Ngữ Văn nói riêng có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, tích
hợp, lấy học sinh là chủ thể, là trung tâm, khơi gơi được sự hứng thú, khám
phá…coi trọng việc phát triển năng lực cho học sinh, giúp các em chủ động hơn
trong việc tự tìm tịi, lĩnh hội kiến thức, giúp các em vận dụng một cách tối đa
những gì học được trong nhà trường vào thực tiễn cuộc sống; bồi đắp tâm hồn
đồng thời hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng cơ bản của hoạt
động giao tiếp tiếng Việt, đạo đức, văn hóa, mĩ học, lịch sử, địa lí... kĩ năng sống
góp phần khơng nhỏ trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
con người. Đồng thời giúp các em luôn hướng tới các giá trị Chân - Thiện - Mĩ,
luôn phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
Nhưng trong q trình dạy học môn văn, không phải dạy tác phẩm nào,
bài học nào, tiết dạy nào giáo viên cũng đạt được thành công. Đặc biệt đối với
thể loại tuỳ bút là những tác phẩm địi hỏi người đọc, người dạy phải có sự suy
ngẫm, phải nhập tâm vào dịng tâm tư tình cảm của nhà văn, lưu tâm đến loại
thể. Dù vậy nhiều giáo viên hiện nay dạy tuỳ bút giống như dạy truyện ngắn
nghĩa là vẫn có tính chất truyện nên hiệu quả giảng dạy không cao, Việc giảng
dạy như vậy đã làm mất đi vẻ đẹp và sức hấp dẫn riêng của thể văn này.


Tuỳ bút cũng là một thể loại có tầm quan trọng trong việc giáo dục nhận
thức, giáo dục nhân cách, giáo dục tư tưởng tình cảm, thẩm mĩ cho các em học
sinh. Bởi với khả năng ưu việt trong việc miêu tả và khám phá hiện thực, tuỳ bút
luôn thấm đẫm chất hiện thực, bao quát những vấn đề cơ bản của xã hội và
“ vang lên những âm hưởng quyến rũ, thiết tha về tình đời, tình người”. Có thể
nói, đây là một trong những thể loại tiêu biểu nhất của văn học giúp học sinh bồi
đắp nhận thức về cuộc sống, vun trồng những xúc cảm thẩm mĩ tốt đẹp, mở ra
những chân trời mới để các em được khám phá, được trải nghiệm sâu sắc hơn về
cuộc đời giúp các em trưởng thành về nhân cách, phong phú về tâm hồn để sống
tốt hơn, ý nghĩa hơn. Vì vậy việc giúp học trị phát triển năng lực đọc hiểu thể
loại tuỳ bút Việt Nam hiện đại là một việc làm cần thiết. Chính vì vậy tơi luôn
luôn trăn trở, suy nghĩ. Qua nhiều năm dạy học văn, tôi đã chắt lọc được một số
kinh nghiệm:
1

skkn


“ Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển
năng lực đọc hiểu bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tn) cho
học sinh lớp 12 trung học phổ thơng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu hướng vào mục đích phát triển năng lực đọc hiểu cho
học sinh nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các biện pháp dạy học tích cực vào
việc giảng dạy bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tn) cho học
sinh lớp 12 trung học phổ thơng . Từ đó, người dạy có điều kiện triển khai
phương pháp dạy học tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà
trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng tôi tập trung nghiên cứu là các phương pháp, kỹ thuật dạy học

tích cực vào bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tuân) trong chương
trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn lớp 12, tập 1, NXB Giáo Dục.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong phạm vi sáng kiến này tôi chủ yếu áp dụng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát thực nghiệm.
Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp tiếp cận tâm lý.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nghị quyết số 40/2000/QH 10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khóa X đổi mới về chương trình giáo dục phổ thơng đã khẳng định “đổi mới
chương trình giáo dục phổ thơng phải qn triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong luật giáo dục,
nhằm khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường
thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi trọng kiến thức xã hội nhân
văn; bổ sung những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phù hợp với khả
năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự thống nhất kế thừa và phát triển của
chương trình giáo dục”.
Như vậy mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ kiến thức một chiều sang dạy học theo
“phương pháp dạy học tích cực”, lấy người học làm trung tâm nhằm giúp học
sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và
khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú
trong học tập cho các em.
Trên cơ sở tìm hiểu những lí luận khoa học về các phương pháp dạy học
tích cực trong dạy học mơn Ngữ văn nói chung, tuỳ bút hiện đại Việt Nam nói
riêng. Tơi tìm tịi những biện pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu khi vận

dụng vào dạy học sinh lớp 12 tại trường THPT Triệu Sơn 3 khi đọc hiểu tuỳ bút
“ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tuân)
2

skkn


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Về phía giáo viên:
Trong thời buổi hiện nay - nền kinh tế thị trường đang diễn ra, đa phần
giáo viên gặp khó khăn về điều kiện sống, đồng lương ít ỏi khơng đủ trang trải
cho cuộc sống gia đình, vì thế khơng ít giáo viên chán nản, lòng yêu nghề nhạt
phai ở họ. Một số giáo viên phụ thuộc vào SGV, các loại sách hướng dẫn giảng
dạy, dạy theo một “ lộ trình” định sẵn, nhằm cung cấp kiến thức cơ bản ( kiến
thức chuẩn ) cho học sinh. Một số giáo viên dạy văn thiếu tâm hồn , thiếu những
cảm xúc thực sự cho giờ văn, chỉ áp dụng phương pháp đổi mới qua loa, chiếu
lệ, không đạt hiệu quả.
Việc quy định thời lượng tiết học, nhất là ở chương trình lớp 12 cũng gây
áp lực lớn cho người dạy và người học. Từ đó tạo thành sự máy móc, dập khn
trong việc phân bố thời gian tiết học.
Một bộ phận giáo viên chưa thực sự đầu tư, tìm tịi sáng tạo để bài giảng
có sự hấp dẫn, chưa phát huy được sự tích cực, chủ động, sáng tạo và say mê
của học sinh. Đánh giá học sinh cịn mang tính động viên, khích lệ nên tạo ra
tính chủ quan cho học sinh. Chú trọng đến việc hình thành, cung cấp sẵn kiến
thức mà chưa chú trọng đúng mức tới việc phát triển tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh trong giờ học văn.
Tác phẩm “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tn) là một bài tuỳ bút
hay, có sức hấp dẫn đặc biệt với những người yêu và đam mê văn bởi cái tôi tài
hoa uyên bác độc đáo của tác giả, bởi lối hành văn độc lạ, bởi chất nhân văn, bởi
tình yêu quê hương đất nước thiết tha của của Nguyễn Tuân.

