Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.71 KB, 58 trang )

Truyền thông đại chúng và d luận xà hội

TTC l tồn bộ những phương tiện lan truyền thơng tin như báo chí, truyền
hình, phát thanh, sách báo … tới những nhóm cơng chúng lớn.
Đặc điểm của các phương tiện TTĐC là các tin tức từ hệ thống này
được truyền đến cơng chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp.
Nó vừa phải hướng đến các đối tượng cơng chúng nói chung, vừa phải quan
tâm tới nhu cầu thơng tin của các nhóm cơng chúng cụ thể. Hoạt động của
hệ thống TTĐC luôn chịu sự tác động từ hai phiá, phía thứ nhất là các thiết
chế xã hội mà phương tiện đó là cơng cụ (như các tờ báo của các tổ chức
chính trị, xã hội), và phía thứ hai là cơng chúng báo chí.
Hệ thống TTĐC có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và
thể hiện dư luận xã hội. Sự tác động của các PTTTĐC với các nhóm cơng
chúng rất khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, về quyền lợi
giai cấp, về các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp đối với PTTT.
Dư luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá của
các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng đại diện
cho lợi ích xã hội cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. Dư
luận xã hội là một trong những biểu hiện sớm nhất của ý thức xã hội, nó
phụ thuộc vào những quy định của các quan hệ giai cấp và các quan hệ
xã hội cụ thể.
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ biện chứng.
Sản phẩm của truyền thông là dư luận xã hội. Trong quá trình hình thành và
thể hiện dư luận xã hội, một mặt các PTTTĐC nhằm thỏa mãn những nhu


cầu ngày càng tăng của công chúng, mặt khác, bản thân công chúng lại đặt
ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí.
Các PTTTĐC hướng đến việc hình thành dư luận xã hội, đồng thời hệ
thống này cũng là kênh thể hiện dư luận xã hội, để thực hiện được vai trị đó,
hệ thống TTĐC có các nhiệm vụ đó là:


1.

Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa các mặt của đời sống xã

hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
2.

Thông tin cho nhân dân về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn

đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề
có tính cấp bách.
3.

Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành

động.
4.

Hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó, nhằm thúc đẩy hoặc

hạn chế sự phát triển của thực tiễn đó.
5. Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
6. Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, làm tăng cường tính
tích cực chính trị - xã hội của quần chúng.
Các phương tiện truyền thông đại chúng sử dụng những phương pháp sau để
thể hiện dư luận xã hội:
1.

Phản ánh trực tiếp, bằng cách cho in các bức thư của người đọc, người
nghe, người xem, hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công

chúng trên các trang báo hoặc trên sóng phát thanh truyền hình.

2.

Cho in trên báo, hoặc phát trên sóng phát thanh và truyền hình các bài
phát biểu của các nhà báo cộng tác với đại diện các tầng lớp nhân dân,
hoặc các tổ chức, đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, có kèm theo
lời bình luận của cộng tác viên, hoặc của các ban biên tập.


3.

Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề
nào đó, các nhà báo viết rịi cho in hoặc phát trên sóng phát thanh
truyền hình.

Thực tiễn hoạt động của các PTTTĐC cho thấy trong các vấn đề được báo
chí đưa ra cơng luận dẫn tới sự tranh luận của quần chúng, nghĩa là các
thông tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự đánh giá của dư luận xã hộ, đều
có các tính chất: 1, nó phản ánh được lợi ích xã hội; 2, nó có tính cấp bách;
nó tạo nên sự tranh luận.
Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội với tác động của TTTĐC diễn ra
theo các bước sau đây:
1.

Công chúng làm quen với các vấn đề được báo chí gợi ý, hoặc đề

xuất.
2.


Bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về một chủ đề nào

đó nhằm kích thích lợi ích xã hội về chủ đề đó. Việc trình bày các quan điểm
khác nhau trong cách nhìn nhận đánh giá để tạo nên cơ sở tranh luận.
3. Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng.
Giai đoạn làm quen với các vấn đề xã hội có ý nghĩa như là sự khởi đầu của
con đường hình thành dư luận xã hội. Dù vấn đề đó là quan trọng, nếu nó
khơng được cơng chúng quan tâm thì hoạt động truyền thơng khơng thu
được hiệu quả.
Lợi ích xã hội là nhân tố chi phối sâu sắc nhất đến sự hình thành dư luận
xã hội. Lợi ích cá nhân thường rất nhạy bén trong sự hình thành ý kiến cá
nhân. ý kiến của nhóm được coi là đơn vị đầu tiên tạo nên “chất” của dư
luận xã hội. Con đường vận động từ ý kiến cá nhân qua ý kiến nhóm, để


