Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn xây dựng câu hỏi trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn vợ nhặt(kim lân) ở trường thpt tống duy tân theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.54 KB, 22 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn - một vấn đề tuy đã được nói
đến nhiều, song chưa bao giờ hết tính thời sự. Nhất là hiện nay, khi những thông
tin về việc dạy học, thi cử môn Văn không còn xa lạ, và khi bộ Sách giáo khoa
Ngữ văn mới chuẩn bị được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Phương pháp
dạy học lấy người thầy làm trung tâm đã dẫn đến kiểu học thụ động thiên về ghi
nhớ, ít chịu suy nghĩ, từ đó hạn chế đến chất lượng và hiệu quả dạy học không
đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng đó thì cần phát triển
năng lực của học sinh thơng qua q trình dạy học tích cực dưới sự chỉ đạo, tổ
chức của người giáo viên.
Trong xu thế đổi mới chung của ngành giáo dục, mơn Ngữ văn với vai trị
là môn trọng tâm đã thực hiện nhiều đổi mới theo hướng hình thành và phát
triển năng lực. Giảng dạy đọc hiểu Ngữ văn khơng chỉ là cảm nhận tác phẩm,
tìm ra cái hay cái đẹp của tác phẩm... mà còn qua quá trình đúc rút những kinh
nghiệm cho bản thân, những kĩ năng xử lí tình huống, những bài học ứng xử ...
Những cách dạy học truyền thống chủ yếu thiên về kiến thức, thụ động đang dần
được thay thế bằng những phương pháp dạy học mới tích cực hơn, hướng đến
phát triển năng lực cho học sinh.
Trong dạy học Ngữ văn, câu hỏi được coi như một công cụ học tập tích
cực. Câu hỏi là phương tiện để giáo viên giao nhiệm vụ, tổ chức các hoạt động
học tập cho học sinh; kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả học tập của học
sinh; góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và hình thành năng lực ở người
học. Mặc dù có vai trị quan trọng như vậy nhưng hiện nay, hầu như các câu hỏi
trong dạy học đọc hiểu văn bản nói chung, dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn 1945 - 1975 trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 nói riêng chưa
thực sự hướng dẫn học sinh đọc theo thể loại; chưa có những câu hỏi yêu cầu
học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết các tình
huống trong học tập và trong cuộc sống,... Đặc biệt, những câu hỏi này chưa
thống nhất theo một mơ hình nhất định. Điều này dẫn đến tình trạng cùng một
1



skkn


thể loại, thậm chí cùng là tác phẩm của một tác giả, nhưng với mỗi văn bản,
Sách giáo khoa lại hướng dẫn học sinh đọc hiểu theo một cách khác nhau. Học
sinh đọc tác phẩm nào biết tác phẩm đó; học sinh lúng túng khi đọc văn bản mới
(khơng có trong SGK) - mặc dù đó là văn bản cùng thể loại, cùng tác giả; Học
sinh không vận dụng được nhiều kiến thức, kĩ năng vào giải quyết các tình
huống trong học tập và thực tiễn nhờ kết quả đọc hiểu,… Cũng vì thế, học sinh
khó có thể hình thành được năng lực đọc hiểu văn bản.
Xuất phát từ lí do trên, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Xây dựng
câu hỏi trong dạy học đọc - hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt”(Kim Lân) ở trường
THPT Tống Duy Tân theo định hướng phát triển năng lực” với hi vọng cùng
chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, đồng thời để cùng nhau vận dụng vào thực
tiễn dạy học để nâng cao chất lượng mơn Ngữ văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, đề xuất biện pháp xây dựng câu hỏi trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt”(Kim Lân) nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu về hệ thống câu hỏi trong dạy học
đọc - hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt”(Kim Lân) ở trường THPT Tống Duy Tân theo
định hướng phát triển năng lực.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê - phân loại.
- Phương pháp thực nghiệm - đối chứng.

1.5. Những điểm mới của SKKN
- Đề tài góp phần định hướng cần thiết về phương pháp trong việc thiết kế
các câu hỏi để hướng dẫn học sinh đọc hiểu các tác phẩm một cách chủ động,
2

skkn


tích cực, sáng tạo; nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông.
- Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên, học sinh và những
người quan tâm đến dạy học văn bản “Vợ nhặt” nói riêng, truyện ngắn 1945 1975 nói chung và đánh giá được năng lực đọc hiểu của học sinh, từng bước
nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản.