2.2.2. Về phía học sinh :
Do nhu cầu của thời đại nên đa phần phụ huynh muốn hướng cho con em
mình học Tốn, Lí, Hóa, Sinh, tiếng Anh. Vì thế các mơn học này đã lên ngơi, ít
học trị dám dũng cảm lựa chọn con đường văn chương cho riêng mình. Thêm
vào đó các trường Đại học trong cả nước có tuyển sinh các ngành học khối C
khơng nhiều, điểm tuyển đầu vào lại khá cao ( học văn giỏi đâu có dễ) ra trường
cơ hội xin việc của các em lại cực kì khó khăn vất vả, thất nghiệp nhiều, số ít có
xin được việc thì lương cũng lại rất thấp. Nhiều học sinh đam mê văn, muốn
theo nghiệp văn nhưng vẫn cịn e dè bởi những lí do đó, vì thế khơng dám đeo
đuổi nghề văn.
Thực tế, văn học khơng cịn hấp dẫn với rất nhiều học sinh. Các trị chỉ
thích lướt web, lướt facebook... những truyện ngắn hay, những áng thơ đẹp,
những bài tuỳ bút chứa chan tình u nước khơng cịn nhận được sự quan tâm từ
các em, nhất là những học trị lớp 12. Vì vậy những em học sinh đó khơng được
giáo dục và cảm hóa bởi mơn văn nên một phần xuống cấp về mặt đạo đức, vô
cảm, sa vào những tệ nạn xã hội đáng báo động : Giết người, cướp của, bạo lực
học đường, ma túy, sử dụng văn hóa đồi trụy, ăn mặc nói năng thiếu văn hóa...
Khi được tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít
chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, khơng đạt hiệu quả
cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.
Từ nhiều năm nay, trên thực tế, phương pháp dạy học nói chung và phương
pháp dạy học bộ mơn văn nói riêng ở trường phổ thơng trung học đã có nhiều
3

skkn


đổi mới đáng kể nhưng vẫn cịn có hiện tượng học sinh học theo kiểu cũ: đọc
thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cơ mà khơng hoặc ít có sự sáng tạo khi
tiếp xúc tác phẩm văn chương. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tịi ở học

sinh cần được khắc phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách
học của học sinh.
Góp phần khắc phục thiếu sót, nhược điểm thường gặp trong dạy học là
chưa chú ý đúng mức hoặc còn lúng túng trong việc áp dụng các biện pháp dạy
học thể loại tuỳ bút hiện đại. Thúc đẩy tối đa khả năng tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh trong giờ đọc - hiểu tác phẩm tuỳ bút, tránh lối dạy thụ động
một chiều theo kiều giảng giải- ghi nhớ, đọc - chép còn ảnh hưởng khá nặng tại
các trường THPT, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng bán sơn địa của địa phương,
tôi mạnh dạn đề ra một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong nhiều
năm qua: Phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm tuỳ bút hiện đại cho học sinh
lớp 12 nhờ vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng
lực đọc hiểu bài tuỳ bút“ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tn) cho học sinh
lớp 12 tại trường THPT Triệu Sơn 3.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Hiểu sâu sắc tinh thần dạy và học theo hướng tích cực; nắm vững các
phương pháp, kĩ thuật dạy - học tích cực; cách kiểm tra- đánh giá theo tinh
thần đổi mới.
N.I Kudriashep quan niệm: “Phương pháp dạy học phần lớn được thực
hiện thông qua các biện pháp dạy học cụ thể mà giáo viên sử dụng. Biện pháp
dạy học là các chi tiết của phương pháp, là các yếu tố, các bộ phận cấu thành
hoặc các bước cụ thể trong công việc nhận thức nảy sinh ra khi vận dụng một
phương pháp nhất định” (Z. Ia Rez (chủ biên): Phương pháp luận dạy Văn học,
tr. 37).
Vậy biện pháp dạy học là gì? Từ “biện pháp” có nghĩa là “cách làm, cách
thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể” (Đại từ điển tiếng Việt tr. 161). Suy
ra, có thể hiểu biện pháp dạy học là cách làm, cách thức giải quyết một vấn đề
hay tình huống cụ thể trong dạy học.
Biện pháp dạy học trong giờ văn là hết sức đa dạng phong phú, vì mỗi PPDH
đều có những “yếu tố, bộ phận” cấu thành có tác dụng cụ thể hóa làm cho PPDH
linh hoạt hiệu quả hơn.

Vì vậy, có thể nói, trong giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm có những
PPDH được sử dụng thì đồng thời có những BPDH đi kèm. Điều then chốt là
giáo viên phải biết lựa chọn BP nào thích hợp với PPDH đã sử dụng theo mục
đích yêu cầu dạy học và thời gian ở trên lớp.
Trong bài viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp truyền thống,  tơi
chỉ trình bày vài phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo
dục trong quá trình giảng dạy bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn
Tuân) ( trong một bài dạy giáo viên có thể vận dụng 1 vài hoặc nhiều biện pháp,
kỹ thuật dạy học nếu thấy thích hợp).

4

skkn


Tôi đã sử dụng linh hoạt một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
như: Vấn đáp (đàm thoại), Thảo luận nhóm (Kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”), Đặt và
giải quyết vấn đề, Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy, Động não, Đọc sáng
tạo…, Kĩ thuật “Trình bày một phút”… khi dạy bài tuỳ bút “ Người lái đò sông
Đà” ( Nguyễn Tuân) trong thời lượng 4 tiết học.
 Vấn đáp (đàm thoại):
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả
lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học
sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
   
Mục đích: Kích thích, dẫn dắt học sinh suy nghĩ , khám phá tri thức, tạo
điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình dạy học. Kiểm tra , đánh giá kiến
thức của các em và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với nội dung học tập.
Thu thập, mở rộng thông tin kiến thức.
   

Yêu cầu câu hỏi: Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Phù hợp với thời gian thực
tế. Không ghép nghiều câu hỏi cùng thành một câu hỏi móc xích, Khơng hỏi
nhiều vấn đề cùng một lúc...
  
