Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài thu hoạch môn tư tưởng hồ chí minh bảo tàng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.44 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
(Chi nhánh TP.HCM- Bến Nhà Rồng)

Trường: Đại học Kinh Tế TP HCM
Lớp : 92 _ K35
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Trung
Họ và tên sinh viên: Huỳnh Thị Thuỳ Trâm
STT: 239

1


I-Vài nét về bảo tàng Hồ Chí Minh (Chi nhánh TP Hồ Chí Minh- Bến Nhà Rồng):
Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh hiện tọa lạc tại số 1 Nguyễn Tất Thành, phường
12, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Là một đơn vị thuộc Sở Văn hố Thơng tin TP. Hồ Chí Minh và là
một chi nhánh nằm trong Hệ thống các Bảo tàng và Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Ch Minh trong cả
nước.
Bảo tàng trước đây là một trụ sở của Tổng Cơng ty vận tải Hồng đế (Messageries Impériales) - một
trong những cơng trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gịn.
Ngơi nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc phương
Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mơ típ “ Lưỡng long chầu nguyệt” một kiểu kiến trúc quen thuộc của đình chùa Việt Nam. Với kiểu kiến trúc độc đáo đó nên trụ sở của Tổng
Cơng ty vận tải Hồng đế (Hotel Des Messageries Impériales) còn được gọi là Nhà Rồng và bến cảng cũng mang
tên là Bến Nhà Rồng.
Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, thương cảng Sài Gịn được chuyển giao cho chính
quyền miền Nam Việt Nam quản lý. Họ đã tu bổ lại mái ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng
khác với tư thế quay đầu ra. Năm 1965, ngôi Nhà Rồng do quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan tiếp nhận


viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1957, sau ngày đất nước thống nhất, Nhà Rồng - biểu tượng của cảng Sài Gòn - thuộc
Cục đường biển Việt Nam quản lý.
Để ghi nhớ sự kiện ngày 5/6/1911, Bác Hồ (lúc bấy giờ là Văn Ba) đã xuống tàu Amiral Latouche Tréville từ
bến cảng Sài Gòn, để đi ra nước ngồi tìm đường cứu nước, sau ngày giải phóng đất nước Nhà Rồng được giữ lại
làm Di tích Lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 2/9/1979 - nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của Người - nơi
đây đã mở cửa đón khách tham quan phần trưng bày về “Sự nghiệp tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (1890- 1945)”. Đến ngày 20/9/1982, Uỷ ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh chính thức chuyển “Khu lưu niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh” thành “Bảo tàng Hồ Chí Minh. Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh”. Bảo tàng có nhiệm vụ
nghiên cứu sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trên cơ sở các tư liệu, hiện vật của Bảo tàng; đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường
cứu nước và mối quan hệ của Bác Hồ đối với nhân dân Sài Gòn và nhân dân miền Nam
Ngồi những hoạt động chính, Bảo tàng cịn tiến hành những hoạt tuyên truyền giáo dục rộng rãi nhằm làm
cho tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh đi sâu vào quần chúng nhân dân, đặc biệt là các thế hệ trẻ. Đó là các