hình thành dư luận xã hội là một quá trình biện chứng. Sự phát triển của các
“tầng” ý kiến này quy đình cường độ của dư luận xã hội về một hiện tượng
xã hội nào đó.
Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng có mối liên hệ ngược (Feedback). Nghĩa là các phương tiện này
không chỉ tạo nên dư luận xã hội. Mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng tác
động trở lại tới hoạt động của hệ thống TTĐC, vì trong lĩnh vực thông tin sự
phân chia giữa người truyền tin (chủ thể) và người nhận (khách thể) là rất
tương đối và thường diễn ra đồng thời. Công chúng không chỉ là người tiếp
nhận thông tin mà những đánh giá, nhận xét của họ về hoạt động của các
phương tiện TTĐC đã tạo nên mối liên hệ ngược, nghĩa là ý kiến của công
chúng về những thông tin mà họ tiếp nhận được từ hệ thống này cũng tác
động trở lại hoạt động của các phương tiện TTĐC.
Phản hồi là dòng chảy của thông tin từ nguồn tin đến nơi nhận và
ngược lại, đây là một chu trình khép kín. Dịng phản hồi chỉ hình thành khi

người nhận giải mã được thông điệp và người cung cấp thông điệp đáp ứng
nhu cầu thông tin của người nhận. Phản hồi là yếu tố quan trọng nhất của qú
trình truyền thơng. Việc tìm hiểu mối liên hệ ngược từ công chúng về hoạt
động của báo chí là rất cần thiết để các ban biên tập cải tiến nội dung, cơ chế
truyền dẫn thông điệp nhằm phục vụ cơng chúng tốt hơn. (Lấy ví dụ qua
thăm dị chất lượng tạp chí BHXH).
Việc nghiên cứu cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội thông qua
tác động của các phương tiện TTĐC cần xem xét tính đặc thù của mỗi loại
phương tiện thơng tin. ở nước ta, hệ thống TTĐC được đặt dưới sự quản lý
thống nhất của Nhà nước, các dấu hiệu về dân số - xã hội và địa lý được lấy
làm cơ sở cho hoạt động xuất bản, phát hành báo chí và phát thanh, truyền
hình, nhờ đó các tầng lớp nhân dân đều có thể tiếp nhận thơng tin từ hệ


thống này. Về dấu hiệu lãnh thổ: như báo Hà Nội mới, Sài gịn giải
phóng…; Dấu hiệu xã hội: như báo Đại đoàn kết, Lao động…; Dờu hiệu
nghề nghiệp như báo Giáo dục thời đại, Tạp chí BHXH…; Dấu hiệu lứa
tuổi: như báo Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô…; Dấu hiệu về nhu cầu và
thị hiếu: như Tạp chí Âm nhạc, Mua và bán…
Hiện nay, ở nước ta có

tờ báo, Tạp chí……..( lấy số liệu trong Sách

Đương lối ván hóa cua HCCTQG HCM).
Trong những năm qua báo chí nước ta trưởng thành và lớn mạnh cùng
công cuộc đổi mới của đất nước. Đường lối đổi mới với chủ trương mở cửa
và dân chủ hóa đời sống xã hội đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển
báo chí.
Với vai trị là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và các tổ chức chính trị,
xã hội, báo chí vừa định hướng dư luận xã hội vừa là diễn đàn thể hiện tâm

tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Báo chí tuyên truyền phổ biến
đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cung cấp các
thơng tin về đời sống xã hội, góp phần nâng cao dân trí, mở rộng nền dân
chủ và khả năng tham gia của mọi người dân vào các hoạt động tổ chức,
quản lý, giám sát, thẩm đinh, phản biện xã hội.
Nhứng năm gần đây, báo chí có vai trị quan trọng trong việc kịp thời
phát hiện, biểu dương các nhân tố mới và định hướng hành động xã hội.
Đồng thời báo chí tham gia tích cực và hiệu quả trong việc đấu tranh chống
tiêu cực. Viẹc phát hiện những vụ án lớn trong thời gian qua đều có sự đóng
góp của báo chí. Tuy nhiên, cũng đã có tình trạng một số tờ báo đi xã tơn chỉ
mục đích được quy định và có bhiểu hiện thương mại hóa trong hoạt động
báo chí, xuất bản.
Việc mở rộng khả năng tham gia của công chúng vào hoạt động giao
tiếp đại chúng làm cho côn chúng không chỉ đơn thuần là đối tượng tiếp