Qua việc áp dụng phương pháp này việc dạy của giáo viên và việc học
của học sinh hiệu quả hơn rất nhiều so với cách truyền thống. Thay vì giáo viên
thường xun hỏi thì có những lúc trong tiết dạy học sinh sẽ luân phiên hỏi và
được hỏi, các em sẽ hào hứng và thích thú khi được tham gia vào quá trình dạy
học, giờ học cũng vì thể mà bớt đơn điệu, nhàm chán, các em sẽ nhớ nhanh và
lâu kiến thức đã được học.
 Đặt và giải quyết vấn đề:
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh
doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những
vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng
đồng khơng chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như
một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
 Hoạt động nhóm:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ có thể từ 2, 4, 6 hoặc 10 người.
Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên
hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học,
được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau trong khoảng thời
gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân
công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và
đánh giá trước tồn lớp.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính
trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS.
Đồng thời tránh sự nhàm chán, khơi dậy sự hứng thú.
5


skkn


    
Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, GV
vẫn tiến hành theo các bước:  Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): chuẩn bị đề tài,
nội dung , phương tiện hỗ trợ...Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu ,
cử nhóm trưởng, người báo cáo,... giáo viên quan sát, đôn đốc, nhắc nhở...Yêu
cầu thực hiện :Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn luận, được
lắng nghe , tránh căng thẳng hoặc người được nói quá nhiều, làm việc quá nhiều.
Mọi thành viên đều tích cực làm việc.Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình
bày kết quả các thành viên bổ sung thêm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, hỏi
thêm. GV đúc kết , bổ sung, nhấn mạnh, kết luận.
Thảo luận nhóm để học sinh phát triển năng lực giao tiếp, bày tỏ những
cảm nhận của mình về bài kí, về đối tượng được trần thuật trong tác phẩm là
hình tượng sơng Hương và tài năng của nhà văn.
Kĩ thuật khăn trải bàn:
Hình thức: trên khổ giấy A3, chủ đề thảo luận ghi ở chính giữa, chia các
phần cịn lại thành 4-6 phần theo số thành viên trong nhóm. Mỗi người sẽ cùng
ghi câu trả lời của mình vào các phần đã được chia (trong khoảng 3-5 phút) .
Sau đó đại diện nhóm dán giấy A3 lên bảng, thuyết trình.. Các nhóm khác nhận
xét, bổ sung ý kiến (nếu có).
 GV nhận xét, bổ sung, nhấn mạnh trọng tâm (thống nhất ý kiến hoặc điều chỉnh
cách hiểu nếu có cách hiểu, lý giải vấn đề, định hướng nếu sai lệch…)
   
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục, nhiều GV đã sử dụng phương
pháp này. Song qua việc dự giờ đồng nghiệp , tôi thấy rằng nhiều người có sử
dụng phương pháp này chỉ mang tính hình thức, chưa đem lại hiệu quả giáo dục.
Có tình trạng thảo luận nhóm nhưng chỉ có một, hai người trong mỗi nhóm là

làm việc cịn những thành viên khác ngồi chơi hoặc khơng tích cực. Khi nhận
xét kết quả có tình trạng qua loa, q nhanh khiến học sinh trong lớp không nắm
bắt được đâu là nội dung đúng, sai, trọng tâm cần nắm ... Chính vì vậy để
phương pháp này đem lại hiệu quả, góp phần khơi dậy sự hào hứng trong học
tập theo tôi, người GV cần chủ động tổ chức thảo luận nhóm một cách linh hoạt.
Tùy từng đơn vị kiến thức, quỹ thời gian trong bài học mà chọn phương pháp
thảo luận nhóm cho phù hợp.
 Sử dụng phương pháp bản đồ ( sơ đồ) tư duy:
Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh
để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết
để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề thành một dạng của lược đồ phân
nhánh. Cách ghi chép này khoa học, giúp cho học sinh dễ nhớ và dễ ôn tập hơn.
Việc nhớ và ghi lại các thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi
sử dụng phương pháp truyền thống. Sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy sẽ có
những ưu điểm sau:
Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng. Quan hệ hỗ trợ tương
ứng giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. ý càng quan trọng thì sẽ nằm vị trí càng
6

skkn


gần ý chính. Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức
bằng thị giác. Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bát chấp
thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng
và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
Như vậy, bản đồ tư duy là một công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và

trình bày các khái niệm trong lớp học. Bản đồ tư duy giúp cho giáo viên tập
trung vào các vấn đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan
về chủ đề mà khơng có thơng tin thừa. Học sinh sẽ khơng phải tập trung vào
việc đọc chép dài dòng, mà thay vào đó sẽ lắng nghe những gì mà thầy cơ giáo
diễn đạt. Hiệu quả bài học sẽ tăng lên.
Khi dạy học bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà”( Nguyễn Tuân), giáo
viên có thể tóm tắt hoặc cho học sinh ghi lên bảng tóm tắt lại nội dung bài bằng
bản đồ tư duy.
 Động não:
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
 Đọc sáng tạo:
Đọc sáng tạo là khơng phải tự đưa ra một lối đọc riêng, tự sáng tạo ra kiểu
đọc văn bản đặc thù của mình. Đọc sáng tạo trước hết là rèn luyện kĩ năng phát
âm, luyện giọng, thể hiện năng lực diễn tả tái hiện các tình tiết, nhập thân vào
cái tôi tác giả,…
Đọc sáng tạo diễn ra dưới hình thức lắng nghe giọng đọc của người khác, nắm
ưu, khuyết điểm, sau đó đưa ra giọng đọc phù hợp với thể loại tác phẩm.
GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy-học
văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực
tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn
bản ấy, khơng hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của
môn văn đều chỉ là nói sng, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”.
Kĩ thuật “Trình bày một phút”.
   Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những
câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn
và cơ đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra
sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã
hiểu vấn đề như thế nào.
   Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học),

GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em
học đuợc hơm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa
được giải đáp?...HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới
7

skkn


nhiều hình thức khác nhau. Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về
những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp
hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
   Kĩ thuật này tơi thường áp dụng ở phần tổng kết bài học nhằm kiểm tra xem
khả năng nắm bắt kiến thức mà các em thu hoạch được và khả năng vận dụng
cũng như kĩ năng diễn đạt khi trình bày một ý, một nội dung nào đó của các em.
Chẳng hạn như sau khi học xong bài kí, tơi hỏi HS: Câu văn nào ( hoặc
đoạn văn nào) trong bài kí khiến em ấn tượng, u thích nhất? Vì sao? Hoặc hỏi
Theo em, qua bài tuỳ bút, tác giả muốn gửi tới người đọc thơng điệp gì ? Hoặc
hỏi: Điều quan trọng nhất các em học được từ bài học hơm nay là gì?...
2.3.2. Giáo viên phải hiểu rõ khái niệm phát triển năng lực, khái niệm đọc
hiểu Ngữ Văn, đặc trưng của thể loại kí,
2.3.2.1. Khái niệm phát triển năng lực, khái niệm đọc hiểu Ngữ Văn.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là hướng đến
phát triển năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Theo PGS-TS Đỗ Ngọc
Thống thì năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu, ai cũng cần có để học
tập, để làm việc, để sống trong xã hội. Còn năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng
lực riêng được hình thành và phát triển do một lĩnh vực, một môn học nào đó.
Năng lực chung là loại năng lực mà bất kỳ một học sinh nào cũng cần được hình
thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và thách thức khi bước
vào cuộc sống thực. 
Tuy cách phát biểu về năng lực có thể khác nhau nhưng đều thống nhất

trong cách hiểu về bản chất của khái niệm này. Có thể nêu lên mấy điểm thống
nhất sau:
Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố: kiến thức, kĩ năng, thái
độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác để giải quyết
một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống (học tập và lao động).
Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua
hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu. Tất nhiên
thực hiện (vận dụng) ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và
kĩ năng. Đó là cách tiếp cận mới nhưng khơng phải xa lạ mà nó vốn đã có trong
chương trình cũ nhưng chưa được hiểu đúng. Bởi các thành tố cơ bản cấu thành
năng lực vẫn là kiến thức và kĩ năng; vì thế muốn hình thành năng lực vẫn phải
thông qua kiến thức và kĩ năng. 
Tuy nhiên nếu chỉ mình kiến thức và kĩ năng, nhất là khi chúng tách rời nhau,
thì chưa thể có năng lực thực sự.
Vậy năng lực đọc hiểu Ngữ Văn và đánh giá năng lực Ngữ Văn là gì?
Có nhiều cách hiểu về năng lực Ngữ Văn. Căn cứ vào mục tiêu, tính chất và nội
dung chương trình mơn học này từ trước đế nay; từ cách hiểu chung về năng
lực, có thể nói năng lực Ngữ Văn là trình độ vận dụng các kiến thức, kĩ năng cơ
bản về văn học và Tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong cuộc sống. Năng lực

8

skkn


Ngữ văn gồm 2 năng lực bộ phận là: Năng lực tiếp nhận văn bản và Năng lực
tạo lập văn bản.
Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các thơng tin
chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái đẹp của văn bản, nhất
là văn bản văn học. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết cách tiếp nhận. 

Năng lực tạo lập văn bản là khả năng biết viết, biết tổ chức, xây dựng một văn
bản hoàn chỉnh đúng quy cách và có ý nghĩa. Muốn có năng lực tạo lập phải biết
cách tạo lập. Tức là nắm được cách viết một loại văn bản nào đó. 
Phương thức đánh giá khơng chú trọng u cầu học thuộc, nhớ máy móc, nói
đúng và đầy đủ những điều thầy, cơ đã dạy… mà coi trọng ý kiến và cách giải
quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy nghĩ sáng tạo,
mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập
luận giàu sức thuyết phục… 
Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và mức độ
phù hợp; tránh cả hai khuynh hướng cực đoan: “đóng” một cách cứng nhắc, máy
móc, làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện “ không biên giới”,
phi thẩm mỹ, phản giáo dục…
Hiểu môn văn trong nhà trường là môn đọc văn. Dạy văn là dạy cho học sinh
năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào
cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể
nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngơn từ, hình
thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu bản chất môn văn là
môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu
đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của
học sinh.
2.3.2.2. Khái niệm, đặc trưng thể loại kí.
Kí là một loại văn xi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép
về con người, sự vật, phong cảnh…kí bao gồm nhiều thể như: Bút kí, hồi kí, du
kí, nhật kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút…
Kí trung đại có Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ…, kí hiện đại có Nguyễn Tn,
Vũ Bằng, Thép Mới, Hoàng Phủ Ngọc Tường…
Lâu nay trong nhà trường phổ thơng, việc học thể kí vừa cung cấp cho
học sinh hệ thống rất phong phú những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống,

vừa bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ, đồng thời rèn luyện những kỹ năng viết cần
thiết, nhất là văn biểu cảm. Việc giảng dạy kí phải đảm bảo cung cấp đầy đủ
nhất, trong khả năng có thể, những kiến thức loại hình và kỹ năng kỹ xảo cần
thiết để giúp học sinh không chỉ cảm thụ được vẻ đẹp văn học của tác phẩm kí
mà cịn có khả năng viết kí ở những u cầu tối thiểu.
Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí địi hỏi sự trung
thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tơn trọng những sự kiện xã hội
lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí miêu
tả thực tại tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học.
9

skkn


Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm,
hành động và khơng bao giờ qn miêu tả khung cảnh gợi khơng khí,
Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư tưởng, cảm thụ,
nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự cịn có những đoạn thể
hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tường minh của nhà văn trước sự việc. cái
thú vị của kí là những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc
tái hiện đối tượng.  Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật một
cách sinh động của tác giả. Kí chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những
liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc
sống. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn của thể loại kí.
Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của
cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí cịn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của
cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…)
2.3.2.3. Thể loại tuỳ bút:
Mang tính chủ quan, tự do, phóng túng, biến hố linh hoạt, giàu hình ảnh, giàu
nhạc điệu, từ ngữ phong phú, nhiều cách so sánh, liên tưởng…