2


hoạt động như: tổ chức các Hội nghị khoa học, các cuộc toạ đàm giữa các thế hệ, nói chuyện chuyên đề về Bác,
chiếu phim, thực hiện sưu tập những tư liệu hồi ký về Bác, các ấn phẩm về Bảo tàng, tổ chức kết nạp Đảng, Đoàn,
Đội; tổ chức thi tiếng hát về Bác Hồ… Bảo tàng còn là nơi hội họp, gặp gỡ của các tổ chức, đoàn thể đến sinh hoạt
truyền thống, học tập và vui chơi; là nơi ra quân của nhièu phong trào cách mạng sôi nổi của thành phố, đặc biệt
các ngày 30/4, 1/5, 5/6 ,2/9…
Trong gần 30 năm hoạt động, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã trở thành một trung
tâm giáo dục về lịch sử cách mạng, về tư tưởng đạo đức và cuộc đời hoạt động vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bảo tàng đã đón tiếp trên 15 triệu lượt khách tham quan từ khắp nơi trong nước và khách quốc tế, đặc biệt có hàng
trăm đồn ngun thủ quốc gia và cao cấp các nước đến thăm viếng, tìm hiểu nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí
Minh … Với những thành tích trên, năm 1966 bảo tàng vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao
Động hạng III. Đặc biệt, năm 1998 nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh , Nhà Rồng đã
được chọn làm biểu tượng của Thành phố.
II- Sơ lược về thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19-5-1890), thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung, ra đời tại quê
mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen), cùng
thuộc xã Chung Cự, cách Hoàng Trù 2km (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Xuất
thân từ gia đình nơng dân, sớm mồ côi cha, mẹ, từ nhỏ đã chịu khó lao động và ham học.
Thân mẫu là Hồng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống
bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng chăm lo cho chồng con ăn học.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.
Chị là Nguyễn Thị Thanh, cịn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884.
Anh là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888.
Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian, lợp tranh, trên đất vườn của ông bà
ngoại tại Hồng Trù.
Khoảng tháng 6 năm 1894, Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: Cha đậu cử nhân, khoa thi giáp Ngọ
năm thành Thái thứ 6 tại trường thi Nghệ An.
Khoảng gần cuối năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha mẹ vào Huế. Thời kỳ này từ Nghệ
An đi Huế chưa có đường xe lửa và ơ tơ. Mọi người phải đi bộ, trẻ em thường ngồi trong quang gánh của
người lớn. Tới Huế, lúc đầu gia đình Nguyễn Sinh Cung phải ở nhờ những người quen, sau ở tạm trong một
gian trại lính gần Viện đơ sát (ngày nay là nhà số 114, đường Mai Thúc Loan).
Gần cuối năm 1898, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha đến ở nhà ông Nguyễn Sĩ Khuyến, làng
Dương Nổ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Lúc này, ông Nguyễn Sinh Sắc mở lớp dạy
chữ Hán cho một số học sinh trong làng, Nguyễn Sinh Cung cũng theo học.

3


Ngày 10 tháng 2 năm 1901, Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong tuổi thiếu niên: bà Hoàng Thị
Loan, thân mẫu lâm bệnh qua đời tại Huế. Bà đã được những người láng giềng thân thiết lo việc mai táng, vì
lúc này ơng Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê nhà.
Sau khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Xin (em trai Nguyễn Sinh Cung, sinh vào cuối

năm 1900 tại Huế; sau khi bà Hoàng Thị Loan mất, Nguyễn Sinh Xin được ông Nguyễn Sinh Sắc đưa về
Hồng Trù gửi bà ngoại trơng nom, nhưng yếu sức nên mấy tháng sau thì chết) về quê.
Tại quê, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hoàng Phan Quỳnh, lớp học mở tại xóm Vang, (nay
thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Tháng 5 năm 1901, một tin vui đến với gia đình Nguyễn Sinh Cung và dân làng: Ông Nguyễn Sinh
Huy (Nguyễn Sinh Sắc) đậu Phó bảng khoa thi Hội, Tân Sửu, năm Thành Thái thứ 13.
Nhân dịp vinh quy về làng, ông Nguyễn Sinh Sắc làm lễ "Vào làng" cho hai con trai, với tên mới là
Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Cũng như nhiều vùng khác ở nông thôn Nghệ An, Làng Sen vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm từ khi
mất nước. Tại đây, ngoài nghề làm ruộng, bà con nơng dân cịn làm nhiều nghề khác như dệt vải, đan lát
hoặc nghề sơn tràng, kiếm củi, đốt than...
Khoảng năm 1901-1902, Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của các bậc cha chú
thông qua mối quan hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng.
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, Nghệ An
và tiếp tục học chữ Hán.
Tháng 7 năm 1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình trong dịp ông
Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu ở vùng đó.
Theo cha đi khắp đó đây, tầm mắt Tất Thành được mở rộng, quả là "đi một đoạn đàng, học một sàng
khơn". Anh thấy đâu đâu cảnh nghèo đó cũng phơi bày ra trước mắt. Nhan nhản người ăn xin ở khắp mọi
nơi. Hầu như làng quê nào cũng chỉ nổi lên vài ba ngôi nhà đồ sộ bên cạnh hàng trăm túp lều xơ xác, tiêu
điều. Mùa đông giá lạnh càng nhiều cảnh thê thảm hơn. Không đủ manh áo che thân, nhiều người phải quấn
tơi, chiếu hoặc bao tải rách. Bọn đế quốc và địa chủ phong kiến đang hút tủy, rút xương dân chúng bằng
hàng trăm thứ thuế nặng nề và phu đài, tạp dịch. Từ người lớn đến trẻ con ai ai cũng sợ "ông Tây". Anh
Thành cảm thấy nỗi nhục mất nước hằn rõ trên gương mặt mỗi người Việt Nam.
Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ xin cho theo học lớp dự bị
Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh.
Chính tại Trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH
ĐẲNG - BÁC ÁI.
Cái nôi quê hương giàu truyền thống bất khuất với bản sắc riêng của xứ Nghệ đã tạo cho Nguyễn Tất
Thành sớm có lịng u nước, thương dân, căm thù giặc và ý chí "Làm trai cho đáng nên trai". Những tấm