3

skkn


II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1. Câu hỏi trong dạy học
* Khái niệm:
Hỏi là nêu ra điều mình muốn người khác trả lời để mình biết về vấn đề nào
đó. Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ logic. Ơng cho
rằng: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa
biết. Câu hỏi đó là những bài làm mà khi hoàn thành chúng học sinh phải tiến
hành hoạt động tái hiện, bất luận là trả lời miệng, trả lời viết hoặc có kèm theo
thực hành hoặc xác minh bằng thực nghiệm”.
Khái niệm câu hỏi còn được diễn đạt dưới dạng khác như: câu hỏi là dạng

cấu trúc ngơn ngữ, diễn đạt một u cầu, một địi hỏi, một mệnh lệnh cần được
giải quyết.
Câu hỏi thuộc phạm trù khả năng; nó chứa đựng cả hai yếu tố, sự có mặt
của cái khơng rõ và nguyện vọng, nhu cầu của người muốn hỏi.
Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng về dấu hiệu bản chất của câu hỏi
đều được các tác giả nêu ra, đó là: xuất hiện điều chưa rõ, cần được giải quyết từ
điều đã biết. Trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa học, con người chỉ
nêu ra thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần biết thêm. Nếu
khi không biết gì hoặc biết tất cả về sự vật đó, thì khơng có gì để hỏi về sự vật
đó nữa. Sự tương quan giữa cái biết và cái chưa biết thúc đẩy việc mở rộng hiểu
biết của con người.
Trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học Ngữ văn nói riêng, câu
hỏi được đặt ra khi người dạy muốn “tạo tình huống có vấn đề”, địi hỏi học sinh
phải suy nghĩ trả lời nhằm thu được kiến thức và đạt được những yêu cầu về kĩ
năng và thái độ cụ thể cho từng bài học. Câu hỏi được đặt ra là cách thức để
thực hiện sự giao tiếp và cốt yếu là để khêu gợi, thúc đẩy sự giao tiếp nhằm đạt
đến mục đích cuối cùng của bài học. Câu hỏi chứa trong mình những nội dung
khác nhau để học hỏi, để truyền đạt và kiểm tra tích lũy kiến thức cho học sinh.
Mục đích nêu câu hỏi trong dạy học là để:
4

skkn


+ Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh ở nhà.
+ Thực hiện việc giảng bài.
+ Luyện tập và thực hành.
+ Tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập.
+ Khích lệ, kích thích suy nghĩ.
+ Đánh giá trình độ của học sinh.

Về bản chất, theo GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng thì “câu hỏi trong nhà
trường là hình thức phổ biến và hết sức cơ bản để bày tỏ quan hệ tin cậy và tôn
trọng học sinh ở người giáo viên”. Thực chất nêu câu hỏi là vận dụng phương
pháp đối thoại trong dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
* Vai trò của câu hỏi trong dạy học
Lí luận giáo dục hiện đại nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là
người tham gia chủ động, trực tiếp vào quá trình dạy học để tìm kiếm kiến thức
và lĩnh hội kĩ năng dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhưng để người học có thể
phát huy tối đa vai trị của mình thì các nhà giáo dục phải xây dựng được một
môi trường giáo dục giúp học sinh có thể phát huy năng lực tư duy ở mức tối đa.
Môi trường ấy sẽ được xây dựng bằng các hoạt động tương tác giữa giáo viên
với học sinh và giữa học sinh với nhau mà hệ thống câu hỏi là cơng cụ quan
trọng để “kích hoạt” và dẫn dắt những hoạt động tương tác đó. Việc sử dụng câu
hỏi trong những tình huống dạy học nhất định sẽ đòi hỏi học sinh phải vận dụng
các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, phán đoán, suy luận, phán đoán và
giải quyết vấn đề. Qua quá trình giải quyết vấn đề, học sinh vừa lĩnh hội kiến
thức, hình thành kĩ năng và rèn tư duy.
Câu hỏi là phương tiện dùng trong dạy học, là nguồn để hình thành kiến
thức, kĩ năng cho học sinh. Khi tìm được câu trả lời là người học đã tìm ra được
kiến thức mới, rèn được kĩ năng xác định mối quan hệ, đồng thời sử dụng được
những điều kiện đã cho. Như vậy là vừa củng cố kiến thức, vừa nắm vững và
mở rộng kiến thức. Câu hỏi là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy. Khi
trả lời câu hỏi học sinh phải phân tích, xác định mối quan hệ, so sánh, đối chiếu
những điều đã cho và những điều cần tìm, địi hỏi phải suy nghĩ logic. Học sinh
5

