Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ảnh hưởng của tôn giáo tới việt nam trong quá trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.63 KB, 11 trang )

Bài luận chủ đề
Ảnh hưởng của tôn giáo tới Việt Nam trong q trình xây dựng
cơng nghiệp hố-hiện đại hố đất nước
Lời mở đầu

“Tơn giáo là một hình thái ý thức-xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của
điều kiện kinh tế xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã họi, tơn giáo cịn tồn tại
và có những biến đổi nhất định.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau và đang
có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để tiến hành thắng lợi cơng cuộc
đổi mới ở nước ta, trước hết địi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá
đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo đang và
sữ có nhiều biểu hiện mới, đa dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.”
(Trích giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học)


Tín ngưỡng tơn giáo là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng,
một lực lượng siêu nhiên, tơn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vơ hình
tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo.
Đối với Mác-Lênin, bản chất của tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một
cách hoang đường, hư ảo thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những
sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Có thể nói nó là một hiện
tượng xã hội, văn hóa, lịch sử. Tơn giáo gắn liền với lịch sử, nó như là một điều tất yếu
trong xã hội từ trước tới nay nhưng nó khơng phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới
mức độ nhất định.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con
người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gán
cho tự nhiên những sức mạnh. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tơn giáo. Đó là nguyên
nhân của những câu chuyện cổ tích, thần thoại,… Nhân dân muốn dựa vào đấy để lý giải
thiên nhiên, họ tự muốn an ủi mình trước những khó khăn của cuộc sống. Họ nghĩ ra


những nhân vật rồi tự mình tơn thờ những nhân vật đó (ví dụ như Lạc Long Quân, Âu
Cơ,…).
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc
của thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hố giai cấp
và áp bức bóc lột, tội ác,… và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường
hướng niềm tin ảo tưởng vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các tơn giáo.
Có thể nói sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh
tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa
của tôn giáo.
Tơn giáo là điều ln có trong xã hội vì đó là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,
là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
khơng có tinh thần” (theo C.Mác). Có thể nói tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân cũng
không sai chút nào. Tơn giáo có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội. Tôn
giáo chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Hầu hết


các tôn giáo đều dạy mọi người đều phải sống an bình, tránh xa chiến tranh và yêu
thương lẫn nhau.
Những giá trị về tinh thần của tôn giáo đem lại cho người dân đã đem lại cho tôn giáo
số lượng tín đồ vơ cùng lớn. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỉ lệ khá cao trong
dân số thế giới, nếu chỉ tính các tơn giáo lớn, đã có tới 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu
ảnh hưởng của tơn giáo). Sở dĩ con người có niềm tin vào tơn giáo vì nó ln ln phản
ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái…, bởi vì
tơn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện.
Trong xã hội khơng có giai cấp, tơn giáo chưa mang tính chính trị. Lúc đó tơn giáo
xuất hiện chỉ với mục đích đem lại niềm tin cho con người trước sức mạnh của thiên
nhiên. Nhưng khi các giai cấp thống trị manh nha xuất hiện, lúc ấy tính chất chính trị của
tôn giáo được thể hiện rất rõ. Các tôn giáo xuất hiện với mục đích ban đầu để chống lại
các thế lực thống trị về tư tưởng. Nhưng thời gian đó khơng được bao lâu, giai cấp thống

trị đã khôn ngoan lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình và để thu phục lịng dân.
Lúc ấy “thần quyền” và “thực quyền” đều nằm trong tay của giai cấp thống trị. Những
cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử như các cuộc thập tự chinh thời trung cổ ở châu
Âu hay xung đột ton giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakixtan, Ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen,
Bắc Capacdơ… đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội,
lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội bộ các tơn giáo,
cuộc đấu tranh giữa các dịng, hệ phái… nhiều khi cũng mang tính chính trị.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc còn tiếp tục và gay gắt: những tàn dư của
chế độ cũ vẫn cịn tồn tại: các thế lực phản động ln âm mưu khuyến khích những tàn
dư lạc hậu, lợi dụng tơn giáo để chống lại chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân và của dân tộc.
Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp khơng chỉ thể
hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia… mà cịn có tổ chức
ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia-đó là nhiều tổ chức
quốc tế của các tơn giáo với vai trị, thế lực khơng hề nhỏ trên toàn cầu và với những
trang bị hiện đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý… mà cả trong chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Vì thế, cần nhận thấy rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với


tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, song trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các
thế lực chính trị-xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.
Nước ta đang trong thời kỳ cơng nghiệp hố-hiện đại hố, song cịn tồn tại lâu dài các
tơn giáo, đó là do các ngun nhân chính sau:
Về nhận thức. Trong q trình xây dựng cơng nghệp hoá-hiện đại hoá và trong chế độ
xã hội chủ nghĩa trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật của con người chưa cho phép con
người có thể nắm bắt được và chế ngự các lực lượng của tự nhiên và xã hội tác động
thường xuyên tới cuộc sống; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa
giải thích được.
Thời đại bây giờ, nhân loại đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn về khoa học, y
tế, công nghệ thông tin, sinh học… đã giúp khả năng nhận thức của con người về xã hội

thay đổi rõ rệt và làm chủ được thiên nhiên. Tuy vậy, thế giới khách quan là vô cùng to
lớn, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một q trình và có giới
hạn, thế giới còn nhiều điều mà khoa học chưa thể làm rõ. Sức mạnh của thiên nhiên vẫn
còn tác động và chi phối đến đời sống của con người. Chính vì thế, tâm lý sợ hãi, trông
chờ và tin tưởng đến Thần linh chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội,
trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Về tâm lý. Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của loài người, ăn sâu vào tiềm
thức của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội bảo thủ hơn
so với tồn tại xã hội, trong đó tơn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ
nhất. Tín ngưỡng, tơn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến
nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một
kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần khơng thể thiếu của cuộc sống (ví dụ như việc mọi người
đến chùa vào những ngày lễ, đến cầu xin bình an cho gia đình và bản thân, hay thắp
hương cho những người thân đã khuất vào ngày giỗ,…). Vì thế, dù có thể có những biến
đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội… thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi
ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Về chính trị-xã hội. Trong các ngun tắc tơn giáo có những điểm cịn phù hợp với
chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá
trị đạo đức, văn hố của tơn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân


dân. Tôn giáo dạy con người ta “chân, thiện, mỹ”, dạy con người ta những nét đẹp, những
giá trị tinh thần to lớn. Nó hồn tồn phù hợp với chủ trương của những nước xã hội chủ
nghĩa.
Do vậy nhà nước khơng ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội của những người
theo tôn giáo, tạo điều kiện cho họ tham gia ngày càng nhiều các hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tơn
giáo chân chính khơng đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã
hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người

dân.
Nắm bắt được tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội cũng như trong đời sống tinh
thần của nhân dân, các thế lực chính trị dẫ lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ
chính tị của mình. Thêm vào đó những cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc chiến tranh
cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, những cuộc khủng bố, bạo loạn lật đổ… xảy
ra ở nhiều nơi trên toàn thế giới dưới nhiều hình thức vơ cùng phức tạp. Nỗi lo sợ ám ảnh
người dân về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo, và thương đau… là điều kiện vơ cùng
thuận lợi giúp tơn giáo có thể đứng vững trong lòng người dân.
Về kinh tế. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng cơng nghiệp hố-hiện đại hố
cịn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác
nhau của các giai cấp xã hội. Khi đó đời sống nhân dân chưa cao, họ vẫn chưa thể kiểm
soát được đời sống của bản thân. Nhân dân thiếu một chỗ dựa tinh thần, tôn giáo khi ấy
sẽ là cứu cánh, là niềm hy vọng sống.
Về văn hố. Sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó
nhu cầu văn hố tinh thần và có ý nghĩa nhất dịnh về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức,
phong cách, lối sống. Đó là những nét tích cực của văn hoá cần được tiếp thu, kế thừa, và
phát huy có chọn lọc, đặc biệt là đạo đức tơn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải quyết
những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác, đòi hỏi
giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt. Với tinh thần: “Không tuyên
chiến với tôn giáo mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân
dân”.


Giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong thời kỳ
xây dựng cơng nghiệp hố-hiện đại hố cần dựa trên 5 quan điểm sau:
Một là, chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội chủ nghĩa và hệ
tư tưởng tơn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý của mình, tơn giáo
phần nào hạn chế khả năng vươn lên làm chủ của con người. Đó là một yếu tố tiêu cực

trong tôn giáo, việc này làm hạn chế sự phát triển của xã hội vì người dân sẽ xa dời thực
tại, sống phụ thuộc vào những thế lực thần quyền mà khơng tự mình đứng lên nắm lấy cơ
hội. Điều đó rất mâu thuẫn với sự nhanh nhạy trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Do đó cần phải khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, một khi tín ngưỡng tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tơn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng của cơng dân. Điều
quan trọng, mọi công dân theo tôn giáo hoặc khơng theo tơn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ.
Cần phát huy những nhân tố tích cực của tơn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức,
chủ nghĩa nhân đạo tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín
ngưỡng của cơng dân.
Ba là, thực hiện đồn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn
giáo nào, đồn kết các tơn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tơn giáo. Thơng
qua q trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức
sống, lối sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín
ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Vì thực chất những người lao động
hay bất cứ ai đều quan tâm đến việc xây dững cuốc sống hạnh phúc thực sự ở thế gian,
một thiên đường ngay dưới trần gian, nơi mình đang sống, điều đó có ý nghĩa thiết thực
hơn những cuộc tranh luận suông về có hay khơng “cõi cực lạc”, “thiên đường”…
Việc giải quyết những vấn đề của tôn giáo cần phải hết sức tỉnh táo, khơng nên q
cứng nhắc, nhưng nếu đó là tơn giáo khơng lành mạnh hay tơn giáo đó đã bị sự chi phối


của những thế lực thù địch thì cũng cần sự khéo léo nhưng khơng được nhượng bộ. Vì
khi đó là lúc kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tơn giáo của tín đồ, khiến họ ngày
càng gắn bó với tơn giáo, xa lánh, thậm chí đi đến chống lại công cuộc cải tạo xã hội chủ

nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tơn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bộ có tín ngưỡng.
Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách
mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động, đội lốt tơn giáo. Đấu
tranh loại bỏ mặt chính trị phản động ntrong lĩnh vực tơn giáo là nhiệm vụ thường xun,
địi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng, xây dựng xã hội mới.
Đây là vấn đề cực kỳ nhạy cảm, giải quyết vừa phải khẩn trương, kiên quyết, nhưng cũng
phải thận trọng và có sách lược đúng đắn.
Năm là, phải có quan điểm lịch sự khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau, vai trị, tác động của từng tơn giáo đối với đời sống xã hội không giống
nhau. Quan điểm thái độ của các giáo hội, giáo sỹ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống
xã hội ln có sự khác biệt. Cùng một vấn đề nảy sinh, cùng một tơn giáo nhưng ở thời
điểm này phải xử trí khác, ở thời điểm kia lại phải xem xét, vì xã hội biến đổi khơng
ngừng, kéo theo đó lối suy nghĩ cũng như hồn cảnh sẽ khơng cịn giống nhau. Dó đó,
cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn
đề có liên quan đến tơn giáo.
Trong lịch sử có khơng ít tơn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi
ích của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng với sự khôn ngoan của giai cấp
thống trị, tơn giáo đó lại là cơng cụ, là bù nhìn, bị giai cấp thống trị đứng đằng sau giật
dây. Có những giáo sỹ suốt đời hành đạo luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng
cũng có những người đã hợp tác với những thế lực phản động, đi ngược lại lợi ích quốc
gia. Có những vị chân tu ln “kính Chúa u nước”, nhưng lại có những người lầm
đường lạc lối nghe theo kẻ địch phản bội Tổ quốc và suy đến cùng cũng phản lại cả lợi
ích của giáo hội.



Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa đang trong thời kỳ xây dựng cơng ngiệp hốhiện đạih hố nên việc tôn giáo du nhập vào nước ta cũng là một điều khơng thể tránh
khỏi, khơng có chỉ thế nước ta cịn là một trong những nước có lượng tôn giáo khá lớn,
ba tôn giáo lớn nhất thế giới là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, và Hồi giáo đều đã xuất hiện
ở Việt Nam. Khơng chỉ có thế những tôn giáo nhỏ khác như Công giáo, Tin lành, Cao
đài, Hoa Hảo với số lượng tín đồ cũng khơng ít. Đó là chưa kể đến hàng chục triệu người
về giữ tín ngưỡng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Việt Nam thời những năm Lý, Trần còn là quốc đạo, đi đâu cũng có chùa chiền.
Người dân lúc đó rất sùng đạo Phật, những nhà sư thời đó thậm chí cịn nắm vị trí quan
trọng trong bộ máy của nhà nước. Câu chuyện vua Trần Nhân Tông hồi nhỏ được sư nuôi
dạy và tiến cử đưa vào triều có thể minh chứng cho điều đó.
Tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo. Nhiều tín đồ tơn
giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập đạo phần nhiều do lan truyền
tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tơn giáo ở phần lớn tín đồ khơng thật sâu sắc.
Ở Việt Nam các tơn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xem và hồ đồng, khơng kỳ thị,
tranh chấp và xung đột tơn giáo.
Các tín ngưỡng truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấn ấn khá sâu đậm
vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử, đó là cái nền tâm
linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các tin giáo khác. Sự khoan dung, lòng độ
lượng, nhân ái của các dân tộc Việt Nam, cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để bảo
vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác
nhau một cách tự nhiên, miễn là nó khơng trái với lợi ích dân tộc.
Sự phân bố tơn giáo nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các tôn giáo thường
sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng đồng tơn giáo khác nhau có thể
sống xen kẽ với nhau. Ở nhiều nơi, trong một, làng, xã cũng có các nhóm tín đồn của các
tơn giáo khác nhau sống đan xen, hoà hợp, hoặc xen kẽ với những người theo tơn giáo
nào.
Các tơn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều du nhập từ bên ngồi,
ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt Nam.
Cách du nhập các tôn giáo vào Việt Nam rất phong phú, từ tự nhiên qua giao lưu kinh
tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; đến sự áp đặt song hành với quá trình xâm lược của



các đế quốc trong lịch sử như Công giáo, Tin lành… Q trình giao du, gặp gỡ các tơn
giáo vừa thâm nhập, bổ sung, vừa cả biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tơn giáo đều có sự
biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử, và văn hoá Việt Nam.
Ở Việt Nam có sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tơn giáo với tín ngưỡng truyền thống
và tình cảm, phong tục tập qn và nhân dân. Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi
bật nhất là phong tục thờ cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tơn giáo, góp phần tạo nên
đặc điểm tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy sự pha trộn phức tạp
giữa ý thức tơn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục tập quán đã ăn sâu
vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một bộ phận không nhỏ quần chúng lao
động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý thức tơn giáo mới.
Nước ta có sự du nhập của rất nhiều tơn giáo, điều này mang lại rất nhiều vấn đề phức
tạp, nhất là trong khi nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa đang trong thời kỳ xây dựng
công nghiệp hố-hiện đại hố.
Mặt tích cực của việc này rất dễ nhận thấy. Đó là mặt tích cực của tơn giáo, tơn giáo
dạy con người ta sống có tâm, “chân, thiện mỹ”, dạy con người ta sống có ích cho Tổ
quốc. Minh chứng cho điều này là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, đồng bào các tơn giáo đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hàng chục vạn thanh niên có đạo đã tham
gia chiến đấu và nhiều người đã hy sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cùng với đó, sự xuất hiện nhiều tơn giáo trong nước ta làm phong phú thêm nền văn
hoá vốn đã mang đậm bản sắc. Giúp đời sống tinh thần tôn giáo mang nhiều màu sắc
khác nhau. Những năm gần đây, sinh hoạt tơn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình chùa,
miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài liệu, đào tạo các chức
sắc… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi
với tôn giáo nhiều.
Bên cạnh những mặt tích cực dễ nhận thấy của tôn giáo là những mặt tiêu cực mà
chúng ta cần phải lưu tâm.
Đó là việc một số người lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan.

