Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.09 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ
VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ........................................................................3
1.1.

Khái niệm.......................................................................................3

1.1.1.

Đổi mới kinh tế........................................................................3

1.1.2.

Đổi mới chính trị......................................................................3

1.2.

Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị..........................3

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM............5
2.1 Nội dung của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay. .5
2.1.1. Nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế ở nước ta.......................5
2.1.2. Nội dung chủ yếu của đổi mới chính trị ở nước ta.....................9
2.2. Kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta...........10
2.3. Một số định hướng giải pháp đổi mới tại Việt Nam hiện nay..........13
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16



PHẦN I: MỞ ĐẦU
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ cơ bản, tồn tại khách quan
trong đời sống xã hội của mọi chế độ xã hội có phân chia giai cấp và được tổ
chức thành nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan hệ
giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng được thể hiện cô đọng nhất trong
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế quy định nội dung, kết cấu
của chính trị; ngược lại chính trị định hướng cho quá trình phát triển kinh tế
và điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Kinh tế phát triển là cơ sở bảo đảm chắc
chắn cho ổn định chính trị và sự ổn định chính trị là điều kiện để thúc đẩy
phát triển kinh tế. Nhận thức đúng và giải quyết thành cơng quan hệ giữa kinh
tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là vấn đề có ý nghĩa
quyết định chiều hướng, nội dung, nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của
sự phát triển. Do đó, tơi đã lựa chọn đề tài “ Mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị trong q trình đổi mới ở Việt Nam“ để có cái nhìn
sâu và rộng hơn.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI KINH
TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
1.1.

Khái niệm

1.1.1. Đổi mới kinh tế
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ
nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và
thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện cơng
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp
hố, hiện đại hố.
1.1.2. Đổi mới chính trị
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ
vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh;
thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển
kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.

Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị

Chính trị là một phạm trù tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Mà lý luận triết học Mác xít đã cho chúng ta thấy: vật chất quyết định ý thức,
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Vì vậy chúng ta dễ dàng nhận
thấy rằng: tư tưởng chính trị sinh ra trên cơ sở kinh tế được quy định bởi cơ


sở kinh tế. Sự phụ thuộc của chính trị vào cơ sở kinh tế được biểu hiện ở
những diểm sau việc:
- Chính trị chỉ phát sinh trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển đến một trình
độ nhất định. Điều này quá rõ khi ta nghiên cứu sự ra đời của chính trị. Trình
độ kinh tế yếu kém của chế độ cộng sản nguyên thuỷ đã không thể phát sinh
vấn đề chính trị. Chỉ từ khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong

xã hội và sự phân chia xã hội thành giai cấp thì nhà nước cùng những vấn đề
chính trị mới bắt đầu xuất hiện. Sự xuất hiện chế độ tư hữu trong xã hội đã
đánh dấu một bước phát triển rõ rệt của trình độ phát triển kinh tế. Chính trị là
phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.
- Chính trị phát triển theo sự phát triển của kinh tế. Sự thay đổi của cơ sở
kinh tế sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của chính trị. Nội dung của
chính trị do cơ sở kinh tế quyết định. Chế độ kinh tế là cơ sở của chế độ chính
trị. Chính trị khơng thể thấp hơn trình độ phát triển của kinh tế. Chế độ chính
trị phản ánh trình độ phát triển của kinh tế.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp giữ vị trí thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các
mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị. Đấu tranh giai cấp, thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, điều
đó được thực hiện thơng qua cuộc đấu tranh chính trị. Theo F.Ănghen, bất cứ
cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là cuộc đấu tranh chính trị, xét đến cùng
đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Bất kỳ một giai cấp nào cầm
quyền cũng hướng nền kinh tế của mình phát triển theo lập trường chính trị
với mục đích phục vụ cho mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định.
Mặc dù phụ thuộc vào kinh tế song chính trị cũng có tính độc lập tương
đối ở chỗ: chính trị khơng phản ánh thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn tác
động ngược trở lại đối với kinh tế theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực.
Chính trị tác động một cách tích cực vào cơ sở kinh tế khi nội dung của
các tư tuởng, quan điểm chính trị phản ánh đúng, đầy đủ điều kiện khách quan
của cơ sở kinh tế và sự phát triển kinh tế. Khi đó chính trị góp phần thúc đẩy
làm cho kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, vững chắc. Điều này chúng ta dễ