skkn


phải ln ln suy nghĩ, do đó, tư duy được phát triển. Cũng qua việc tìm câu trả

lời mà lơi cuốn, thu hút học sinh vào nhiệm vụ nhận thức. Câu hỏi phát huy
năng lực tự học, nếu được giáo viên sử dụng thành cơng cịn có tác dụng gây
được hứng thú nhận thức khát vọng tìm tịi dựa trên năng lực tự học của học
sinh. Ngồi ra nó cho phép giáo viên thu được thông tin ngược về chất lượng
lĩnh hội kiến thức của học sinh. Những thông tin này giúp giáo viên điều chỉnh
quá trình dạy học một cách linh hoạt.
Vì câu hỏi có vai trị quan trọng như vậy cho nên có thể nói chất lượng
cũng như khả năng thành công của một bài học và một giờ dạy sẽ được quyết
định chủ yếu qua hệ thống câu hỏi. Bài học ấy, giờ học ấy đã thực sự phát huy
được tính tích cực của người học hay chưa? Mục đích của bài học ấy, giờ học ấy
có hướng đến phát triển năng lực hay không là do hệ thống câu hỏi quyết định.
* Mục đích, yêu cầu của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học
đọc hiểu văn bản
- Mục đích:
Một là, việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học đọc hiểu văn bản
nhằm hình thành khung câu hỏi nịng cốt bao qt nội dung và phương pháp dạy
học đọc hiểu văn bản.
Hai là, việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học đọc hiểu văn bản
chứng minh tính ưu việt và hiệu quả của phương pháp dạy học đàm thoại, vấn
đáp – một phương pháp dạy học quan trọng trong dạy học đọc hiểu văn bản.
Ba là, việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học đọc hiểu văn bản góp
phần định hướng đổi mới kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh.
- Yêu cầu:
Khi xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt
Nam, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về câu hỏi trong dạy học Ngữ văn nói
chung, cần phải dựa trên các nguyên tắc:
- Bám sát mục tiêu dạy học đọc hiểu theo định hướng phát triển năng lực.
- Bám sát đặc trưng thể loại.
- Đáp ứng yêu cầu của dạy học tích hợp trong mơn Ngữ văn.
6


skkn


- Đáp ứng yêu cầu sử dụng các phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại.
2.1.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
* Khái niệm năng lực
Về nguồn gốc, khái niệm năng lực (Tiếng Anh: Competency) bắt nguồn
từ tiếng La tinh “competencia”. Trên thế giới và tại Việt Nam, có rất nhiều các
quan điểm về năng lực. Nhưng tựu chung lại, năng lực có thể được hiểu một
cách đơn giản là khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, gắn với một loại hoạt
động cụ thể nào đó. Năng lực là một yếu tố cơ bản của nhân cách nên mang dấu
ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong hành động và được hình thành theo quy
luật hình thành và phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao
lưu của cá nhân đóng vai trị quyết định.
* Dạy học theo định hướng phát triển năng lực:
Phát triển năng lực là phát triển những khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt
ra, phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao lưu của cá nhân
đóng vai trị quyết định. Phát triển sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh
nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển khả năng thực hiện
thành công hoạt động trong bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các
kiến thức, kỹ năng và phát triển các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm
tin, ý chí… Phát triển các năng lực chung cũng như năng lực đặc thù của học
sinh.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực là mơ hình dạy học hướng tới
mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách
thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới
sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Trong mô hình này, người
học có thể thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình. Điều
đó có nghĩa là người học phải chứng minh mức độ nắm vững và làm chủ các

kiến thức và kỹ năng (được gọi là năng lực); huy động tổng hợp mọi nguồn lực
(kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, hứng thú, niềm tin, ý chí,…) trong một mơn
học hay bối cảnh nhất định, theo tốc độ của riêng mình. 
* Ý nghĩa của dạy học theo định hướng phát triển năng lực:
7

skkn


- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp đảm bảo chất lượng
đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển các phẩm chất nhân cách
và năng lực của học sinh một cách toàn diện.
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực chú trọng năng lực vận
dụng kiến thức của bài học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn từ đó
giúp học sinh áp dụng được những gì đã học vào thực tế cuộc sống.  Điều này
giúp người học có năng lực giải quyết các vấn đề cuộc sống và nghề nghiệp
cũng như giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống.
- Dạy học theo hướng phát triển năng lực tạo ra những giờ học thú vị, sôi
động và cuốn hút học sinh vào các hoạt động tìm tịi, khám phá kiến thức.Từ đó
phát triển các kỹ năng học tập của học sinh một cách toàn diện để giải quyết vấn
đề, tự học và hợp tác cùng tư duy sáng tạo.
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp cách giờ giảng dạy trở
nên hiệu quả hơn, giáo viên đáp ứng được nhu cầu học của từng học sinh và
đảm bảo mọi học sinh đề tận dụng giờ học một cách tối đa.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Khảo sát sách giáo khoa, sách giáo viên, và một số giáo án của giáo
viên giảng dạy Ngữ văn 12 về việc xây dựng hệ thống câu hỏi dạy học đọc
hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” cuả nhà văn Kim Lân
* Đối với cấu trúc sách giáo khoa:
Theo cấu trúc sách giáo khoa, ở cuối mỗi phần văn bản đều có một hệ

thống các câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh trong quá trình học sinh đọc hiểu và
chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể, tác phẩm “Vợ nhặt” có 6 câu hỏi:
1. Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Nêu ý chính
của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào?
2. Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy anh Tràng đi cùng với
một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của dân làng, của bà cụ Tứ, và của
chính Tràng nữa cho thấy tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc
đáo như thế nào? Tình huống truyện đó có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa
của tác phẩm?
8