Từ điển Bách khoa Liên Xô ( trước đây) cũng đã định nghĩa về Tuỳ bút:
“ Tuỳ bút là những tác phẩm mà nổi lên bình diện thứ nhất: những phẩm chất
riêng, cốt cách riêng của tác giả, giọng điệu độc đáo của riêng mình, những
người thích tự biểu hiện”.
Tuỳ bút giúp Nguyễn Tuân thăng hoa cảm xúc và tư tưởng của mình, Nguyễn
Tuân đặc biệt thành công ở thể loại này.
2.3.2.4. Đặc sắc phong cách nghệ thuật nhà vănNguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, un bác, có phong cách “ ngơng” về văn
chương, đối với ông nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, ơng có sở trường ở
thể loại tuỳ bút với một phong cách viết độc đáo, ông đã khẳng định mình bằng
một lối đi riêng trong lịng người đọc u mến. Kiểu hình tượng quen thuộc của
ơng là hình tượng người nghệ sĩ tài hoa tài tử. Ông cũng là nghệ sĩ ngơn từ bậc
thầy.
Nói đến phong cách nghệ thuật nguyễn Tuân là nói đến giá trị thẩm mĩ tài
hoa uyên bác toát lên từ những trang văn của ông, bởi vì trong thế giới tâm hồn
của nhà văn này có một cá tính sáng tạo độc đáo. Nguyễn Tuân là biểu tượng
của người nghệ sĩ tài hoa tài tử ( “ Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ
sĩ”. Tiếp xúc với những nhân vật của ông người đọc cảm nhận được thái độ lẽ
sống kiêu bạc. họ là những người có ý thức thị tài khơng chấp nhận cúi mình
trước những cái tầm thường. Trong mơ tuýp nhân vật này ta thấy nổi bật lên là
hình tượng nhân vật Huấn Cao với triết lí sống: “ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
của nhà tài tử Cao Bá qt. Có thể nói Huấn Cao là hình bóng Nguyễn Tuân, là
chân dung tinh thần của người nghệ sĩ tài hoa tài tử. Khi xây dựng nhân vật
Nguyễn Tuân có một quan niệm độc đáo về người nghệ sĩ, với ơng mọi người
đều có thể trở thành nghệ sĩ, dù ở địa vị xã hội nào, dù làm bất cứ cơng việc gì
nếu như có hành động đẹp, ví như ơng phát hiện ra người nghệ sĩ trong hành
động “ tay lái ra hoa” của người lái đò sông Đà, ông phát hiện ra người nghệ sĩ
10

skkn



trong hành động cúi mình trước cái đẹp của viên quản ngục, phát hiện ra người
nghệ sĩ trong hành động khất trà của một gã ăn mày…phải chăng mỗi nhân vật
của ơng đều mang một vẻ sáng tạo của chính tâm hồn tài hoa tài tử. Mỗi nhân
vật đó sẽ mãi cịn ám ảnh trong tâm trí người đọc, đem đến cho ta những ấn
tượng mạnh, những hương sắc lạ. Với Nguyễn Tuân, những trang văn là những
trang hoa, những trang viết đẹp về cái đẹp.
Mỗi nhà văn đều có sở trường về một phương diện nghệ thuật nào đó, với
Nguyễn Tuân sở trường của ông là tuỳ bút. Dường như trong cả cuộc đời cầm
bút sáng tạo nghệ thuật của mình, ơng chỉ chơi có một món độc tấu: tuỳ bút.
Ông đến với thể tuỳ bút như một lựa chọn tất yếu và phù hợp tuyệt đối với thế
giới tâm hồn, với cá tính sáng tạo của mình, bởi lẽ với thể tuỳ bút Nguyễn Tuân
có thể phát huy tối đa khả năng hư cấu tưởng tượng phóng túng tự do của mình,
để những trang viết đẹp về cái đẹp càng thêm đẹp. Mọi tài năng của ngòi bút của
Nguyễn Tuân đều đã được thể hiện qua hình thức thể loại này. Đó khơng chỉ là
sự tinh tế mà còn là sự uyên bác sâu sắc. Nguyễn Tuân viết tuỳ bút là để bộc lộ
phong cách nghệ sĩ tài hoa tài tử tự do phóng túng của mình. Đối với các nhà
văn tuỳ bút là thể loại dễ nhất nhưng khó hay, cịn đối với Nguyễn Tn, tuỳ bút
đã giúp ơng phát huy cao độ cá tính sáng tạo của mình, mỗi trang tuỳ bút của
ơng đều là những kiệt tác nghệ thuật. Đọc “ Tờ hoa” mới đầu ta có cảm giác kết
cấu của bài tuỳ bút này lỏng lẻo tuỳ tiện, Nguyễn Tuân kể một loạt những câu
chuyện khơng cùng một tiêu chí bên ngồi, đó là những hiện tượng khác nhau
trong tự nhiên, khoa học, văn hố, lịch sử, chính trị…trong cuộc sống. Tuy
nhiên đọc kĩ và suy ngẫm chúng ta sẽ thấy được tính chặt chẽ thống nhất giữa
các sự kiện này. Mạch ngầm văn bản xâu chuỗi và liên kết những hiện tượng
này theo nguyên tắc: cái đẹp là chân lí và chân lí là cái đẹp. Hơn thế nữa người
đọc còn cảm nhận được ở tác phẩm là tính chất tài hoa mà uyên bác của ngòi bút
Nguyễn Tuân khi kể chuyện về các hiện tượng đời sống xã hội khác nhau.
Nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân chính là việc

sáng tạo ngôn từ. Nếu như nhà văn là người nghệ sĩ ngơn từ thì Nguyễn Tn là
người nghệ sĩ ngơn từ bậc thầy, bởi vì tài năng tài hoa ở ngịi bút của ơng đều
được dùng vào việc sáng tạo ngôn từ, ngôn ngữ nghệ thuật. Nguyễn Tuân trở
thành người làm xiếc ngôn từ, người đan luyện ngôn từ. Mỗi câu mỗi chữ mỗi
dòng văn đều được Nguyễn Tuân chế tác đến độ tinh xảo. Dường như mọi kĩ
thuật viết văn của Nguyễn Tuân đều được thể hiện ở việc tìm chữ chọn câu và
diễn tả sao cho thật tài hoa tinh tế và uyên bác. Mỗi trang văn của ơng là một
cơng trình điêu khắc bằng ngơn ngữ được chạm trổ tinh vi, chính nhà văn đã
khẳng định: “ Nghề văn là nghề của chữ”. Nếu như đọc văn Nam Cao, chúng ta
thấy hiện lên hình ảnh cuộc đời chân thật sinh động qua ngôn ngữ tự nhiên thì
đọc văn Nguyễn Tuân ta lại thấy hình ảnh của những cái đẹp qua ngơn ngữ đẹp
trang nhã bóng bẩy mà nhà văn đã kì cơng sáng tạo. Ngơn ngữ nghệ thuật do
Nguyễn Tuân sáng tạo ra vừa giàu giá trị tạo hình lại vừa già giá trị biểu cảm.
Ông thường sử dụng những biện pháp tu từ nghệ thuật độc đáo như so sánh,
nhân hoá, cường điệu để miêu tả con người hoặc sự vật hiện tượng mang cái
đẹp. có những câu văn Nguyễn Tuân khiến người đọc ngỡ ngàng và thán phục
trước sự ví von liên tưởng bất ngờ của nhà văn: “ Con sông Đà tuôn dài…khói
11

skkn


núi Mèo đốt nương xuân”, “ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…thu về”, “ Bờ
sơng hoang dại…cổ tích tuổi xưa”. Ngòi bút tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân đã
miêu tả dáng điệu sắc màu trạng thái của sông Đà như một sinh thể trữ tình gợi
cảm. Bằng những biện pháp so sánh, nhân hố nhà văn vừa tượng hình sông Đà
lại vừa phác hoạ được linh hồn cái đẹp thi vị thơ mộng của thiên nhiên nơi đây,
những câu văn xi của Nguyễn đã hố thơ bởi sức gợi cảm và nhạc điệu thanh
thoát tinh tế. Một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp vừa kì diệu vừa hiện hữu vừa
mơ hồ đang dần hiện lên trước mắt người đọc.