nhận các thông điệp được truyền tải, mà hệ thống TTĐC phải đảm nhận và
thực hiện tốt hơn vai trò là diễn đàn thể hiện dư luận xã hội về những vấn đề
phản ánh các lợi ích, tạo nên mối quan tâm chung của quần chúng nhân dân.
Đây chính là điều kiện cơ bản nhằm tạo nên các tương tác xã hội tích cực và
ổn định đối với họat động TTĐC.
Câu 24: Phân tích các chức năng tổ chức - quản lý xã hội của bchí
Cùng với chức năng tư tưởng, bchí thực hiện chức năng quản lý xã hội.
Qlý xã hội đuợc hiểu là sự tđộng có ý thức của chủ thể quản lý vào khách
thể quản lý nhằm bảo đảm cho nó hđộng có hiệu quả và đạt được mục đích
đề ra. Đây là hđộng có ý thức của con người trong hệ thống xã hội, trong đó
con người là yếu tố quyết định.
Chủ thể quản lý là những nhà quản lý cấp trên, nhà hoạch định chính sách,
chỉ đạo khách thể qlý.
Khách thể quản lý là các tổ chức, đơn vị kinh tế, các lĩnh vực của đsống

xã hội và cả xã hội nói chung. Bản thân xã hội hết sức phức tạp, đa dạng và
phong phú trong mliên hệ giữa các hệ thống xã hội với nhau. Mỗi hệ thống
xã hội lại chịu sự tác động nhiêù mặt (tiêu cực lẫn tích cực) của đsống xhội.
Trong trường hợp này chủ thể quản lý cần có nguồn thơng tin đầy đủ, kịp
thời, chính xác và có tính bản chất để xử lý và điều chỉnh hành vi của các
khách thể quản lý. Như vậy, để đảm bảo cho hđộng qủan lý có thơng tin 2
chiều thuận và người. Chiều thông tin thuận từ chủ thể đến khách thể chuyển
đi những quyết định quản lý và những thông tin cần thiết để hướng dẫn về
cách thức và phương pháp, điều kiện thực hiện. Chiều thông tin này cần phải
kịp thời, đầy đủ và chính xác. Đây cũng là điều kiện cần thiết để tác động


một cách có hiệu quả của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, làm cho
khách thể quản lý vận động và phát triển theo chiều hướng đã định.
Thông tin ngược chiều là kênh thông tin từ khách thể quản lý đến chủ
thể quản lý. Thông tin ngược chiều đầy đủ, kịp thời và toàn diện là tiền đề
điều chỉnh hoặc quyết định quản lý mới một cách đúng đắn và hợp lý.
Bchí thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng việc cung cấp thông tin cả
hai chiều. Báo chí tham gia vào q trình quản lý xã hội như một cầu nối
trung gian giữa khách thể quản lý và chủ thể quản lý. Hđộng quản lý có hiệu
quản hay khơng phụ thuộc nhiều vào tính chất số lượng thơng tin hai chiều
liên tục này.
Bchí tổ chức hđộng trong lĩnh vực quản lý xã hội theo các hướng chủ
yếu sau:
- Đăng tải, bình luận, phân tích giải thích các văn kiện, nghị quyết của
của Đảng và Nhà nước để quần chúng hiểu và áp dụng vào thực tế cuộc
sống.
- Bchí phản ánh, phân tích tình hình thực tế ở từng địa phương, cơ sở sản
xuất hoặc một vấn đề nào đó trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước
để chủ thể quản lý có thêm thông tin, nhằm đưa ra hoặc điều chỉnh những

quyết sách phù hợp.
- Bchí tham gia vào việc kiểm tra các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, trường
học trong việc thực hiện các đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước. Hđộng này địi hỏi báo chí phát hiện kịp thời những sai
lầm, khuyết điểm, những khó khăn, cản trở trong việc chỉ đạo thực hiện các
quyết định quản lý. Nguồn thơng tin kiểm tra của bchí cũng trực tiếp tác
động tới các cơ quan tổ chức có khuyết điểm, sai lầm, giúp cho họ nhận thức