skkn


3. Dựa vào nội dung truyện, giải thích nhan đề “Vợ nhặt”. Qua hiện tượng
“nhặt được vợ” của Tràng, anh (chị) hiểu gì về tình cảnh và thân phận của
người nơng dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945?
4. Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện
niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng (lúc quyết định lấy vợ, khi
dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ)?
5. Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Qua đó, anh (chị) hiểu gì
về tấm lịng của bà mẹ nơng dân này?
6. Tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân: cách kể truyện hấp dẫn,
cách dựng cảnh gây ấn tượng với nhiều chi tiết đặc sắc, đối thoại sinh động,
miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sử dụng ngơn ngữ nơng thôn nhuần nhị, tự nhiên.
Quan sát hệ thống câu hỏi ở trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy số lượng các
câu hỏi chủ yếu là câu hỏi phân tích, nhận xét, đánh giá. Số lượng các câu hỏi
khuyến khích khả năng sáng tạo của học sinh là chưa nhiều. Đặc biệt chưa có
những câu hỏi mở, câu hỏi ứng dụng và liên hệ. Như vậy có nghĩa là sự suy nghĩ
và thể hiện chính kiến của học sinh về một vấn đề nào đó trong tác phẩm là rất

mờ nhạt. Thêm nữa, các câu hỏi này chưa tạo thành hệ thống. Vì thế cũng phần
nào cho thấy thực trạng của giờ dạy học Văn còn nặng về kiến thức mà chưa
thấy được vai trị chủ động, tích cực tìm hiểu của học sinh thơng qua việc thể
hiện chính kiến của mình.
* Đối với sách giáo viên
Qua quá trình nghiên cứu và thực dạy, tôi nhận thấy: Hầu hết phần gợi ý
giảng dạy đều theo cấu trúc:
A. Mục tiêu bài học: nhằm định hướng cho giáo viên những mục tiêu chính,
cụ thê về mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ cần hướng tới cho học sinh thơng qua
q trình đọc hiểu văn bản.
B. Những điều cần lưu ý: nhằm cung cấp thêm những kiến thức quan trọng
có liên quan đến văn bản để giáo viên tham khảo.
C. Phương pháp và tiến trình tổ chức dạy học: nhằm gợi ý cho giáo viên một
số cách thức hoạt động dạy học.
9

skkn


Có thể thấy sách giáo viên định hướng khá cụ thể và rõ ràng, chi tiết cho
giáo viên hoạt động dạy học trên lớp. Tuy nhiên, phần định hướng nội dung
chính mới chỉ dừng lại chỗ giáo viên giúp học sinh giải quyết các câu hỏi trong
phần “Hướng dẫn học bài” và soạn bài ở cuối mỗi văn bản. Phần này có thể coi
là khá nặng nhưng vẫn chưa phát huy được hết năng lực sáng tạo của học sinh.
Hệ thống câu hỏi mở chưa được chú trọng, hay thậm chí vẫn chưa giúp cho giáo
viên có thể có cách xây dựng một hệ thống câu hỏi bao quát được nội dung bài
học và có những câu hỏi hướng được vào suy nghĩ, quan điểm của cá nhân học
sinh. Và như vậy, sự truyền tải kiến thức của giáo viên vẫn chiếm nhiều thời
gian.
* Đối với một số giáo án của giáo viên giảng dạy Ngữ văn 12

Qua tìm hiểu và từ thực tế giảng dạy phần đọc hiểu văn bản (thể loại
truyện ngắn), bản thân người viết cũng được dự giờ các tiết dạy của đồng
nghiệp, và kể cả giáo án những năm trước đây của cá nhân, thì khi khai thác văn
bản, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc xây dựng một hệ thống câu hỏi
giúp học sinh khai thác nội dung, kiến thức câu hỏi một cách hiệu quả, đúng yêu
cầu thể loại. Cụ thể là:
Câu hỏi còn vụn vặt, rời rạc: Để giúp cho học sinh đọc hiểu văn bản, câu
hỏi cần có tính hệ thống. Theo đó, các câu hỏi được thiết kế xoay quanh nội
dung cơ bản của văn bản, nhằm giúp cho học sinh nắm được những nội dung ấy.
Vì vậy, các câu hỏi vụn vặt, rời rạc thường chỉ giúp cho học sinh hiểu được
những khía cạnh nhỏ, tương đối đơn giản của vấn đề nên học sinh khó có thể hệ
thống, khái quát được nội dung xuyên suốt toàn bài.
Câu hỏi còn chưa tạo thành hệ thống, chưa đi hết vấn đề: thường thì
những câu hỏi vụn vặt là những câu hỏi chưa đi hết được vấn đề. Tuy nhiên,
không phải cứ có vài ba câu hỏi trở lên là đã đảm bảo các nguyên tác trong việc
xây dựng các câu hỏi đọc hiểu. Câu hỏi khơng những phải có tính hệ thống mà
cịn phải giải quyết trọng vẹn một vấn đề của bài học. Nhưng có lẽ do sự gị bó
về thời gian trong 45 phút hoặc do thói quen của một số giáo viên chỉ hỏi học
sinh một số câu hỏi xoay xung quanh những chi tiết gắn với nội dung chính
10