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại bên cạnh một Nam Cao viết ra
những trang văn như là những trang đời, bên cạnh một Thạch Lam viết ra những
trang văn đẹp như những trang thơ, đã có một Nguyễn Tuân đã tạo ra cho đời
những trang văn đẹp như những trang hoa, tờ hoa. Đó là những trang viết đẹp về
cái đẹp của một ngòi bút tài hoa uyên bác. Mỗi tác phẩm của Nguyễn giống như
một toà lâu đài nghệ thuật nguy nga lộng lẫy được kiến trúc bởi bàn tay của một
người nghệ sĩ lịch lãm đầy tài năng và tâm huyết. với Nguyễn Tuân, thiên chức
của người nghệ sĩ là kiếm tìm và sáng tạo cái đẹp, là người “ dẫn đường đưa
người đọc đến với xứ sở của cái đẹp” ( Pau-tốp-xki).
2.3.2.5.Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
triển năng lực đọc hiểu bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tuân)
qua việc thiết kế giáo án và giảng dạy.
Cơ sở khoa học:
Các phương pháp, kỹ thuật dạy học mới.
Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm giảng dạy mơn Ngữ Văn.
Đặc điểm của thể loại kí, tuỳ bút Việt Nam hiện đại.
Văn bản - tác phẩm“ Người lái đị sơng Đà” ( Nguyễn Tn)
Trong bài dạy này tơi hướng đến mục tiêu cơ bản là rèn luyện kĩ năng
đọc hiểu tác phẩm tuỳ bút theo đặc trưng thể loại với tinh thần cơ bản là kết hợp
giữa cảm và hiểu để đọc hiểu tác phẩm và rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản.
Trong thiết kế, tôi đã vận dụng kết hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học một
cách linh hoạt, hợp lý từng đơn vị kiến thức với một số phương pháp, kỹ thuật
dạy học tích cực như: Vấn đáp (đàm thoại), Đặt và giải quyết vấn đề, Thảo luận
nhóm (Kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”), Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy, Động
não, Đọc sáng tạọ, Kĩ thuật “Trình bày một phút”… Mọi hoạt động đều hướng
đến mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Do đối tượng dạy
học là học sinh lớp 12, các em đã được cung cấp tương đối đầy đủ các tri thức,
công cụ cần thiết để đọc hiểu một văn bản nên việc giảng dạy chủ yếu là gợi dẫn
để các em tự đọc hiểu tác phẩm và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản.
Hệ thống câu hỏi gợi dẫn sẽ hướng đến các nội dung cơ bản sau: - Nội dung tri

thức về đối tượng sơng Đà và Người lái đị sơng Đà trong tác phẩm.
Năng lực cảm thụ nghệ thuật, bồi dưỡng tâm hồn để các em biết rung động
trước vẻ đẹp cuộc sống.
Tiếp cận tác phẩm tuỳ bút đúng đặc trưng thể loại, phong cách tác giả vào việc
đọc hiểu văn bản.
12

skkn


PHẦN THIẾT KẾ GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY VĂN BẢN: PHỤ LỤC
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kiểm nghiệm thực tế.
 Phương pháp kiểm nghiệm:
Kiểm nghiệm:
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy học, tôi chọn
học sinh 2 lớp 12 tương đương của trường THPT Triệu Sơn 3, các lớp này tương
đương về sĩ số, nề nếp, đặc biệt là năng lực và ý thức học tập đối với môn Ngữ
Văn.
- Lớp đối chứng: 12E7 ( Năm học 2019- 2020).
- Lớp thực nghiệm: 12E36 ( Năm học 2021 - 2022).
Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi đã sử dụng phiếu điều tra về hứng thú
học tập của học sinh và đề kiểm tra cuối học kỳ I, đầu kì II sau khi dạy học tuỳ
bút “ Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn.
Đối với lớp đối chứng (Năm học 2019-2020).
Bảng 1: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn–
Phần tuỳ bút của các lớp qua kết quả khảo sát cuối học kì I (Khi chưa sử dụng
một số biện pháp dạy học tích cực để dạy bài tuỳ bút). Kết quả như sau:
Lớp


Sĩ số

12 E7

42

Rất thích
SL
%
6
14,2

Mức độ hứng thú
Bình thường
Khơng thích
SL
%
SL
%
18
42,9
18
42,9

Đối với lớp thực nghiệm (Năm học 2021-2022)
Bảng 2:  Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn – bài
tuỳ bút của các lớp qua kết quả bài khảo sát đầu học kỳ 2 (Khi đã sử dụng một
số biện pháp dạy học tích cực để dạy bài tuỳ bút ). Kết quả như sau:
Mức độ hứng thú

Lớp
Sĩ số Rất thích
Bình thường Khơng thích
SL
%
SL
%
SL
%
12 E36 42
16
38,0
21
50,1
5
11,9
Bảng 3. Kết quả học tập của học sinh cuối năm học.
Đối với lớp đối chứng (Năm học 2019-2020)
Lớp
12 E7