được thiếu sót để tự điều chỉnh hoặc tạo ra sức áp lực xã hội buộc họ phải
sửa chữa. Vấn đề quan trọng đặt ra cho bchí cách mạng trong kiểm tra là chỉ
ra các sai lầm, khuyết điểm trên cơ sở xây dựng theo chiều hướng tốt đẹp
hơn chứ khơng phải phủ nhận hoặc đánh đổ.
- Bchí tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu
cực. Mục đích của cuộc đấu tranh này là nhằm khẳng định bản chất ưu việt
của chế độ, làm lành mạnh hóa các mqhệ xã hội, đẩy lùi các htượng trái với
bản chất của chế độ, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước và nhân dân. Cuộc
đấu tranh này là cơng việc hết sức phức tạp, khó khăn đòi hỏi ở nhà báo
bằng lòng dũng cảm, trung thực, trách nhiệm công dân cao, sự hiểu biết đầy
đủ, sâu sắc về vấn đề nghiên cứu, phản ánh.
- Bchí là công cụ biểu dương nhân tố mới, người tốt, việc tốt phê phán
những vụ việc tiêu cực đi đôi với biểu dương nhân tố mới, người tốt việc tốt
là một trong những đặc trưng của ưu việt của nền báo chí cách mạng.
Quan s¸t cc sèng chóng ta cã thĨ thấy phản biện là một
hoạt động diễn ra hàng ngày. Phản biện là một nhu cầu của
cuộc sống bởi nhờ có nó con ngời có thể loại bỏ những yếu
tố sai để tiếp cận tới sự hợp lý trong các quyết định, các
hành vi của mình. Trong khoa học, phản biện cũng là một
trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệp
cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống xà hội phản

biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xÃ
hội dân chủ. Phản biện xà hội là một vấn đề hoàn toàn
không mới, loài ngời đà làm quen với khái niệm này từ rất sớm
và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân
chủ, tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiªn


tiến. Trong thời đại ngày nay, phản biện xà hội vẫn là một
trong những vấn đề hệ trọng, là đối tợng cần nghiên cứu,
nhất là đối với các quốc gia đi sau, các quốc gia đang phấn
đấu cho nền dân chđ.
Phản biện: là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định cơng trình khoa học, dự
án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau.
Phản biện xã hội: là sự phản biện nói chung, nhưng có qui mơ và lực lượng
rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung,
phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội,
khoa học-công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự an ninh chung toàn
xã hội của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan.
Phản biện xã hội là phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà
nước, góp ý kiến với cán cán bộ, công chức và các cơ quan Nhà nước. Mọi
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đều
phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân khơng chỉ có quyền mà
cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu cần thiết và địi
hỏi bắt buộc của q trình lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ
quan liêu...
I. Ph¶n biƯn x· hội là một hoạt động khoa học
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành
động của con ngời, xuất hiện khi con ngời chuẩn bị hành

động. Phản biện làm cho mỗi một hành vi đợc tiến hành
trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lợng khoa học đối với


nó. Nếu không có phản biện có nghĩa là con ngời mặc
nhiên hành động mà không thèm đếm xỉa đến sự xác
nhận của xà hội về tính phù hợp, tính đúng đắn của hành
động đó. Phản biện xà hội là một khái niệm chính trị, là
biểu hiện đặc trng chuyên nghiệp nhất của cái gọi là đời
sống dân chủ. Phản biện trong một xà hội dân chủ là môt
loại "phản hành động" ("phản hành động" chứ không phải
là "phản động"). Nó xuất hiện song song cùng với các hành
động, nó xuất hiện đối lập với tất cả các hành động.
Trong mỗi một xà hội bao giờ cũng có nhiều nhóm lợi ích khác
nhau. Các nhóm lợi ích bao giờ cũng có nhu cầu tiến hành
hành động vì một mục tiêu nào đó. Nhng trên mỗi khía
cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con ngời bao giờ cũng
có những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách
hành động khác nhau để đạt đợc mục tiêu nh vậy. Phản
biện tạo ra một giai đoạn đệm cho quá trình hành động tự
nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và
thỏa thuận. Phản biện làm cho các hành vi chính trị,
kinh tế và xà hội trở nên ít chủ quan hơn, tức là sự
xung đột của các nhóm lợi ích đà đợc điều chỉnh
thông qua thảo luận và thoả thuận. Nói cách khác, phản
biện làm cho những cuộc xung đột trên thực tế trở thành
cuộc xung đột của thảo luận, tức là biến sự xung đột lợi ích
trong hành động thành các xung đột lợi ích trong th¶o luËn.