skkn


nhưng khi học sinh đã trả lời đến mấu chốt nhất của vấn đề, thay vì cần gợi cho
các em tự chốt lại thì giáo viên lại diễn giảng. Điều này gây cảm giác giáo viên
chỉ dùng học sinh như người hỗ trợ giúp mình khai thác vấn đề, chỉ cần đạt được
đúng như nội dung đã định sẵn trong giáo án là giáo viên dừng lại. Vì vậy, hiệu
quả của câu hỏi chưa cao mà giờ dạy vẫn mang tính áp đặt.
Câu hỏi chủ yếu chỉ tập trung khai thác một văn bản cụ thể. Giáo viên chưa

chú ý đến việc hướng dẫn học sinh có kĩ năng đọc hiểu văn bản, thể loại tác
phẩm. Thực tế giảng dạy, nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc khai thác cái
hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của văn bản đang dạy mà ít chú ý đến
việc tìm hiểu đặc trưng thể loại, đặc biệt là thiếu những câu hỏi định hướng giúp
học sinh rút ra cách thức tìm hiểu, tiếp cận kiểu văn bản, thể loại tác phẩm tương
tự.
Nhiều câu hỏi mang tính tái hiện, ít có câu hỏi mở. Trong hệ thống câu hỏi
đọc hiểu, không phải không cần những câu hỏi tái hiện. Tuy nhiên, loại câu hỏi
này khá dễ, không phát huy được năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Loại
câu hỏi này chỉ đóng vai trịng là bước đệm, tạo tiền đề cho việc trả lời các câu
hỏi mở.
Hiện nay, một số giáo viên đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp
giảng dạy. Tuy nhiên, do câu hỏi khơng có tính hệ thống và khơng có sự chuẩn
bị, tìm tịi kĩ của học sinh nên học sinh thường bị động, lúng túng trong các câu
trả lời.
2.2.2. Thực trạng của việc dạy học đọc hiểu văn bản ở trường THPT Tống
Duy Tân
Ở trường THPT Tống Duy Tân, hàng năm tuyển sinh chất lượng đầu vào
của học sinh thấp. Hầu hết các em còn rất thụ động, ý thức tự học còn hạn
chế. Học sinh chưa xác định được sự cần thiết của môn học. Các em không
có thói quen đọc sách nghiên cứu, không quan tâm đến việc tìm đọc các tác
phẩm văn học, chỉ đọc đoạn trích ở sách giáo khoa. Vì vậy, việc giảng dạy của
giáo viên khi áp dụng những phương pháp mới cịn gặp nhiều khó khăn để đem
lại hiệu quả như mong muốn. Vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học nói
11

skkn


chung, dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng nhiều lúc chỉ dừng lại

ở dạng những câu hỏi đơn giản. Giáo viên đa số thường ưu tiên sử dụng
những câu hỏi có tính chất tái hiện kiến thức như: Dựa vào Sách giáo khoa
tóm tắt những nét cơ bản về tác phẩm; Tìm dẫn chứng trong văn bản làm rõ
những luận điểm do giáo viên nêu sẵn về nội dung, nghệ thuật của văn bản văn
học,... Các dạng câu hỏi có tính chất tìm tịi, khám phá chưa được giáo viên sử
dụng nhiều trong quá trình dạy học. Việc sử dụng những câu hỏi yêu cầu học
sinh phải dùng tri thức đã biết để tìm tịi, phát hiện tri thức mới hoặc phải
tổng hợp, bao quát tri thức trên nhiều lĩnh vực, phải trăn trở suy ngẫm để mở
rộng, xoáy sâu vấn đề hoặc vận dụng, liên hệ văn bản vào thực tế xã hội,
thực tiễn đời sống lại càng khiêm tốn. Bên cạnh đó, học sinh đọc tác phẩm nào
biết tác phẩm đó; học sinh lúng túng khi đọc văn bản mới (khơng có trong SGK)
- mặc dù đó là văn bản cùng thể loại, cùng tác giả; Học sinh không vận dụng
được nhiều kiến thức, kĩ năng vào giải quyết các tình huống trong học tập và
thực tiễn nhờ kết quả đọc hiểu,… Cũng vì thế, học sinh khó có thể hình thành
được năng lực đọc hiểu văn bản.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài nông thôn và
đồng bằng Bắc Bộ. Nhà văn Nguyên Hồng từng nhận xét: “ Kim Lân là nhà văn
một lòng một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy”. Ông là
mẫu nhà văn “Qúy hồ tinh, bất quý hồ đa”, “viết kĩ lưỡng, viết từ gan ruột,
không chấp nhận sự nhạt nhẽo, giả tạo”(Đỗ Kim Hồi). “Vợ nhặt” là một truyện
ngắn xuất sắc của Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm của người nơng dân trong
nạn đói khủng khiếp vào mùa xuân năm 1945. Trong quá trình dạy học đọc hiểu
truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, người viết đã xây dựng hệ thống
câu hỏi theo 3 giai đoạn:
2.3.1. Câu hỏi trước khi đọc văn bản
Giai đoạn trước khi đọc văn bản là giai đoạn góp phần tạo tâm thế cho
người học; giúp học sinh bộc lộ những gì đã biết, chưa biết và muốn biết thêm
về văn bản. Đây cũng là giai đoạn giáo viên tổ chức hoạt động dự đoán cho học
12