gương của các thầy giáo và những hoạt động sôi nổi của các bậc cha chú như Phan Bội Châu... đã kích thích
cao độ chí làm trai của anh. Thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, phong kiến và nhận thức được
thời cuộc, lòng thương dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành nhân cách của
anh.

4


III- Quá trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước với tên gọi là Văn Ba
đã nhận làm phụ bếp cho tàu Pháp Latusơ Tơrêvin – mang trong mình một hồi bão lớn lao là tìm cho được
con đường cứu nước, con đường giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn tay sai.
Tàu đến Mác-Xây ngày 06 tháng 7 năm 1911, dọc đường đi Người có đi qua cảng Cơlơmbơ (Xâylan
nay là Xrilanca), cảng Poxait (Ai Cập). Từ Pháp, Người tiếp tục đi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Tuy-ni-đi,
An-giê-ri, Ghi nê xích đạo… trong cuộc hành trình của mình, làm thuê trên chiếc tàu vịng quanh Châu Phi,
Người đã tận mắt trơng thấy những cảnh khổ cực, lầm than của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân.
Giữa tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, cùng với việc lao động kiếm sống, Người
còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu cách mạng Tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng
Nữ thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để y đến vầng hào quang trên đầu tượng mà xúc động trước cảnh
nô lệ dưới chân tượng.
Đến cuối năm 1913, Người từ Mỹ trở về Anh, rồi về Pháp. Sau những năm bôn ba, làm đủ nghề để
kiếm sống, hịa mình trong phong trào quần chúng, người lao động ở các nước đế quốc tư bản, Người đã
nhận rõ ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là sự kiện có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng
cứu nước và hoạt động yêu nước của Nguyễn Tất Thành. Người trở về Pháp, hịa mình trong phong trào đấu
tranh chính trị sơi nổi của nước Pháp và tham gia Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1919 với danh nghĩa là người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến hội nghị Vécxây bản u sách
địi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dù khơng được hội nghị quan
tâm nhưng đây là địn trực diện đánh vào bọn thực dân, đế quốc.
Giữa lúc ấy vào tháng 7 năm 1920, sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn

đề thuộc địa của Lênin đến với Người. Được sự giúp đỡ của nhiều đồng chí cách mạng Pháp, trong đó có
Mácxen Casanh, Pơn Vayăng, Cutuyariê, Mơngmútxơ… Người càng thấy rõ hơn Quốc tế thứ ba và bản
luận cương của Lê nin thật sự đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho
đồng bào. Từ bản luận cương của Lê nin, Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Sau này, Người đã nhắc lại cảm tưởng
của mình khi được đọc luận cương của Lênin: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ đó, Người hồn tồn tin theo Lênin và Quốc tế thứ 3.
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua (12/1920), Người tán thành Quốc
tế thứ 3, trở thành người Việt Nam tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Như vậy, đến năm 1920 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc ta, đó là: kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần Quốc tế vô sản. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập
trung mọi nỗ lực vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin trong phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách
mạng tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