Nếu một xà hội không có phản biện và mỗi hành động đều đợc đơng nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt
nhất tính chất phi dân chủ của xà hội. Bởi vì mỗi một hành
động chính trị bao giờ cũng là kết quả thỏa thuận của các
khuynh hớng chính trị, một hành động chính trị chỉ có
thể đợc tiến hành khi nó là sự thúc bách của nhu cầu đời
sống và để cân đối các nguyện vọng khác nhau của đời
sống. Ví dụ trong đời sống hằng ngày của tôi chẳng hạn,
nếu tôi luôn cố gắng tạo ra các không gian chính trị trong
khuôn khổ tổ chức mình để các phản biện đợc thực hiện
một cách tự nhiên thì chính các phản biện này sẽ làm cho
các hành động của tôi trở nên có chất lợng khoa học và do
đó kéo theo cả chất lợng chính trị của chúng, làm cho các
hành động ấy trở nên đúng đắn. Chính vì vậy, để có
một xà hội có chất lợng hành vi đúng đắn cần phải khẳng
định tầm quan trọng của các hoạt động phản biện. Phản
biện là một đòi hỏi khách quan của đời sống. Nói một cách
khái quát, phản biện là một thể hiện của các phản hành
động xuất hiện một cách tự nhiên trong một xà hội mà ở đó
mỗi con ngời đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình.
Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hớng kinh tế,
văn hoá, chính trị, làm cho các khuynh hớng đó trở nên khoa
học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con ngời hơn.
Cho đến lúc này, ở nhiều nơi, trong một số hệ thống chính trị
dờng nh vẫn cha có một khái niệm hoàn chỉnh về cái gọi là
phản biện. Tất nhiên, trong bÊt cø mét hƯ thèng chÝnh trÞ


nào ngời ta cũng không thể bỏ qua nhân dân đợc, cho nên
tất cả mọi chính sách trong khi xây dựng đều đợc hỏi ý
kiến nhân dân. Nhng hỏi ý kiến nhân dân là việc trng

cầu dân ý một cách không chuyên nghiệp và hoàn toàn
không phải là phản biện. Phản biện là một hoạt động khoa
học, phản biện là tranh luận một cách khoa học chứ không
phải là hỏi xem anh có đồng ý với tôi hay không. So với trng
cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trng cầu
dân ý là hỏi dân. Phản biện không phải là hỏi dân. Phản
biện không phải là nhân dân trả lời mà là nhân dân
nói tiếng nói của mình. Và tiếng nói ấy đợc chuẩn bị
một cách chuyên nghiệp bằng trí tuệ, bằng sự thông hiểu
lẫn cả dự đoán về sự xung đột lợi ích khi tiến hành một
hành động xà hội. Về bản chất chính trị, phản biện là một
quyền tự do đợc xây dựng trên cơ sở quyền tự do ngôn
luận. Nếu không xác lập quyền phản biện tức là quyền tự
do ngôn luận mà trng cầu dân ý thì chỉ có hai khả năng:
gật và lắc. Nhng cả gật và lắc đều diễn ra trong im lặng.
Im lặng không phải là ngôn luận. Ngôn luận là bày tỏ ý kiến
một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học. Đấy là một hoạt
động của xà hội dân sự, nhng không phải là hoạt động
nhân dân đơn giản mà là hoạt động thông qua một hệ
thống tranh luận chuyên nghiệp.
Nếu trng cầu dân ý là đi tìm sự đồng thuận đơn giản
thì phản biện là đi tìm sự đồng thuận có chất lợng
khoa học. Đấy là sự khác nhau về chất lợng giữa phản biện


và hỏi ý kiến nhân nhân. Để có đợc sự đúng đắn thì
trong mọi quyết sách nhà nớc phải đo sự đồng thuận của xÃ
hội thông qua phản ứng của nhân dân. Để đo đợc tính
đồng thuận xà hội cần phải xây dựng thiết chế cho nó trớc.
Không thể ngẫu hứng đợc. Nếu nhân dân cha biết gì về

dân chủ thì không thể trng cầu ý kiến nhân dân về dân
chủ. Trong một xà hội không dân chủ thì nhân dân không
có trách nhiệm, mỗi một ngời không có trách nhiệm mà
chúng ta lấy ý kiến của những ngời không có trách nhiệm
thì ý kiến ấy cuối cùng phản ánh cái gì? Đấy chính là căn cứ
để các nhà chính trị bỏ qua ý kiến của nhân dân. Sở dĩ
không có sự đồng thuận trong các xà hội không phát triển là
do ngời ta vẫn nhầm lẫn giữa phản biện và hỏi ý kiến nhân
dân. Muốn có sự đồng thuận có chất lợng, chúng ta buộc
phải xây dựng thiết chế phản biện. Các chính sách trớc khi
thực hiện không những cần phải đợc đo đạc rất cẩn thận,
mà còn phải đợc xử lý về mặt số liệu một cách cẩn thận, từ
đó chúng ta mới có đợc những chính sách phù hợp với đòi hỏi
của cuộc sống. Sẽ rất mất thì giờ nếu chúng ta chỉ biểu
diễn sự đồng thuận bằng các phơng pháp trng cầu dân ý
một cách không chuyên nghiệp.
II. Từ phản biện đến phản đối
Nh đà nói ở trên, phản biện là trạng thái chuyên nghiệp của quá
trình thảo luận, cho nên, nếu không xây dựng nền văn hoá
thảo luận thì không thể có nền văn hoá phản biện mà chỉ