skkn


sinh, giúp học sinh phát triển tư duy tưởng tượng, sáng tạo - một trong những
biểu hiện của năng lực văn học. Cụ thể, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa
vào nhan đề, hoàn cảnh sáng tác, đề tài, các thông tin liên quan đến tác giả, tác
phẩm,... để dự đốn về cốt truyện; nhân vật chính/nhân vật trung tâm; tình
huống truyện; nghệ thuật kể chuyện.
Chẳng hạn, các câu hỏi có thể là:
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh dự đoán về cốt truyện: Từ những ấn tượng
ban đầu về tác phẩm “Vợ nhặt”, em hãy đoán xem truyện có những sự kiện, diễn
biến chính nào?
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh dự đốn về nhân vật chính/nhân vật trung
tâm: Dựa vào nhan đề và những thông tin liên quan đến tác giả, tác phẩm, em dự
đoán nhân vật chính/nhân vật trung tâm của truyện là ai? Nhân vật đó có đặc
điểm tính cách, số phận như thế nào?
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh dự đốn về tình huống truyện: Từ những dự
đoán về cốt truyện, về nhân vật, em hãy tiếp tục đốn xem tình huống truyện của
truyện ngắn “Vợ nhặt” là gì?
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh dự đoán về nghệ thuật kể chuyện: Em đoán ai
sẽ là người kể chuyện? Câu chuyện sẽ được kể như thế nào (có được kể theo
diễn biến hiện thực hay khơng)? Em hãy đốn xem tác giả kết thúc truyện như
thế nào (kết thúc đóng hay mở)?
Ngồi ra, giáo viên có thể kết hợp với việc đọc tổng quan để giúp học sinh
đưa ra những dự đoán của bản thân về tác phẩm bằng cách yêu cầu học sinh
chuẩn bị ở nhà phiếu học tập sau:
Những điều tôi biết sơ bộ về văn bản Những suy nghĩ, phỏng đốn ban đầu của tơi
1. Nhan đề
2. Tác giả

3. Thể loại
4. Thời điểm sáng tác
Như vậy, thực hiện các câu hỏi dự đoán ở giai đoạn trước khi đọc văn bản
không chỉ giúp học sinh kết nối những thông tin liên quan đến văn bản mà còn
13

skkn


tạo cơ hội cho học sinh hình dung, liên tưởng, tưởng tượng sống động về hình
tượng văn học. Đó cũng chính là năng lực tư duy hình tượng - một trong những
biểu hiện của năng lực văn học mà các câu hỏi trước khi đọc hướng tới phát
triển ở học sinh.
2.3.2. Câu hỏi trong khi đọc hiểu văn bản
Giai đoạn trong khi đọc là giai đoạn người đọc bắt đầu tiếp xúc trực tiếp
với từng con chữ, câu văn,... trong văn bản để đi sâu phân tích những khía cạnh
khác nhau, những điểm đặc sắc và từng bước bóc tách các lớp ý nghĩa sâu xa
của văn bản. Mỗi câu hỏi cốt lõi được sử dụng trong giai đoạn này sẽ đảm nhận
những nhiệm vụ riêng bám sát từng đặc trưng của thể loại và có sự liên kết với
nhau để học sinh có thể nhận diện, phân tích, đánh giá được văn bản dựa trên
loại thể. Giáo viên cần dựa vào mục tiêu bài học, đối tượng học sinh, nhiệm vụ
của từng câu hỏi và kết hợp một số kĩ thuật, chiến thuật đọc hiểu để đưa ra
những hướng dẫn, chỉ dẫn đọc phù hợp cho người học. Chẳng hạn, với câu hỏi
xác định ngôi kể, giọng kể của tác phẩm, giáo viên cần lưu ý học sinh vận dụng
những kiến thức đã được học về ngôi kể, giọng kể ở các lớp dưới, chú ý đến các
từ ngữ, cách gọi tên nhân vật,... để xác định người kể chuyện là ai và ngôi kể là
ngôi thứ mấy. Hay với câu hỏi nhận diện, phân tích, đánh giá các nhân vật, giáo
viên cần lưu ý học sinh lựa chọn nhân vật để đánh giá (thường là nhân vật
chính); tìm và tái hiện lại những chi tiết miêu tả nhân vật (tên, nguồn gốc, ngoại
hình, trang phục, hành động, ngơn ngữ, tâm trạng,...); xác định ý nghĩa biểu đạt

của các chi tiết miêu tả nhân vật (mỗi chi tiết cho biết điều gì về nhân vật?); khái
qt tính cách nhân vật; suy đốn ý đồ của tác giả thơng qua số phận, tính cách
của nhân vật.
Chẳng hạn khi dạy đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt”, có thể sử dụng một số
câu hỏi sau:
- Câu hỏi xác định ngôi kể, giọng kể của tác phẩm: Người kể chuyện trong
câu chuyện này là ai? Ở ngôi thứ mấy? Theo em, việc lựa chọn ngơi kể như vậy
có tác dụng gì đối với việc thể hiện nội dung/tư tưởng của tác phẩm?

