LỄ HỘI ĐỀN HÙNG-CỘI NGUỒN MỸ THUẬT
DÂN TỘC
Là người Việt Nam, dù được ở quê hương hay phiêu dạt nơi đâu, nhưng cứ mỗi độ
xuân sang, ai cũng hướng lòng mình về một vùng Đất Tổ - Vùng đất Trung du thơ
mộng thuộc xã Hy Cương (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ), nơi cội
nguồn của dân tộc, nơi hằng năm con cháu cả nước về dự Giỗ tổ Hùng Vương.
Hai câu ca dao trên, từ bao đời, giống như tiếng chim gọi đàn, khơi dậy trong tâm
khảm mọi người Việt Nam những tình cảm thân thương và sâu sắc. Tất cả chúng ta
đều là con Hồng cháu Lạc, đều cùng chung một Tổ. Và Phú Thọ, trung tâm nước
Văn Lang xưa, nơi các Vua Hùng đóng đô dựng nước; Hằng năm, cứ đến ngày 10
tháng 3 âm lịch, hội đền Hùng lại mở, đón tiếp con cháu từ khắp nơi về làm giỗ Tổ.
Cả nước làm giỗ Tổ! Đối với chúng ta thì đó dường như là một điều tự nhiên, một
điều bình thường. Nhưng xét cho kỹ thì điều đó không bình thường chút nào cả.
Trái lại, đó là một trong những nét độc đáo, rất độc đáo trong văn hoá tinh thần của
dân tộc Việt Nam. ở trên thế giới, cũng có những nước lấy quốc hiệu từ tên một vị
thuỷ Tổ. Nhưng không một nước nào trên thế giới giống như ở nước ta có lệ hàng
năm lại làm lễ giỗ Tổ, tưởng niệm các vị thuỷ Tổ đã khai cơ lập nghiệp, đã mở đầu
trong công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Muốn đến hội Đền Hùng, bạn có thể đi ô tô khách hoặc bằng đường xe lửa, bằng
đường thuỷ, đến thành phố Việt Trì, rồi đi tiếp bằng xe hơi, tàu hoả
Trước lúc vào hội, mời bạn hãy đến thăm những di tích lịch sử cổ kính của một
quần thể kiến trúc tuyệt vời trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh. Ngọn núi đã bao đời nay
được con cháu từ khắp mọi miền nhắc đến với một niềm xúc động dào dạt, hướng
về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Dưới những tán cây chò xanh cao vút, mát rượi, bước theo các bậc đá sạch sẽ từ
cổng chính đi lên, chẳng mấy chốc lên tới đền Hạ. Theo truyền thuyết thì ở nơi đây
bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai. Sau đó, Lạc
Long Quân dẫn 50 người con về xuôi, Âu Cơ dẫn 49 người lên vùng ngược, để lại
người con trưởng làm vua, xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu , đặt tên
nước là Văn Lang. Từ đó sinh sôi ra các dân tộc Việt Nam. Trước cửa đền Hạ có
một cây Thiên Tuế, chính ở nơi đây, Bác Hồ đã nói chuyện với cán bộ chiến sĩ đại
đoàn quân Tiên Phong trước khi về tiếp quản Thủ đô tháng chín năm 1954. Câu
nói nổi tiếng ấy, nay đã được khắc thành chữ vàng để muôn đời con cháu mai sau
giữ mãi : “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
nước”. Thắp nén hương thơm trong đền Hạ để tỏ lòng ngưỡng mộ đến Tổ Tiên, ta
tiếp tục lên đền Trung. Tương truyền, các Vua Hùng thường đến đây cùng các Lạc
tướng bàn việc nước. Đây cũng là nơi Lang Liêu, vị hoàng tử nghèo đã lấy những
hạt gạo do chính mình cấy gặt ra, làm nên những chiếc bánh chưng, bánh dày đầy
hương vị quê hương dâng lên cho Vua Cha nhân ngày Tết Nguyên đán. Sự tích
bánh chưng, bánh dày, bài học về sự quý trọng hạt gạo do bàn tay lao động của con
người làm ra, khởi đầu nền văn minh lúa nước.
Lên cao nữa là đền Thượng, nơi hằng năm vua Hùng làm lễ tế trời đất, thờ thần
lúa. Cũng ở nơi này vua Hùng Vương thứ 6 lập đền thờ Thánh Gióng sau khi thắng
giặc Ân. Phía bên trái đền có một chiếc lăng cổ kính tương truyền đó là nơi an nghỉ
của vua Hùng thứ 6. Trước cửa đền, hơi chếch sang bên phải có một cột đá mộc
mạc, theo truyền thuyết đó là một chứng tích lịch sử. Trước cột đá này, An Dương
Vương đã thề trước vong linh của các vua Hùng, nguyện suốt đời sẽ giữ gìn non
sông gấm vóc, lăng miếu Tổ tiên truyền lại. Đứng trên đền Thượng, phóng tầm mắt
ra xa, bạn sẽ thấy nhiều hòn núi lớn nhỏ như bầy voi quỳ hướng về ngọn núi Mẹ
oai nghiêm, nhắc ta nhớ đến câu chuyện về 99 con voi trung thành, còn một con
“ăn ở ra lòng riêng tư” đã bị trừng phạt mãi mãi không bao giờ trở lại được với bầy
đàn. Con voi lạc loài ấy cho đến nay vẫn mãi là bài học nhắc nhở lòng trung nghĩa.