có nền văn hoá chống đối. Cần phải hiểu rằng phản biện
không phải là chống đối. Khất lần phản biện tức là
khuyến khích chống đối. Chống đối phát triển thêm một
chút là thành phá phách, phát triển thêm chút nữa thành
cách mạng. Tự do ngôn luận chính là năng lực đau và kêu
đau. Đau và kêu đau là năng lực của cuộc sống để thể
hiện tất cả các khuyết tật, các vấn đề bên trong của nó.
Nếu không có những quyền nh biểu tình và ngôn luận thì

con ngời không có năng lực kêu đau. Biểu tình và ngôn
luận là hai cấp độ khác nhau của năng lực kêu đau của đời
sống xà hội đối với các chính sách. Biểu tình là phản ứng
trực tiếp của ngời dân, ngôn luận không phải là phản ứng
trực tiếp từ ngời dân mà chủ yếu là phản ứng của bộ phận
chuyên nghiệp của xà hội, tức là có những bộ phận điều tra
chuyên nghiệp về các cơn đau của xà hội đối với các tác
động khác nhau của chính sách. Trong một xà hội phi dân
chủ, con ngời không có các quyền nh vậy, không có quyền
tự do ngôn luận, quyền biểu tình, quyền lập hội... tức là
quyền đề kháng những trạng thái thái quá hay những biểu
hiện của trạng thái lộng hành của nhà nớc đối với xà hội. Nhng
ngay cả khi nhà nớc không ủng hộ, không khuyến khích,
thậm chí chống lại, thì những phản ứng nh vậy vẫn luôn
tồn tại mà không hề biến mất. Trong trờng hợp đó, bản năng
kêu đau của cuộc sống vẫn tồn tại, nó tích tụ lại ở bên trong
và đến một mức nào đó tạo thành những cơn bùng nổ đợc
gọi là cách mạng xà hội. Cách mạng xà hội không phải là cuộc


cách mạng chính trị. Cách mạng chính trị là bề mặt của
các cuộc cách mạng xà hội, là khía cạnh chuyên nghiệp, khía
cạnh bị kích động và khía cạnh đợc tổ chức của cách mạng
xà hội. Còn cách mạng xà hội là nỗi uất ức tồn tại bên trong
lòng xà hội, sau khi đợc các nhà chính trị khai thác và tổ
chức mới trở thành các cuộc cách mạng chính trị. Khi đà xuất
hiện các cuộc cách mạng xà hội tức là xà hội đà đi quá giới hạn
chịu đựng của nó.
XÃ hội có thể trở thành sản phẩm của hệ thống chính trị nếu
hệ thống chính trị nào không ý thức đợc rằng chính sách

nào thì sinh ra xà hội ấy. Xà hội có thể không vĩnh viễn trở
thành sản phẩm của hệ thống chính trị nhng những trạng
thái của nó là hệ quả của hệ thống chính trị ấy. Ví dụ, có
những xà hội mà trong suốt một thời kỳ rất dài im phăng
phắc, không ai dám nói to tên các nhà lÃnh đạo cả. Nếu cứ
tiếp tục duy tr× nh thÕ th× cã thĨ nãi r»ng tÊt cả các trạng
thái sợ hÃi ấy tạo ra một xà hội sợ hÃi. Một xà hội sợ hÃi là một xÃ
hội sợ phát triển, sợ thay đổi, một xà hội yên phận thủ thờng.
Vấn đề đặt ra là chúng ta muốn gì? Với t cách là các lực lợng xà hội, chúng ta muốn gì thì phải nói rõ, và nhà nớc
cũng phải tỏ rõ quan điểm là nhà nớc muốn gì, tức là phải
tạo ra quá trình đối thoại. Không có một xà hội đối thoại
giữa các nhóm lợi ích khác nhau thì không thể có phản biện
xà hội bởi vì xà hội không có thói quen thảo luận. Khi đó,
năng lực phản biện đáng ra xà hội cần có để làm cho đúng
đắn hơn các quyết định chính trị của nhà cầm quyền đ-