14

skkn


- Câu hỏi yêu cầu học sinh tóm tắt truyện/nêu cốt truyện: Kể tóm tắt những
sự kiện, diễn biến chính của truyện “Vợ nhặt”?
- Câu hỏi yêu cầu học sinh xác định, phân tích, đánh giá kết cấu và nghệ
thuật trần thuật của truyện:
+ Truyện được tác giả kể theo trình tự nào? Cách kể như vậy có ý nghĩa
nghệ thuật như thế nào?
+ Tác phẩm được kết cấu theo kiểu nào? (tương phản, khép kín, để ngỏ, đối
xứng, phi đối xứng, lắp ráp, song trùng, vòng tròn, lồng khung, đối đáp, độc
thoại nội tâm, dòng tâm tư,...)?
+ Em hãy cho biết dụng ý và hiệu quả của lối kết cấu đó trong việc làm nổi
bật chủ đề của truyện?
- Câu hỏi xác định, phân tích, đánh giá tình huống truyện:
+ Tìm những chi tiết nghệ thuật thể hiện tình huống truyện “Vợ nhặt”.
Những chi tiết đó diễn tả tình huống gì?
+ Nêu nhận xét của em về tình huống truyện “Vợ nhặt”. Tại sao, tình huống
truyện “Vợ nhặt” được coi là tình huống độc, lạ, éo le?

+ Tình huống truyện “Vợ nhặt” có ý nghĩa như thế nào?
- Câu hỏi nhận diện, phân tích, đánh giá các nhân vật:
+ Chỉ ra những chi tiết giới thiệu/diễn tả về cuộc sống của nhân vật (Tràng,
thị, bà cụ Tứ). Những chi tiết đó gợi cho em những cảm nhận gì về nhân vật
(tính cách, số phận,...)?
+ Hình ảnh của nhân vật Tràng, thị, bà cụ Tứ được thể hiện như thế nào qua
những cử chỉ, hành động, lời nói, thái độ,... trong truyện?
- Câu hỏi yêu cầu học sinh chỉ ra, phân tích, đánh giá các chi tiết nghệ thuật
trong tác phẩm:
+ Chỉ ra hình ảnh xuất hiện trong óc Tràng khi kết thúc tác phẩm. Chi tiết
này thể hiện điều gì?
+ Vì sao trong sự khổ cực của nạn đói “thóc gạo này đến cái thân mình
cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng”, Tràng vẫn quyết định đưa
thị về làm vợ?
15

skkn


- Câu hỏi nhằm giúp học sinh hoàn chỉnh những dự đốn về tác phẩm:
Nhìn lại những dự đốn ban đầu về truyện ngắn “Vợ nhặt”, em có cần điều
chỉnh gì khơng? Hãy hồn thiện những dự đốn của em.
Có thể thấy, các câu hỏi ở giai đoạn này sẽ giúp học sinh chủ động tiếp cận
văn bản thông qua các hoạt động học tập khác nhau. Học sinh sẽ nắm được khi
đọc một văn bản truyện ngắn cần tập trung vào những yếu tố nào; với mỗi yếu tố
cần tiếp cận, phân tích, đánh giá như thế nào; để hồn thành những dự đốn ở
giai đoạn trước khi đọc văn bản cần tìm hiểu, so sánh, đối chiếu các thông tin,
kiến thức tiếp nhận được trong giai đoạn này như thế nào,... Từ đó, học sinh
được hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” nói
riêng, đọc hiểu văn bản văn học nói chung.

2.3.3. Câu hỏi sau khi đọc hiểu văn bản
Giai đoạn sau khi đọc hiểu văn bản không chỉ là giai đoạn yêu cầu học sinh
tổng hợp lại tri thức đã đọc mà còn là thời điểm học sinh bộc lộ khả năng vận
dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết những tình huống
khác trong học tập và trong cuộc sống. Tuỳ vào mục tiêu bài học, đối tượng học
sinh,... giáo viên cần có những biện pháp sử dụng câu hỏi sao cho phù hợp.
Chẳng hạn một số câu hỏi có thể là:
- Câu hỏi đánh giá giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
+ Em hãy nêu ngắn gọn những giá trị về nội dung và nghệ thuật của truyện
ngắn “Vợ nhặt”?
+ Theo em, những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Kim Lân ở
truyện ngắn “Vợ nhặt” là gì?
- Câu hỏi đọc hiểu văn bản mới (cùng tác giả/đề tài/thể loại/giai đoạn văn
học,...): Với câu hỏi này, giáo viên có thể lựa chọn một đoạn trích ngắn trong
một văn bản mới (cùng tác giả/đề tài/thể loại/giai đoạn văn học,...) và đưa ra
những câu hỏi hỏi nhỏ yêu cầu học sinh đọc hiểu đoạn trích đó.
Chẳng hạn khi học về văn bản “Vợ nhặt” (Kim Lân), giáo viên có thể lựa
chọn cho học sinh đọc hiểu một đoạn trích đặc sắc trong tác phẩm “Con chó xấu
xí” của Kim Lân.
16