Từ phía lăng vua Hùng, ta trở lại lối đi cũ đến đền Hạ, rẽ sang trái, đi xuống phía
chân núi phía Đông Nam, bạn sẽ gặp đền Giếng. Trong đền có giếng Ngọc, nước
trong như cái tên của nó, tương truyền xưa kia hai nàng công chúa Tiên Dung và
Ngọc Hoa thường soi bóng để chải tóc vấn khăn ở đây. Sau này, nhân dân ta xây
thành một đền thờ để tưởng nhớ hai nàng.
Bây giờ ta hãy trở về với ngày hội mồng 10 tháng 3, được coi là ngày hội lớn nhất,
ngày giỗ tổ, ngày hội tụ của con Rồng cháu Tiên đất Việt, người Việt Nam ta.
Cuộc tế lễ chính thức được tiến hành vào sáng mồng 10 tháng 3, năm nào cũng có
đại diện lãnh đạo cao cấp của nhà nước về dự. Những nghi thức ấy diễn ra rất long
trọng tại đền Thượng với đầy đủ các lề luật của một cuộc tế lớn. Trong lúc tế lễ
còn có phường nhà tơ Do Ngãi hát múa chào Thánh. Lễ vật tại hội Đền Hùng gồm
lợn, bò, dê, mỗi thứ một con để nguyên và xôi trắng, xôi màu, bánh chưng, bánh
dày v.v
Các thế hệ con Rồng cháu Tiên về dự hội dồn nhanh bước chân khi nghe tiếng
trống đồng ngân rung trong lòng đất, làm xúc động sâu xa hàng triệu con tim.
Dòng người cuồn cuộn ấy theo Đoàn đại biểu dâng Hương, đi đầu là các vị đại
diện cho nhà nước, tiếp đến là 100 nam nữ thanh niên với y phục dân tộc tượng
trưng cho con Rồng cháu Tiên xếp hàng trước đền Thượng. Loa phóng thanh phát
đi “Lễ tưởng niệm các vua Hùng và các liệt sỹ đã có công dựng nước và giữ nước”.
Cả biển người đang sôi động bỗng trở nên thành kính, trang nghiêm.
Từ khắp các ngả đường, những đám rước nô nức dồn về. Đám rước voi với ý nghĩa
muôn loài quy phục các vua Hùng. Rồi tổ chức rước cỗ chay, bánh chưng, bánh
dầy, một mặt để nhắc lại sự tích Lang Liêu, mặt khác là để nhớ ơn công đức các
vua Hừng đã dạy dân trồng lúa. Vì thế đám rước này không bao giờ được thiếu và
đó cũng là nét đặc sắc của Hội đền Hùng. Còn rước kiệu từ lâu đã trở thành cuộc
thi của các làng. Đám rước rầm rộ nhiều màu sắc từ các ngả tiến về đền Hạ. Tại
đây các cỗ kiệu cùng cờ quạt, đồng loạt được rước chạy quanh sân, vì vậy người ta
gọi là rước kiệu bay.
Dưới chân núi, bên cổng quán, những cô gái Mường duyên dáng trong bộ quần áo
dân tộc ngày hội biểu diễn tiết mục Đâm đuống, một nhạc cụ cổ truyền của đồng
bào Mường. Âm thanh nhịp nhàng của đuống vang lên dội vào núi rừng ngày hội.
Trên hồ Đả Vao cạnh chân núi Nghĩa, những cặp thuyền rồng đua nhau lướt sóng
trên mặt nước trong xanh, trong tiếng reo hò cổ vũ của hàng vạn người. Trên bờ là
bãi tung còn thu hút trai thanh gái lịch đua tài đua sức. Cây đu tiên quay tròn tung
bay những tà áo thướt tha trong nắng gió nhẹ của mùa xuân.
Cả một vùng rộng lớn quanh chân núi Nghĩa được sắp đặt xen kẽ những rạp hát
chèo, tuồng, những quầy hàng đặc sản của một vùng đất Tổ, bưởi Đoan Hùng, chè
Phú Thọ, dứa Tam Đảo những quán ăn, hàng thủ công mỹ nghệ cũng được trưng
bày phục vụ khách về dự hội. Nhất là buổi tối, ánh đèn điện như sao sa khắp núi
rừng, tiếng hát xoan của các phường xoan nổi tiếng về dự hội như Kim Đức, Đức
Bát vang vọng đây đó, khiến tâm tư của mỗi người nhớ về một vùng dân ca nổi
tiếng một thời về chèo và tuồng
Cứ như vậy hội đền Hùng diễn ra trong không khí sôi động của mùa xuân với bao
điều ước vọng về một tương lai tốt đẹp.
Hội đền Hùng không chỉ thu hút mọi người bởi những sinh hoạt văn hoá đặc sắc,
mà còn ở tính thiêng liêng của một cuộc hành hương trở về cội nguồn dân tộc của
các thế hệ người Việt Nam ta. Đến hội đền Hùng, mỗi người đều biểu hiện một
tình yêu thương, lòng ngưỡng mộ về quê Cha đất Tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào
tâm thức của mỗi người Việt Nam, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu trong hay ngoài
nước./.