5


Qua gần 4 năm tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, không ngừng rèn
luyện và nâng cao trình độ lý luận, khả năng tuyên truyền, tổ chức, với cương vị là ủy viên Ban Đông
Phương phụ trách cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu (Trung
Quốc) với mục đích tạo ra một địa bàn hoạt động mới để gây dựng phong trào cách mạng trong các tầng lớp
nhân dân ở Đông Nam Á theo đường lối của Quốc tế Cộng sản.
Đến tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc chính thức thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
hội và tổ chức “Cộng sản đồn” làm nồng cốt cho Hội, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền

bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Trước yêu cầu bức thiết của thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, ngày 03/02/1930, Nguyễn Ái
Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (Hương
Cảng). Hội nghị thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lượt vắn tắt.
Từ khi có đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng tại Việt Nam chuyển dần từ tự phát sang tự giác và
giành được nhiều thắng lợi to lớn nâng dần chất và lượng.
IV- Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân Việt Nam kháng chiến chống Pháp và làm cuộc Cách
Mạng Tháng Tám thành công:
Tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Mùa xuân năm
1933, Người được trả tự do.
        Từ 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại
Mátxcơva. Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi chỉ đạo phong
trào cách mạng trong nước.
       Tháng 10 năm 1938 Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về
nước.
        Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.
        Tháng 5-1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định
đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức lực
lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
        Tháng 8-1942, lấy tên Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt
Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp
hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng
Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người
đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do.
       Tháng 9-1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
        Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước
Đồng minh. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị
của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội
Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ

tịch.
       Tháng 8-1945, Người lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

6


Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
V- Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân thực hiện 9 năm kháng chiến chống Pháp giành
chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử:
Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn
ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh
thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc kháng chiến toàn dân, tồn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng
lợi.
        Tháng 2-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng
nhằm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt
Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của
nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hồn tồn miền Bắc.
VI- Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
       Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
        Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, họp vào tháng 9 năm 1960, Người khẳng định: “Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất nước nhà”. Tại
Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
        Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt
Nam. Người động viên tồn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc

Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ !
Khơng có gì q hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn!”.
       Từ năm 1965 đến tháng 9-1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân
Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền
Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
VII- Sự mất mát không thể bù đắp được của cách mạng Việt Nam:
Vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập, để lại
nỗi tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về những
ngày tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.... "
Từ nǎm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những
năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần
vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo “Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc,

7


phục vụ cách mạng được mấy năm tháng nữa”. Rõ ràng Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng
của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. Từ dự cảm đó, Người viết: “Vì vậy, tơi để lại mấy lời này, chỉ
nói tóm tắt vài việc thơi. Phịng khi tơi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác,
thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”.
Vì vậy, Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho
nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng
cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, tồn dân tộc, với cách mạng
Việt Nam và với cách mạng thế giới.
Trong bản di chúc, người đã dặn dị những nhiệm vụ chính của Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước, sự nghiệp của Đảng, sự nghiệp đào tạo đoàn viên, thanh niên

- Về sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định giải phóng miền Nam và qua đó, giải phóng
hồn tồn và thống nhất đất nước như một tất yếu, dù phải kéo dài, đặc biệt ta có thể phải hy sinh nhiều của,
nhiều người. Người đã nói: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể cịn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy
sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hồn tồn.
Cịn non, cịn nước, cịn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định
phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một
nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và
Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc".
- Nói về Đảng, trong Di chúc Người viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, vǎn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân...".
về Đoàn viên và thanh niên, , trong di chúc Bác căn dặn:
“Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn,
có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết. “
Đến những ngày cuối đời, trong lòng Người vẫn canh cánh một nỗi niềm muốn được cống hiến
nhiều hơn nữa cho cách mạng Việt Nam : “Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc
rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đồn kết một lịng đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ bằng chiến thắng Điện Biên Phủ trên không” kéo dài
12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội (từ ngày 18/12 –30/12/1972) đã buộc chính phủ Mỹ phải ký Hiệp