dàng nhận thấy tốc độ phát triển của Việt Nam từ khi Đảng ta nhận thức đúng
quy luật vận động khách quan của các quy luật kinh tế, từ đó đã có sự đổi mới
tư duy chính trị trên lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa không thể ra đời nếu tư duy về nền kinh tế hiện vật mang nặng
tính tự cung tự cấp khép kín, quan liêu, bao cấp,… khơng bị phê phán, khơng
bị loại bỏ; nếu tư duy chính trị khơng chấp nhận có tư duy hợp hữu cơ giữa
q trình đi lên chủ nghĩa xã hội với tính tất yếu khách quan của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính trị tác động một cách tiêu cực vào cơ sở kinh tế khi hệ thống chính
trị có quan điểm, tư tưởng thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời
muốn duy trì quan hệ kinh tế đã lạc hậu khơng cịn phù hợp nữa. Do đó dẫn
đến tình trạng kinh tế đã phát triển vượt xa nhưng chính trị vẫn khơng thay
đổi. Chính trị lúc này sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
V.I.Lênin đã khẳng định: “Nếu như khơng có một lập trường chính trị
đúng đắn thì giai cấp nhất định nào đó khơng thể giữ vững được sự thống trị
của mình. Do đó cũng khơng thể nào hồn thành nhiệm vụ của mình trong sản
xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế
thì tất yếu dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế đó. Khi đó, việc thay đổi thể chế
chính trị sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế đó chính là
điều kiện quyết định để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Như vậy, quan hệ
giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện chứng trong đó kinh tế là gốc của
chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đây là cơ sở phương
pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung và nhận thức
cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1 Nội dung của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay
2.1.1. Nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế ở nước ta
- Một là, đổi mới cơ chế kinh tế: Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.



Trước khi đổi mới luôn nhấn mạnh kinh tế xã hội chủ nghĩa về bản chất
là một nền kinh tế kế hoạch hoá, đồng thời đối lập kế hoạch với thị trường. Từ
đó chủ trương: “Tuyệt đại bộ phận hàng công nghiệp và hàng nông sản chủ
yếu đều do các khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa sản xuất (kinh tế quốc doanh
và kinh tế hợp tác xã). Về đại thể hàng hố đó khơng cịn là sản phẩm mua
bán giữa tư nhân với nhau, lưu thông trên một thị trường vô tổ chức, bấp bệnh
và phục vụ lợi ích của giai cấp bóc lột, mà là sản phẩm của nền sản xuất hàng
hố xã hội chủ nghĩa, có kế hoạch và cân đối, do Nhà nước thống nhất lãnh
đạo việc lưu thơng - phân phối vì lợi ích của nhân dân lao động”. “Việc lưu
thông, phân phối tư liệu sản xuất giữa các xí nghiệp quốc doanh khơng thông
qua thị trường, không do ngành thương nghiệp phụ trách và được tiến hành
dựa trên cơ sở kế hoạch cung cấp tư liệu sản xuất và thông qua hệ thống cung
cấp vật tư của Nhà nước hoặc trao đổi trực tiếp”.
Mặc dầu khẳng định: thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất về căn bản
đã hình thành, nhưng lại phân chia làm hai: thương nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã mua bán cấu thành thị trường có tổ chức, có kế hoạch….Thương
nghiệp chợ nơng thơn là thị trường khơng có tổ chức, khơng có kế hoạch”.
Trong q trình đổi mới ngày càng thấy vai trò quan trọng của thị
trường, cuối cùng nhận rõ: “….cơ chế thị trường là sự vận động của kinh tế
hàng hoá theo quy luật khách quan, cịn kế hoạch hố là một cơng cụ mà chủ
thể quản lý dùng để hướng nền kinh tế phát triển cân đối, có hiệu quả. Hai cái
đó khơng đối lập nhau về bản chất. Điều quan trọng là kế hoạch hố phải
được đổi mới, khơng xuất phát từ ý chí chủ quan mà phải tôn trọng và vận
dụng đúng đắn cơ chế thị trường….”.
- Hai là, đổi mới việc xây dựng quan hệ sản xuất: Trước khi đổi mới
do chưa vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ lực lượng sản xuất, nên đã mắc sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
muốn xố bỏ ngay chế độ tư hữu, xác lập ngay chế độ sở hữu xã hội chủ