skkn


- Câu hỏi yêu cầu học sinh làm văn nghị luận (văn học hoặc xã hội):
Theo em, tác giả muốn gửi tới người đọc thơng điệp gì qua truyện ngắn
“Vợ nhặt”? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 câu) về bài học mà em rút ra
được từ câu chuyện này?
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động tích hợp:
Giáo viên có thể chia lớp ra làm 2 nhóm và đưa ra yêu cầu: Em cùng các

bạn trong nhóm của mình hãy dựng lại tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một tiểu phẩm
kịch.
Nhìn chung, các câu hỏi trong giai đoạn này sẽ giúp học sinh biết cách đưa
ra những phản hồi của mình về văn bản; biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng
đã học vào đọc hiểu văn bản mới khơng có trong sách giáo khoa (cùng tác giả/đề
tài/thể loại/giai đoạn văn học,...); viết được văn bản có nội dung và kiểu loại
theo đúng yêu cầu; có khả năng giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm,... Nói cách
khác, bên cạnh việc bồi dưỡng, phát triển những năng lực chung như năng lực
giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề,… nhóm câu hỏi sau khi đọc hướng tới việc
phát triển cho học sinh năng lực ngôn ngữ - một trong những năng lực đặc trưng
của môn Ngữ văn.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Trong năm học 2021-2022, tôi được phân công giảng dạy hai lớp 12: 12B,
12G. Tôi đã thử nghiệm đề tài với học sinh lớp 12G và chọn lớp 12B làm lớp
đối chứng. Sau khi học xong bài “Vợ nhặt”, tôi đã khảo sát sự hứng thú học tập
của học sinh hai lớp 12B, 12G. Kết quả là lớp 12G có 87% học sinh hứng thú
với tác phẩm, lớp 12B có có 58% học sinh hứng thú. Kết quả của bài kiểm tra
giữa kì cho thấy kết quả rõ rệt khi áp dụng phương pháp dạy học này:
Lớp

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém


12G

9,7%

68,6%

21,7%

0%

0%

12B

4,6%

37,3%

46,5%

11,6%

0%

Kết quả của bài kiểm tra cho thấy mức điểm từ trung bình trở lên của lớp
12G là 100%, lớp 12B có 88,4%. Đăc biệt, điểm khá giỏi của lớp của lớp 12G
17

skkn



khá tốt. Điều đó chứng tỏ khi áp dụng phương pháp này mang lại hiệu quả cao
hơn, học sinh nắm vững kiến thức hơn so với cách dạy truyền thống.
Như vậy sau khi áp dụng đề tài, tôi thấy phương pháp này có hiệu quả hơn
hẳn với phương pháp truyền thống. Nó giúp học sinh hứng thú hơn với giờ học
Văn, nhờ đó mà kết quả học tập cũng khả quan hơn. Quan trọng hơn nữa, nhờ
phương pháp này, học sinh khơng cịn lúng túng khi đọc văn bản mới (khơng có
trong SGK). Từ tác phẩm này, học sinh biết cách vận dụng được nhiều kiến
thức, kĩ năng vào giải quyết các tình huống trong học tập và thực tiễn nhờ kết
quả đọc hiểu,… Cũng vì thế, học sinh đã hình thành được năng lực đọc hiểu văn
bản.

18

skkn


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Xây dựng câu hỏi trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học nói chung, dạy
học đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” nói riêng là một trong những việc làm cần
thiết nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học và phát triển năng lực của
học sinh. Với cách xây dựng câu hỏi theo mơ hình 3 giai đoạn: trước khi đọc
văn bản, trong khi đọc văn bản và sau khi đọc văn bản như trên là những chỉ dẫn
về phương pháp dạy học; kiểm tra, đánh giá của giáo viên đối với quá trình học
và kết quả học tập của học sinh. Với cách tiếp cận đó, học sinh sẽ biết cách đọc
hiểu một văn bản theo loại thể, tránh được tình trạng lúng túng khi đọc văn bản
mới khơng có trong sách giáo khoa hay nói cách khác chính là hình thành được
năng lực đọc hiểu văn bản ở học sinh. Trong thời điểm nền giáo dục đang có
những thay đổi tích cực theo định hướng phát triển năng lực, vận dụng mơ hình

câu hỏi trong dạy học đọc hiểu văn bản hứa hẹn trở thành một hướng đi hiệu quả
trong dạy học Ngữ văn.
3.2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường phổ thông:
+ Cần trang bị các thiết bị dạy học đầy đủ, chất lượng tốt và thuận tiện
trong việc tố chức các giờ dạy áp dụng công nghệ thông tin.
+ Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc
đời, sự nghiệp của các tác giả trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam .
+ Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học
nước nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc.
- Đối với Sở giáo dục:
+ Cần phổ biến các sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại để giáo viên có
điều kiện học hỏi.
+ Cung cấp thêm các tư liệu về tác phẩm để giáo viên và học sinh có thể
tham khảo.

XÁC NHẬN CỦA THỦ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2022
19

skkn


TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác
Người viết

Trương Thị Thanh


20

skkn



×