số
42

Kém
SL
%
0
0


Yếu
SL
%
5
11.9

Kết quả
Trung bình
Khá
SL
%
SL
%
22
52.3 14
33.3

Giỏi
SL
%
1
2.3
13

skkn


Đối với lớp thực nghiệm (Năm học 2021-2022)
Lớp

12
E36


số
42

Kém
SL
%
0
0

Yếu
SL
%
0
0

Kết quả
Trung bình
Khá
SL
%
SL
%
1
2.3 16
38.2


Giỏi
SL
%
24
57.5

So sánh các bảng thống kê, cho thấy: số lượng học sinh rất hứng thú với
các bài học vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng
lực đọc hiểu bài tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân ở lớp 12
cuối năm tăng lên một cách đáng kể so với điều tra ở cuối học kì I, ở đầu học kỳ
2. Ở Bảng 1 và Bảng 2 tăng từ 14,2 % lên 38,0 %. Số học sinh khơng thích giảm
từ 42,9% xuống cịn 11,9%.
Bảng 3: Kết quả học tập năm 2019-2020 so với 2021-2022: Tỉ lệ học sinh
đạt loại giỏi tăng từ 2,3% lên 57,5%; loại Khá tăng từ 33,3% lên 38,2%; Loại
Yếu - kém giảm xuống rõ rệt từ 11,9% xuống 0%.
Như vậy có thể khẳng định rằng việc vận dụng một số biện pháp dạy học
tích cực nhằm phát triển năng lực đọc hiểu bài tuỳ bút “ Người lái đị sơng Đà”
của Nguyễn Tuân cho học sinh lớp 12 là một việc làm hiệu quả, nhằm nâng cao
chất lượng học tập bộ môn văn cho học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận đã từng chỉ đạo: “ Đổi mới
căn bản nền giáo dục trước hết phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệm, dạy tốt, học tốt, khơi dậy tiềm
năng, trí sáng tạo của học sinh, tránh chạy theo bệnh thành tích…”.
Những năm gần đây, tổ Văn nói riêng và trường THPT Triệu Sơn 3 của
chúng tơi nói chung, đã gặt hái được khơng ít những thành cơng trong việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Có được điều đó là nhờ vào sự phấn đấu nỗ lực
không ngừng của Ban giám hiệu, của cả thầy và trò, đặc biệt là hệ quả của việc
tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục hiện nay ở nhà trường. Với

một vài kinh nghiệm nhỏ tơi cũng đã có được hiệu quả bước đầu trong công tác
giảng dạy khi “ Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
triển năng lực đọc hiểu bài tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” ( Nguyễn Tuân)
cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông”.
Ở phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn giải bày, trao đổi với đồng nghiệp
những gì mình đã làm được trong việc vận dụng phương pháp kỹ thuật đổi mới
dạy học môn Ngữ văn của bản thân những năm qua.
Trong thời gian tới tôi vẫn sẽ luôn cố gắng hết sức mình, chủ động, sáng
tạo và thường xun vận dụng những kinh nghiệm mà mình đã có để góp phần
làm dày thêm thành tích dạy và học của trường THPT Triệu Sơn 3, tiếp tục giữ
vững thương hiệu của nhà trường, thỏa lòng tin tưởng của học sinh và nhân dân
trong vùng.
14

skkn


Do hạn chế về năng lực, thời gian và kinh nghiệm nên bài viết này sẽ
không tránh khỏi những hạn chế, vì thế tơi rất mong được sự thơng cảm, chia sẻ
và góp ý chân thành từ phía đồng nghiệp để công việc đổi mới phương pháp dạy
học Ngữ văn trong nhà trường thêm hiệu quả.
3.2. Kiến nghị.
Đối với giáo viên, phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, nhất là về
phương pháp dạy học tích cực để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, nâng
cao hiệu quả dạy học.
Đối với tổ chuyên môn, tăng cường sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học; tổ chức các buổi sinh hoạt theo chuyên đề dành cho tác phẩm hay
và khó như “ Người lái đị sơng Đà”của Nguyễn Tn.
Đối với các cấp lãnh đạo, cần quan tâm, động viên nhiều hơn nữa tới
những người trực tiếp đứng lớp giảng dạy. Cần đầu tư thêm trang thiết bị, sách

báo tài liệu chun mơn để giáo viên có thêm thiết bị và tri thức thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy theo yêu cầu không ngừng đổi mới của ngành giáo dục, của
xã hội và thời đại.

1.
2.
3.
4.
5.
6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
SGK Ngữ văn 12, tập 1.
SGV Ngữ văn 12, tập 1.
Tài liệu tập huấn giáo viên.
Các bài giảng về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực.
( Tiến sĩ Nguyễn Phương Nga, viện chiến lược giáo dục).
Bài viết: Dạy học môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực.
( Phỏng vấn Phó giáo sư - Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống)
Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số 11, 12 năm 2014.

XÁC NHẬN

Thanh Hóa, ngày 1 tháng 6 năm 2022

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TÔI CAM ĐOAN KHƠNG COPY.

Người viết


Hồng Thị Dân

15

skkn


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: HOÀNG THỊ DÂN
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Tổ phó chun mơn.
Trường Trung học phổ thông Triệu Sơn 3.

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,

hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

1

« Hiệu quả của việc khai
thác yếu tố nhịp điệu trong
thơ ca »

Ngành GD cấp
tỉnh.

C

2008 2009

2

« Một vài kinh nghiệm
trong việc phát hiện, lựa
chọn và bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Văn ở trường
THPT »

Ngành GD cấp
tỉnh.


C

2012 2003

3

«  Vận dụng một số phương
pháp dạy học tích cực nhằm
phát triển năng lực đọc hiểu
truyện ngắn hiện đại cho
học sinh lớp 12 - THPT »

Ngành GD cấp
tỉnh.

B

20152006

C

20192020

4

“ Vận dụng một số phương
pháp dạy học tích cực nhằm
phát triển năng lực đọc hiểu Ngành GD cấp
bài kí “ Ai đã đặt tên cho tỉnh.
dịng sơng?” ( Hồng Phủ

Ngọc Tường) cho học sinh
lớp 12 trung học phổ
thông”.

-------------------------------------------------------

16

skkn


PHẦN PHỤ LỤC.
PHẦN THIẾT KẾ GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY VĂN BẢN:
TIẾT 38,39,40,41: ĐỌC VĂN.
NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ (Nguyễn Tuân )
I. Mức độ cần đạt
1. Kiến thức :
a/ Nhận biết: HS nhận biết, nhớ được tên tác giả và hoàn cảnh ra đời của
các tác phẩm.
b/ Thông hiểu: HS hiểu và lí giải được hoàn cảnh sáng tác có tác động và
chi phối như thế nào tới nội dung tư tưởng của tác phẩm.
c/Vận dụng thấp:Khái quát được đặc điểm phong cách tác giả từ tác
phẩm.
d/Vận dụng cao:
- Vận dụng hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để phân
tích giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm kí.
2. Kĩ năng :
a/ Biết làm: bài nghị luận về một đoạn trích văn xi, về 1 ý kiến bàn về
văn học;
b/ Thông thạo: các bước làm bài nghị luận

3.Thái độ :
a/ Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản tuỳ bút
b/ Hình thành tính cách: tự tin , sáng tạo khi tìm hiểu văn bản tuỳ bút
c/Hình thành nhân cách:
- Biết nhận thức được ý nghĩa của kí hiện đại Việt Nam trong lích sử văn
học dân tộc
- Biết trân quý những giá trị văn hóa truyền thống mà kí hiện đại đem lại
- Có ý thức tìm tịi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong kí hiện đại Việt
Nam .
II. Trọng tâm
1. Kiến thức
- Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích tác phẩm
kí Người lái đị Sơng Đà - Nguyễn Tuân,
- Hiểu một số đặc điểm và sự đóng góp của thể loại kí Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX.
2. Kĩ năng
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng
thê loại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn
học.