nghĩa dưới hai hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể. Đồng thời chỉ chú
trọng thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải
quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
Trong quá trình đổi mới đã xác định xây dựng và hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể cả về chế độ sở hữu, chế độ
quản lý và chế độ phân phối. Mặt khác, thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài; khuyến khích
kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động
trong những lĩnh vực mà luật pháp khơng cấm, xố bỏ những cấm đốn và
ràng buộc vơ lý, những thủ tục phiền hà, gây khó khăn cho việc phát triển sản
xuất kinh doanh của nhân dân.
- Ba là, bố trí hợp lý cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư: Trước khi đổi
mới việc bố trí cơ cấu kinh tế thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi
nhanh khơng tính tới điều kiện và khả năng thực tế. Do chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, đầu tư khơng thích đáng cho nơng nghiệp và
cơng nghiệp nhẹ, ham xây dựng các cơng trình quy mơ lớn, khối lượng xây
dựng dở dang quá nhiều khiến cho vốn bị đọng quá lâu, không tập trung giải
quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Bởi vậy, đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả thấp.
Thành tựu nổi bật nhất của những năm đầu đổi mới là bố trí lại cơ cấu
sản xuất và cơ cấu đầu tư, hướng vào thực hiện ba chương trình mục tiêu về
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là từ chỗ
thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập khẩu hơn 45 vạn tấn gạo, mà đến
năm 1990 đã đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và bắt
đầu xuất khẩu. Hàng hố tiêu dùng trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu
thông thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn về quy mô


và hình thức, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã

hội. Ưu điểm này được kế thừa và phát huy trong những năm sau đó.
- Bốn là, chuyển từ kinh tế khép kín sang kinh tế mở:
Trong tư duy kinh tế Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh phải mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Nhưng trên thực tế trước khi đổi mới, ở nước
ta đã hình thành một cơ cấu kinh tế khép kín, hướng nội. Do nhận thức sai
quy luật ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất và nhận thức một cách giáo điều
luận điểm của V.I.Lênin về cơ sở duy nhất của chủ nghĩa xã hội là đại cơng
nghiệp cơ khí, đã coi cơng nghiệp nặng là địn bẩy đưa sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn, xác định mấu chốt của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là xây
dựng một hệ thống công nghiệp nặng hiện đại, từ đó phần lớn ngoại tệ thu
được qua xuất khẩu và viện trợ của nước ngoài giành để nhập khẩu phục vụ
công nghiệp nặng, mà công nghiệp nặng lại cung cấp rất ít hàng hố xuất
khẩu. Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu khơng thực hiện được, vì nơng nghiệp
và cơng nghiệp nhẹ, những ngành cung cấp những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, khơng được đầu tư thích đáng, khơng được hưởng phần ngoại tệ cần thiết
để trang bị kỹ thuật tiên tiến. Mặt khác, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp, tất yếu phải thực hiện chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương. Mỗi
một mặt hàng (hay một nhóm mặt hàng) chỉ do một cơng ty ngoại thương nhà
nước kinh doanh, việc quy định tỷ giá kết hối ngoại tệ lại không hợp lý, theo
hướng nâng giá q cao đồng Việt Nam, nên khơng khuyến khích xuất khẩu.
Từ khi đổi mới, nhất là từ Hội nghị BCH TƯ lần thứ Sáu (khoá VI)
tháng 3 năm 1989, đã đề ra chủ trương xây dựng và thực hiện một chiến lược
kinh tế đối ngoại theo quan điểm mở cửa, nhằm đưa nền kinh tế nước ta tham
gia vào phân công lao động quốc tế, hội nhập vào xu hướng khu vực hố và
tồn cầu hố kinh tế.