ợc thay thế bằng sự phản đối xà hội. Sự phản đối xà hội và
sự phản biện xà hội là hai cách thể hiện những trạng thái
chính trị khác nhau của xà hội đối với nhà nớc. Phản biện là
hoạt động thân thiện, là hoạt động có trách nhiệm, là sự
kết hợp giữa trí tuệ xà hội với trí tuệ của hệ thống chính trị
để tạo ra tính chính xác, tính đúng đắn của các quyết
định chính trị. Còn phản đối là các phản ứng cực đoan ở
những cấp độ khác nhau, cùng phát triển với sự sai lầm của
các quyết định chính trị. Nếu không tổ chức phản biện xÃ
hội một cách chuyên nghiệp, một cách đúng đắn và một
cách thân thiện thì chắc chắn chúng ta sẽ hớng dẫn xà hội
biến hoạt động phản biện trở thành hoạt động phản đối.
Khi sự phản đối ấy đợc chuẩn bị một cách âm thầm cùng với

tốc độ tăng trởng của các sai lầm chính trị thì nó có thể
trở thành sự chuẩn bị cho một cuộc cách mạng. Đó là tất
yếu.
Phản biện xà hội chính là biện pháp thay thế sự chống đối xÃ
hội, hay nói cách khác, cần phải thay thÕ tù do c·i cä b»ng tù
do ng«n luËn. ở nớc Anh, trong công viên Hyde Park ngời ta
dành riêng một khu cho những ngời muốn nói xấu Nữ hoàng
và Thủ tuớng. ở đấy ngời ta có thể nói thoải mái để xả hết
cơn tức. Do sự bức xúc của đời sống nên con ngời có những
nhu cầu nh vậy. Sự va chạm tự nhiên của các nhóm lợi ích
hay của các lợi ích tạo ra sự cÃi cọ. Cần phải hớng dẫn những
sự cÃi cọ bản năng trở thành những cuộc thảo luận chuyên


nghiệp mà biểu hiện cao nhất của nó là phản biện thì mới
có thể có một xà hội ổn định và phát triển.
III. Điều kiện để phản biện xà hội trở thành một hoạt
động có chất lợng khoa học
Muốn có phản biện xà hội thì trớc hết xà hội phải có thói quen
thảo luận, mà muốn tạo thói quen thảo luận cho xà hội thì
nhất thiết phải trả lại cho xà hội cảm hứng nói, tức là trả lại
cho xà hội quyền tự do ngôn luận để khích lệ xà hội tham
gia vào những cuộc thảo luận hoặc tranh luận trên quy mô
xà hội về tất cả các vấn đề. Khi xà hội đợc huấn luyện thông
qua những cuộc thảo luận nh vậy thì xà hội mới có đủ năng
lực để phản biện những vấn đề hệ trọng khác, vì khi nói
đến phản biện xà hội tức là phản biện những vấn đề hệ
trọng của đời sống chính trị. Cho nên, điều kiện thứ
nhất là cần phải thực thi tự do ngôn luận. Phản biện là
biểu hiện chuyên nghiệp của việc ngời ta thực thi quyền tự

do ngôn luận nên phải khẳng định quyền tự do nói trớc. Tự
do ngôn luận là quyền đầu ra của mọi ý kiến phản biện.
Nếu không có tự do ngôn luận thì không có cách gì để
phản biện. Không có quyền nói thì anh cứ nghĩ mÃi và anh
có nghĩ kiểu gì, nghĩ hay đến mấy mà không nói đợc thì
cũng vô ích vì anh không có cách gì để thể hiện đợc ý
nghĩ ấy. Nếu hạn chế quyền tự do phổ biến các quan
điểm thì có nghĩa là dành toàn bộ các quyền tự do cho
một loại quan điểm và nếu xà hội chỉ đợc hớng dẫn bằng


một loại quan điểm thì vô cùng nguy hiểm vì nó tất yếu sẽ
dẫn đến sự đơn điệu và lệch lạc của đời sống. Cho nên,
tự do ngôn luận chính là một trong những chìa khoá cực kỳ
quan trọng để làm cân bằng tất cả các khuynh hớng, để
mỗi một điểm trong đời sống xà hội nhận đợc nhiều thông
tin khác nhau giúp cho các thành viên trong xà hội có năng lực
lựa chọn. Bản chất của tự do là quyền đợc lựa chọn và sự
phong phú để lựa chọn. Muốn có sự phong phú để lựa chọn
thì con ngời phải có quyền phổ biến quan điểm, tức là
quyền tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận là tiền đề,
là điều kiện cơ bản để con ngời thực thi các quyền tự do
lựa chọn.
Thứ hai, phản biện xà hội là trạng thái chuyên nghiệp của
quá trình thảo luận cho nên nó cần có sự tham gia
của hai lực lợng, lực lợng thứ nhất là để nói một cách
chuyên nghiệp và lực lợng thứ hai là để nghĩ một
cách chuyên nghiệp. Trớc khi nói phải nghĩ, nghĩ chuyên
nghiệp là giới trí thức và nói chuyên nghiệp là giới báo chí.
Phản biện xà hội là sự tranh luận một cách chuyên nghiệp

giữa các lực lợng xà hội với nhau hoặc là với nhà cầm quyền
để tạo sự chính xác chính trị của mỗi một hành động có
chất lợng chính sách hoặc định hớng, cho nên, nếu không
có sự tham gia của hai lực lợng này thì quá trình còn lại là
quá trình phản ứng xà hội chứ không phải là phản biÖn x·
héi.