Việc này gây tổn thất rất lớn cho Nhà nước cũng như cho nhân dân. Vấn đề ở đây là lối
sống, nếp nghĩ, cũng như dân trí người dân chưa cao đã gây hạn chế cho các cơ quan
chức năng xử lý những đối tượng này. Nhà nước đã “nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề


dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức IX). Nghị quyết Trung ương 7 khố IX về
cơng tác tơn giáo đã chỉ rõ quan điểm lớn sau:
-

Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết toàn dân tộc.

-

Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết dân tộc.

-

Nội dung cốt lõi của cơng tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

-

Công tác tơn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Mặt tiêu cực thứ hai cần phải nói đến đó là sự lợi dụng tơn giáo vào chính trị-xã hội

của các thế lực thù địch dẫn đến những nhìn nhận sai lầm của nhân dân với Nhà nước ta.
Đây mới là điểm chính mà Nhà nước cần phải có phương hướng giải quyết. Trước tình

hình nhạy cảm của đất nước ta là đang trong q trình cơng nghiệp hố-hiện đại hố, việc
giải quyết những vấn đề tơn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ, khéo léo mềm dẻo
nhưng cũng phải cứng rắn khi cần thiết. Nếu không cẩn thận sẽ gây hiểu lầm đến những
tín đồ, vì lúc đó họ đang bị lợi dụng, khơng thể phân biệt được đúng sai. Một số người
chưa phải sùng đạo, vì đồng tiền mà bán rẻ mình nghe theo kẻ thù chống lại Tổ quốc.
Thời chống pháp, chống Mỹ, anh em nhà Ngơ Đình Diệm, Ngơ Đình Thục là hai kẻ
bán nước cầu vinh, một kẻ là ơng vua bù nhìn, kẻ kia thì cai quản đời sống tơn giáo của
nhân dân miền Bắc. Cũng trong thời kỳ bấy giờ, gián điệp biệt kích của đế quốc Mỹ khi
đến Việt Nam thường đến các nhà thờ để che mắt cộng sản.
Nhưng chúng ta cũng phải thẳng thắn công nhận việc giải quyết những vấn đề tơn giáo
của nước ta cịn nhiều vấn đề bất cập, vẫn còn những việc giải quyết chưa thật triệt để.
Mới đây nhất là vụ giáo xứ Thái Hà ở 178 Nguyễn Lương Bằng và 42 Nhà Chung, nhân
dân bị kích động, chiếm đất gây ảnh hưởng đến trật tự trị an. Khơng chỉ có thế, những lời
phát ngôn từ Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt cũng gây bức xúc cho toàn thể nhân dân cả
nước. Đứng đằng sau việc này cũng có thể có sự giật dây của Vatican chăng? Theo tôi
được biết, Trung Quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa, nhưng những vụ việc dính tới
tơn giáo như trên rất ít khi xuất hiện, phần nhiều vì nước bạn rất cứng rắn trong các vấn
đề nhạy cảm. Họ sẵn sàng đàn áp triệp để để bảo vệ đường đi của Đảng Cộng sản.


Trở lại nước ta. Dưới sự ảnh hưởng của tôn giáo đến nước ta trong giai đoạ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đồng thời trong quá trình xây dựng cơng nghiệp hố-hiện đại hố như
vậy, Đảng và Nhà đưa ra những chính sách, bao gồm:
-

Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của cơng dân trên cơ sở
pháp luật.

-


Tích cực vận động đồng bào các tơn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây
dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, tích cực góp phần vào công cuộc đổi mới kinh
tế-xã hội, giữ vững ổn định về chính trị, trật tự an tồn xã hội. Trên cơ sở đó, chăm
lo cải thiện đời sống vật chất và văn hố, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào.

-

Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, ủng hộ các
xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với
dân tộc và sự nghiệp cách mạng tồn dân, thể hiện rõ vai trị trách nhiệm của tôn
giáo ở một quốc gia độc lâp.

-

Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực
thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chống lại
chủ nghĩa xã hội.

-

Quan hệ quốc tế và đối ngoại của ơn giáo phải theo đúng đường lối và chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm tranh thủ cao nhất sự giúp đỡ của tất cả
các nước, trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ đối với
q trình cơng nghiệp hố-hiện đại hoá hiện nay ở nước ta.



×