Cùng với việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư nói trên, chế
độ nhà nước độc quyền ngoại thương được thay bằng chế độ nhà nước quản
lý thống nhất mọi hoạt động kinh tế đối ngoại bằng pháp luật và chính sách.

Các thành phần kinh tế đều được tham gia các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Luật đầu tư nước ngồi có hiệu lực và nhiều lần được điều chỉnh đã thu hút
đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Nhờ vậy, kinh tế đối ngoại phát triển với
tốc độ nhanh.
2.1.2. Nội dung chủ yếu của đổi mới chính trị ở nước ta
- Một là, đổi mới hệ thống chính trị: tồn bộ tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân. Đổi mới hệ thống chính trị khơng phải là thay đổi chế độ chính trị,
mà là làm cho nó hoạt động có hiệu lực và hiệu quả cao hơn, phù hợp với yêu
cầu quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm
mục tiêu đó phải đổi mới về chức năng, phương thức hoạt động và tổ chức bộ
máy của mỗi bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị.
Từ Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Đảng ta đã xác định rõ: Đảng là một bộ
phận của hệ thống chính trị, nhưng là hạt nhân lãnh đạo tồn bộ hệ thống đó.
Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế hoá, cụ thể
hoá và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, quản lý toàn diện xã hội. Mặt
trận Tổ quốc là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu
biểu của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tơn giáo, là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, có vai trị quan trọng trong việc củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị vấn đề
mấu chốt và khó khăn nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc
phục cả hai khuynh hướng là Đảng bao biện làm thay hoặc là buông lỏng sự


lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng Đảng phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.
- Hai là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của

Đảng, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chính phủ chủ yếu quản lý ở tầm vĩ mơ thơng qua kế hoạch, quy
hoạch, chính sách, pháp luật, xây dựng kết cấu hạ tầng… tạo môi trường ổn
định cho sản xuất, kinh doanh, tiến hành kiểm tra, thanh tra chặt chẽ các hoạt
động kinh tế - xã hội để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, ngăn ngừa và trừng
phạt các hành vi vi phạm pháp luật. Tiến hành cải cách hành chính, nhất là
các thủ tục hành chính, loại bỏ những thủ tục phiền hà, tạo mơi trường thơng
thống, thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh.
Kinh tế thị trường địi hỏi tăng cường tính tự chủ của đơn vị kinh tế cơ
sở, bởi vậy cần phân biệt chức năng quản lý của Nhà nước với chức năng
quản lý doanh nghiệp.
2.2. Kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
Hơn 30 năm qua, Việt Nam đã đổi mới một cách tồn diện, khá
đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Đổi mới
được tiến hành từ đổi mới tư duy đến hoạt động thực tiễn, từ kinh tế,
chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đổi mới tất cả
các mặt của đời sống xã hội, nhưng không làm đồng loạt, dàn đều, mà
ln có trọng tâm, trọng điểm theo một lộ trình thích hợp, bảo đảm sự gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của
xã hội.


Ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương
đổi mới kinh tế đi trước một bước, từng bước đổi mới hệ thống chính trị
nhằm giữ vững ổn định chính trị, tập trung mọi nguồn lực phấn đấu đưa
đất nước vượt qua khủng hoảng để phát triển. Thành tựu hơn 20 năm đổi
mới đất nước đã xác nhận tính đúng đắn của chủ trương đó.
Cách thức đổi mới có lộ trình, có trọng tâm, trọng điểm và mục tiêu

cho từng giai đoạn và cho cả quá trình đã thể hiện tầm nhìn chiến lược
của Đảng ta, phù hợp với tình hình lịch sử và yêu cầu của cách mạng nước
ta. Hơn 20 năm qua, việc giữ vững ổn định, có bước đi vững chắc, thận
trọng trong đổi mới, hồn thiện và củng cố nền chính trị Việt Nam đã
đóng vai trị quan trọng đối với thành cơng của cơng cuộc đổi mới kinh
tế.
Một mặt, nền chính trị Việt Nam đã tạo nên mơi trường chính trị ổn
định, bảo đảm các điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cho việc thực hiện
các giải pháp đổi mới và phát triển kinh tế. Mặt khác, đổi mới về tư duy
chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế chính trị để vừa
bảo đảm ổn định chính trị, vừa từng bước thích ứng với tính chất và mức
độ đổi mới và phát triển kinh tế.
Ngay từ Đại hội VI, khi khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng ta đã nhấn mạnh đổi mới phải có bước đi và cách làm thích hợp.
Tổng kết hơn 4 năm tiến hành đổi mới, Đại hội VII của Đảng đã rút ra bốn
bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: “Đổi mới tồn diện, đồng bộ và
triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Về quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt hơn
quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt


phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong HTCT nhất thiết
phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây
mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành
chậm trễ đổi mới HTCT, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân”.
Đảng ta khẳng định: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước

đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt
động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt
động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt
của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi
thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội”.
Vậy là, nhất quán với quan điểm đổi mới toàn diện, đồng bộ, song có
trọng tâm, trọng điểm, có bước đi thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội là điều kiện,
nội dung của sự nghiệp đổi mới , trong đó, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị,
giải quyết thành công quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị là điều
kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Như vậy có thể thấy, trong tiến trình hơn 30 năm đổi mới vừa qua,
Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển
kinh tế. Khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ
kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này khẳng


định sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về bước đi và biện chứng
của giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Và những
kết quả của 25 năm đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.

2.3. Một số định hướng giải pháp đổi mới tại Việt Nam hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đang bước vào thế kỷ mới với một vóc
dáng mới đầy triển vọng. Tuy nhiên, đó chỉ mới là một mặt của vấn đề. Đảng

và Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ ràng đổi mới là cuộc thử nghiệm một
con đường phát triển mới. Sai lầm và khiếm khuyết là không thể tránh khỏi.
Trên cơ sở nghiêm túc tổng kết thực tiễn, các kỳ Đại hội Đảng, mà gần đây
nhất là Đại hội X, đã phân tích sâu sắc các điểm yếu kém nội tại của nền kinh
tế, các vấn đề chính trị- xã hội phát sinh trong quá trình đổi mới, vạch ra các
nguyên nhân của tình hình, định vị rõ những yếu tố có ảnh hưởng to lớn đến
triển vọng phát triển tồn cầu và khu vực và khả năng tác động của chúng đến
Việt Nam. Những nhận thức như là cơ sở để rút ra các nhận định về thời cơ,
nguy cơ và thách thức phát triển mà Việt Nam đang và sẽ đối mặt trong giai
đoạn tới. Cơ hội phát triển là rất lớn, song thách thức còn rất gay gắt.
Kết luận quan trọng nhất được rút ra từ những nhận định đó là: đẩy mạnh
đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là phương hướng chiến
lược phải tiếp tục kiên trì thực hiện và đó là con đường duy nhất bảo đảm
triển vọng phát triển sáng sủa cho Việt Nam.
Trong tầm nhìn chiến lược, mục tiêu cơ bản mà Việt Nam phấn đấu đạt
vào năm 2025 là thốt khỏi tình trạng tụt hậu phát triển, về cơ bản trở thành
nước công nghiệp. Đây là cơ sở vật chất để đạt được mục đích phát triển tổng
quát là xây dựng Việt Nam thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi sâu sắc và nhanh chóng, khi những
rủi ro phát triển đang gia tăng nhanh cùng với xu hướng tồn cầu hóa kinh tế,
việc đạt tới các mục tiêu đó địi hỏi những nỗ lực to lớn hơn, mang tính trí tuệ
cao hơn và có chất lượng cao hơn. Những nỗ lực đó hướng tới việc giải quyết
những nhiệm vụ chính sau:


Thứ nhất, duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh, bền vững, đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường.
Thứ ba, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

Các nhiệm vụ này bao hàm trong chiến lược tổng thể về cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá của giai đoạn mới. Về thực chất, chiến lược này đồng nghĩa với
việc triển khai một mơ hình phát triển cho phép Việt Nam rút ngắn được
quãng đường tiến lên hiện đại, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách tụt hậu giữa
Việt Nam và các nước trên thế giới.
Nhưng để đạt được mục tiêu dài hạn đó, trong giai đoạn trước mắt, Việt
Nam phải tập trung nỗ lực giải quyết một số nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa
đột phá như đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, nhất là cải cách khu vực
doanh nghiệp nhà nước, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trong khu vực
nơng nghiệp, nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, nâng cao
sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm Việt Nam, xóa đói giảm nghèo và phát
triển nguồn nhân lực, cải cách hành chính và tạo lập mơi trường thúc đẩy quá
trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, v.v.
Sau một thời gian nhịp độ cải cách và tăng trưởng bị chậm lại do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và những điều kiện thị trường quốc tế
không thuận lợi, do những yếu tố bên trong chưa được khắc phục kịp thời, khi
bước vào thế kỷ mới, nền kinh tế Việt nam đã khôi phục lại được đà phát
triển. Đây là kết quả của việc áp dụng các giải pháp tiếp tục đổi mới với một
quyết tâm và một cấp chất lượng cao hơn. Sau 30 năm dựa vào đổi mới để
phát triển, Việt Nam lại có thêm một kinh nghiệm mới để khẳng định rằng
tiếp tục đẩy mạnh đổi mới là sự lựa chọn duy nhất đúng cho tương lai của
Việt Nam.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ rõ những luận điểm cơ bản về mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, mà trong quá trình xây dựng
CNXH ở nước ta, Đảng cầm quyền cần phải nhận thức đúng và nắm vững để
vận dụng cho phù hợp với đặc điểm dân tộc và bối cảnh từng thời kỳ. Mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị ln ln là vấn đề quan trọng nhất của các

cuộc cải cách và phát triển. Xử lý mối quan hệ này như thế nào là thước đo
tầm vóc của đảng cầm quyền về đối nội cũng như đối ngoại.
Với tư duy kinh tế mới và quyết tâm chính trị trong việc thực hiện đổi
mới kinh tế, qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, đời sống xã hội đã thay đổi khá nhanh chóng trên tất
cả các phương diện và các lĩnh vực khác nhau. Từ khi nước ta chuyển sang
kinh tế thị trường và tiếp tục đổi mới hơn 30 năm qua, những thành tựu đạt
được đã khẳng định sự đúng đắn, khách quan trong đường lối đổi mới của
Đảng nhưng bên cạnh đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị của Đảng và Nhà nước ta khơng tránh khỏi những hạn chế còn tồn tại; mặt
khác khi đổi mới kinh tế chuyển sang một giai đoạn mới, nhất là qua
khủng hoảng kinh tế hiện nay, bài toán về “sự phù hợp giữa kinh tế và
chính trị lại được đặt ra đối với đất nước ta”, mà sự giải quyết nó đang là
cấp thiết, đồng thời là một điều kiện cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững trong thế kỷ XXI.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học);
2) Bài viết “Kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam” của GS Đỗ Thế Tùng - Học viện Báo chí và tuyên truyền (năm 2012);
3) Bài viết “Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam
- vấn đề và giải pháp” của GS, TS Trần Ngọc Hiên - Học viện Báo chí và
tuyên truyền (năm 2012);
4) Wikipedia.org




×