Vấn đề của những nớc chậm phát triển là cần phải xây dựng
một đội ngũ trí thức. Tại sao lại đặt ra vấn đề này? Bởi vì
với chất lợng con ngời ở những nớc này thì cha thể có đội
ngũ trí thức tiên tiến đợc. Đội ngũ trí thức ở đó mới đạt đến
trạng thái hơn nhân dân và họ tự hào là mình hơn nhân
dân. Đó là nỗi đau khổ lớn nhất và là chỉ tiêu tập trung
nhất để mô tả tình trạng chậm phát triển của xà hội. Khi
nào giới trí thức nhận thức đợc rằng trí thức là tội đồ của
nhân dân, có sứ mệnh nghĩ hộ nhân dân, nghĩ trớc nhân
dân và biết biến nhân dân trở thành đồng minh của sự
suy nghĩ của mình thì đấy là dấu hiệu bắt đầu của sự
phát triển. Vở kịch "Nguyễn TrÃi ở Đông Quan" của Nguyễn
Đình Thi cách đây gần ba chục năm đà nói điều này, đó
là ngời trí thức phải nói hộ nhân dân. Tuy nhiên, ngời trí
thức nói hộ nhân dân thì vẫn cha đủ ®Ĩ t¹o ra sù ®ång
thn x· héi. Ngêi trÝ thøc không chỉ nói hộ nhân dân mà
quan trọng hơn là phải hớng dẫn nhân dân để tạo cho
nhân dân thói quen nói lên tiếng nói của chính mình.
Khi ngời trí thức yêu nhân dân của mình thì thành đạt bao
nhiêu cũng không đủ, cũng không làm cho ngời ta thoả mÃn
bởi lý tởng của tri thức nằm trong nỗi khổ, trong sự suy
nghĩ của nhân dân chứ không phải nằm trong sự thành

đạt của cá nhân. Những trí thức Pháp ở thời kỳ Khai sáng
chính là những ví dụ về tầng lớp trí thức coi mình là tội
đồ của nhân dân. Nhà nớc Pháp truy bắt Diderot, truy bắt
Montesquieu, truy bắt Voltaire. Voltaire phải trốn lên biên giới


trong các nhà thờ lớn của nớc Pháp, ở đấy ông ta viết những
tác phẩm về tự do. Montesquieu và Diderot cũng thế. Cho
nên, xà hội muốn phát triển thì việc đầu tiên là phải phát
triển đội ngũ trung lu của xà hội mà ở những nớc chậm phát
triển thì tầng lớp trung lu của xà hội là những ngời trí thức,
chứ không phải là những kẻ buôn bán lắm tiền.
Bộ phận nói chuyên nghiệp là giới báo chí ở những quốc gia
chậm phát triển cũng có những vấn đề của nó. Do sự bức
xúc của đời sống nên giới báo chí thờng có xu hớng cứ đòi
hỏi, cứ làm to tất cả những thứ thực ra rất khiêm tốn, rất
gần gũi với đời sống con ngời. Đấy chính là một trong những
nhợc điểm của giới báo chí. Tôi cho rằng chúng ta không nên
đao to búa lớn, không nên gạch chân dới những đòi hỏi của
mình. Chẳng hạn, trong một chế độ chính trị chịu sự chi
phối của quá khứ mà đòi hỏi các nhà chính trị phải thay
đổi hay phải cắt bỏ ngay những bộ phận đà đợc mà hoá
bởi quá khứ ra khỏi cơ thể chính trị thì đó là đòi hỏi khó
chấp nhận. Nhng nếu chúng ta đa ra những đòi hỏi về xÃ
hội dân sự thì đấy lại là quyền rất chính đáng. Chúng ta
hÃy đòi hỏi một cách từ tốn tất cả những gì cần cho đời
sống con ngời. HÃy chia nhỏ tất cả những đòi hỏi lớn. Chúng
ta xây dựng nền dân chủ bằng việc xây dựng các quyền
nhỏ nhoi liên quan đến thân phận con ngời trớc. Và chúng
ta thấy rằng tất cả những thứ nhỏ nhoi khiêm nhờng ấy

không chỉ chúng ta cần, mà con cái những nhà chính trị
cầm quyền cũng cần. Họ thấy sự gần gũi của những đòi hái



×