17

skkn


- Nhận ra được đề tài, chủ đề, cảm hứng thẩm mĩ, vẻ đẹp hình tượng, các
biện pháp nghệ thuật của các trích đoạn kí.
3. Thái độ
- Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên và ca ngợi người lao động.

- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước
4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kí văn học.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu, hạn chế, những
đặc điểm cơ bản, giá trị của những tác phẩm kí văn học .
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của các thể loại tuỳ bút-bút kí-hồi

- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
III. Chuẩn bị
1/Thầy
- Giáo án
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
- Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, phim về Sơng Đà, ;
- Bảng phân cơng nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà
2/Trò
- Đọc trước ngữ liệu trong SGK để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài
- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do giáo viên giao từ tiết
trước)
- Đồ dùng học tập
IV. Tổ chức dạy và học.
1. Ổn định tổ chức lớp:
- Kiểm tra sĩ số, trật tự, nội vụ của lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Trình bày nội dung phong cách nghệ thuật của Hồ
Chí Minh- Tố Hữu?
3. Tổ chức dạy và học bài mới:
1. KHỞI ĐỘNG
Hoạt động của Thầy và trò

- GV giao nhiệm vụ: GV hướng dẫn học
sinh tìm hiểu về HCM bằng cách cho HS:
- Xem chân dung Nguyễn
Tuân
- Xem một đoạn video về
Sông Đà
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:

Yêu cầu cần đạt
- Nhận thức được nhiệm vụ
cần giải quyết của bài học.
- Tập trung cao và hợp tác tốt
để giải quyết nhiệm vụ.
- Có thái độ tích cực, hứng thú.
18

skkn


Từ đó, giáo viên giới thiệu Vào bài: Có một
nhà văn từng quan niệm: Văn chương trước
hết phải là phải là văn chương, nghệ thuật
trước hết phải là nghệ thuật. Và đã là nghệ
thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhà
văn ấy chính là Nguyễn Tn. Tiết học hơm
nay chúng ta sẽ được tiếp xúc với tác giả
này qua tùy bút Người lái đị sơng Đà.
2. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của thầy và trò


Yêu cầu cần đạt

Họat động: TÌM HIỂU CHUNG.
* Thao tác 1 :
Hướng dẫn HS tìm hiểu chung
về tác giả và tác phẩm
- GV tổ chức cho HS nhớ lại và
trình bày những nét cơ bản về tác
giả NT (đã được học ở CTNV
11)
- Gọi 1 HS đọc phần TD.
- Cho biết thể loại và xuất xứ tác
phẩm?
- Người lái đị sơng Đà được
sáng tác trong hồn cảnh nào?
HS Tái hiện kiến thức và trình
bày.
- Nguyễn Tn( 1910-1987) là
người trí thức, giàu lịng u
nước và tinh thần dân tộc
- Ông là nhà văn tài hoa và un
bác
-Nguyễn Tn là người có cá
tính mạnh mẽ và phóng khống.
Với cá tính của mình, ơng tìm
đến thể tuỳ bút như một thể tất
yếu.
*GV Tích hợp kiến thức Địa lí,
Lịch sử Việt Nam những năm

60 hướng dẫn học sinh tìm hiểu
tên gọi Sơng Đà và hồn cảnh
ra đời tuỳ bút của Nguyễn Tn
Tích hợp kiến thức địa lí:

I/ Tìm hiểu chung:
1. Tác giả NT: (Xem lại phần TD bài Chữ
người tử tù, SGK Ngữ văn 11, tập I, tr
107).
2. Tuỳ bút “Sơng Đà”
a. Hồn cảnh sáng tác: ra đời năm 1960,
gồm 15 tuỳ bút, là kết quả chuyến đi thực
tế của tác giả năm 1958 ở vùng Tây Bắc.
b. Xuất xứ: Bài tùy bút được in trong tập
Sông Đà (1960).
c. Thể loại Tuỳ bút:
- Tuỳ bút thuộc thể kí
-Thể hiện tính chủ quan, chất trữ tình rất
đậm. Nhân vật chính là cái tơi của nhà văn;
-Ngơn ngữ giàu hình ảnh và chất thơ.

19

skkn


- Sơng Đà (cịn gọi là sơng
Bờ hay Đà
Giang)
là phụ

lưu lớn nhất của sơng Hồng.
Sơng bắt nguồn từ tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc chảy theo
hướng tây bắc - đông nam để rồi
nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.

d. Nội dung:
- Phông cảnh Tây Bắc vừa hung bạo hùng
vĩ, vừa thơ mộng trữ tình.
- Con người Tây Bắc dũng cảm, cần cù.

Tích hợp kiến thức lịch sử:
- Năm 1960 là thời kì miền Bắc
xây dựng CNXH. Vì thế, nhà
văn rất quan tâm đến người lao
động
*GV Tích hợp kiến thức Lí luận
văn học hướng dẫn học sinh
tìm hiểu đặc điểm thể loại tuỳ
bút của Nguyễn Tn
- Tuỳ bút là gì?
Tích hợp kiến thức Lí luận văn
học: Tuỳ bút
- Vừa giàu tư liệu thực tế
- Vừa mang tính chủ quan, tự do,
phóng túng, biến hố linh hoạt,
giàu hình ảnh, nhạc điệu, từ ngữ
phong phú, nhiều cách so sánh
liên tưởng…
- Thể loại giúp Nguyễn Tuân

thăng hoa cảm xúc và tư tưởng
của mình.
Họat động 2: ĐỌC HIỂU VĂN
BẢN – HÌNH TƯỢNG CON II/ Đọc - hiểu văn bản:
SÔNG ĐÀ.
A. Nội dung:
* Thao tác 1 :
1. Hình tượng con sơng Đà:
Hướng dẫn HS đọc - hiểu văn
bản
-Gv hướng dẫn HS cần đọc kĩ,
vừa đọc vừa suy ngẫm và cảm
nhận mạch văn, giọng điệu, ngơn
ngữ cực kì biến hoá của Nguyễn
Tuân
- Sau khâu đọc, GV gọi 1 vài HS
phát biểu cảm nhận chung về các
20

skkn



×