8



định Paris ngày 27/01/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền
Nam Việt Nam.
VIII – Bác Hồ - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam :
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của khơng chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà còn là của
cả cách dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trên thế giới. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Mác-Lênin ở Việt Nam, sáng
lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn
cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, vơ cùng
khiêm tốn, giản dị.
Cả cuộc đời vĩ đại của Hồ Chủ Tịch là tấm gương sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần
độc lập tự chủ, lòng yêu nước thương dân thắm thiết, đạo đức, chí cơng vơ tư, tác phong khiêm tốn giản
dị. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những là một nhà chính trị lỗi lạc mà cịn là một nhà giáo dục, một nhà
văn hóa lớn. Vì vậy năm 1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, Tổ chức Giáo dục và
Văn hố Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa kiệt xuất".
Vị đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO đã phát biểu : “Hồ Chí Minh sẽ được ghi nhận
khơng chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đơ hộ mà cịn là một nhà hiền triết hiện đại đã
mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại
bỏ bất cơng, bất bình đẳng khỏi trái đất này”
IX – Vai trò của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước :
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn kiện Đại hội VII cũn g như Điều lệ Đảng sửa đổi thông qua Đại hội đã khẳng định: “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp – một trong những học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh – đã

đánh giá rằng : “Thế giới đã và sẽ đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi trong kho tàng văn hóa
của nhân loại”.
X- Cảm nghĩ của bản thân qua chuyến tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh – chi nhánh
TP.HCM:
Qua chuyến tham quan bản thân em đã cảm nhận thêm được nhiều điều bổ ích về cuộc đời,
sự nghiệp của Bác, một con người đã cống hiến, đã hi sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp giải phóng giai cấp trên thế
giới.
Từ khi đất nước chìm đắm trong vịng nơ lệ, nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu dưới ách
thống trị của bọn thực dân phong kiến hung bạo, từ lúc mà hầu hết nhà yêu nước đương thời,
kể cả cụ thân sinh ra Người cũng đang bế tắc trong vấn đề tìm ra con đường cứu nước cho
dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được trách nhiệm thiêng
9


liêng của bản thân với Tổ quốc.
Bác Hồ – vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nước Việt Nam,
một con người hết lịng vì nước vì dân, hết lịng phục vụ đất nước từ khi Người đang còn rất trẻ.
Ở tuổi 21, Người đã mạnh dạn san phương Tây để tìm đường cứu nước, trải qua biết bao
khó khăn gian khổ, cuối cùng Người cũng tìm được đến chủ nghĩa Mác-Lênin và Người đã tìm
thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc ta, vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam từng
bước tiến lên, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Những gì Người đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như cách mạng
giải phóng giai cấp bị áp bức bóc lột trên thế giới là khơng gì có thể so sánh được. Bao nhiêu
năm rồi cũng sẽ trôi qua nhưng Bác Hồ sẽ sống mãi trong sự nghiệp chúng ta.
Đây là 1 hoạt động vô cùng bổ ích trong chương trình giáo dục ở bậc đại học, nó giúp
cho sinh viên hiểu rõ hơn truyền thống yêu nước, quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng
của dân tộc mà tiêu biểu trong đó là quá trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo nhân dân giành
độc lập dân tộc của Bác.
Chuyến đi này, cùng với chuyến tham quan Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh của bộ môn

Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh của bộ mơn Chủ Nghĩa Xã
Hội Khoa Học chính là những buổi học ngoại khóa hết sức thiết thực, nó giúp cho sinh viên
chúng em mở rộng thêm kiến thức, hiểu thêm về lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó càng nỗ lực
học tập để giúp ích cho đất nước.
Là sinh viên, công dân trẻ và là người chủ tương lai của đất nước, bản thân em thấy
mình phải có ý thức nhiều hơn nữa với sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời điểm hiện tại và
tương lai. Với ý chí và quyết tâm của mình, Bác từ 1 thanh niên u nước với đơi bàn tay trẳng
và lịng u nước nồng nàn của tuổi trẻ đã đem lại Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho cả dân tộc.
Giờ đây mỗi sinh viên với trách nhiệm và vai trò của mình phải góp phần xây dựng đất nước
ngày càng giàu đẹp trong thời kì đổi mới và hội nhập, để có thể đưa nước nhà sánh vai với các
cường quốc năm châu như mong ước của Bác để xứng đáng là con cháu Bác Hồ.

10



×