Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

quy luật lưu thông tiền tệ, hiện tượng lạm phát tại Việt Nam trong những năm gần đây và đề ra một số phương pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.44 KB, 19 trang )

Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU
___________________________________________________________1
B. NỘI DUNG
_____________________________________________________________
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THƠNG TIỀN TỆ
I.
Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền
tệ._______________________________
1. Nguồn gốc của tiền tệ
___________________________________________________3
2. Bản chất của tiền tệ
____________________________________________________ 4
3. Chức năng của tiền tệ
___________________________________________________4
II.
Quy luật lưu thông tiền tệ
______________________________________________ 6
III. Vấn đề lạm phát
______________________________________________________7
PHẦN II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM:
I.
Thực trạng
__________________________________________________________1
0
II.
Nguyên nhân
________________________________________________________10
III. Hậu quả
___________________________________________________________
_11


IV. Biện pháp khắc phục
__________________________________________________12
C. KẾT LUẬN
____________________________________________________________
1


A.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế tiền tệ, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua
công cụ tiền tệ. Điều mang lại giá trị cho tiền tệ khơng phải là vì nó có giá trị tự
thân, mà lại là do giá trị của những thứ mà tiền tệ có thể trao đổi được. Các ngân
hàng quốc gia thường theo đuổi một mục đích thực tế chung, đó chính là bình ổn
giá – cố gắng giữ lượng tiền đồng bộ với sự phát triển kinh tế nhằm tránh khỏi hiện
tượng lạm phát.
Hiện nay, mọi nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng trên tồn cầu đều đang
trải qua một hiện tượng cố hữu – lạm phát. Đây là một ‘căn bệnh’ được gây ra bởi
các tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế khác nhau, và thường thì rất khó để
xác định đâu là ‘virus’ gây bệnh chính, cho nên việc ‘chữa bệnh’ cũng gặp rất
nhiều khó khăn.
Việt Nam là một trong số những nước đang phát triển và có nền kinh tế thị
trường tiềm năng, tuy nhiên ảnh hưởng của lạm phát lên nền kinh tế cũng khơng
cịn là điều mới lạ, từ thời bao cấp cho đến khi bước sang nền kinh tế thị trường
hiện nay.
Bài chuyên đề này xin tập trung bàn về quy luật lưu thông tiền tệ, hiện tượng
lạm phát tại Việt Nam trong những năm gần đây và đề ra một số phương pháp khắc
phục.
Em xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Thanh Hiếu, giảng viên mơn học Những

Ngun lí của Chủ nghĩa Marx – Lenin II đã đưa ra chỉ dẫn và giúp em hoàn thành
bài tiểu luận này. Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu và viết bài tiểu luận, những
sai sót là điều khơng thể tránh khỏi cho nên em rất mong nhận được sự góp ý và ý
kiến bổ sung của cô để những bài tập tiếp theo có thể được hồn thiện tốt hơn.

2


B.

NỘI DUNG

PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ
I – Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ:
1. Nguồn gốc:
Để có thể hiểu được nguồn gốc của tiền tệ, trước tiên ta phải xem xét quá trình
phát triển của các hình thái biểu hiện giá trị:
Đầu tiên là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị.
“Đây là hình thái phơi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi
hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫy nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật
này lấy vật khác.” (trích Giáo trình Những Ngun lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác
Lê-nin, nxb Chính trị Quốc gia).
Ví dụ : 1 đấu thóc = 4 cái áo, trong đó:
- 1 đấu thóc là hình thái giá trị tương đối.
- 4 cái áo là hình thái vật ngang giá.
Ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác và
quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người trao đổi trực tiếp lấy hàng và tỷ
lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên.
“Hình thái vật ngang giá của giá trị có 3 đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành
hình thức biểu hiện giá trị, lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động

trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội.” (Trích
Giáo trình NNLCBCCNML)
Thứ hai, khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy
sản xuất hàng hoas ra đời và phát triển thì hình hái thứ hai là hình thái đầy đủ hay
mở rộng của hàng hóa ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hành
hóa nào đó được trao đổi với nhiều hàng hóa khác một cách thơng thường phổ
3


biến. Ở đây, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác
nhau. Tỷ lệ trao đổi dần dần do lao động quy định, tuy nhiên vẫn chưa cố định và
hàng hóa vẫn được trao đổi trực tiếp.
Ví dụ: 1 mét vải = 1 cái áo
2 đấu thóc

hoặc
hoặc

0,3 gam vàng..
Trong đó, 1 mét vải là hình thái giá trị tương đối, cịn 1 cái áo, 2 đấu thóc và 0,3
gam vàng là vật ngang giá mở rộng.
Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa và địi hỏi phải có vật
ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình
thái này, giá trị của mọi hàng hóa được biểu hiện ở một hàng hóa mà được nhiều
người ưa chuộng đóng vai trị làm vật ngang giá chung, hay còn gọi là “vật ngang
giá phổ biến”. Các hàng hóa được đều được đổi thành vật ngang giá chung, sau đó
mới đổi lấy hàng hóa cần dùng. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở
một thứ hàng hóa nào, đặc biệt là qua các vùng miền khác nhau thì mỗi vùng có
một vật ngang giá chung khác nhau.
Khi lực lượng sản xuát và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất

hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, giữa các vùng địi hỏi phát có một vật
ngang giá chung thơng nhất thì hình thái thứ tư ra đời: Hình thái tiền. Tiền tệ là
sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa, hay cịn được gọi là nên kinh tế thị trường.
“Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành 2 cực: một bên là các
hàng hóa thơng thường; cịn một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trị tiền tệ. Đến
đây giá trị các hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi
đã được cố định.” (Trích Giáo trình NNLCBCCNML)
2. Bản chất của tiền tệ:
Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được tác ra làm vật ngang giá chung cho
tất cả các loại hàng hóa khác và là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và
4


trao đổi hàng hóa. Nó là sự thể hiện của lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa.
Bản chất của tiền tệ cịn được thể hiện qua các chức năng của nó.
3. Chức năng của tiền tệ:
Theo Karl Marx, tiền tệ có năm chức năng: Nó là thước đo giá trị, là phương
tiện lưu thơng, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh tốn và tiền tệ thế giới.
a. Thước đo giá trị:
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Khi đó, giá trị
của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng
hóa. Hay nói cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa và chúng tỷ lệ thuận với nhau. Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các
nhân tố sau đây:
- Giá trị hàng hóa
- Giá trị của tiền/vàng.
- Quan hệ cung – cầu về hàng hóa.
Trong ba nhân tố nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố chính quyết định giá cả bởi
vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả.

“Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả khơng giống với tác dụng
của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị
của hàng hóa khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng
làm tiền tệ. Giá trị hàng hóa tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay
đổi khơng ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá
trị của vàng thay đổi như thế nào.” (trích Giáo trình NNLCBCCNML)

5


b. Phương tiện lưu thông:
Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trị là một
phương tiện lưu thơng. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H –
T – H’ (hàng – tiền – hàng). Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn.
Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thoi, bạc nén, sau đó
là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy – 1 ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành
buộc xã hội cơng nhận. Tiền giấy khơng có giá trị thực. Khi thực hiện chức
năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm
việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả
năng khủng hoảng và xảy ra lạm phát. Mặt khác nhà nước không thể tùy ý phát
hành bao nhiêu tiền giấy cũng được mà phải giới hạn trong số lượng vàng (hay
bạc) mà tiền giấy đó tượng trưng, bởi nếu khối lượng tiền giấy được phát hành
và lưu thông vượt quá mức quy định, giá trị tiền tệ sẽ giảm xuống, lạm phát sẽ
xảy ra.
c. Phương tiện cất trữ:
Đôi khi tiền được rút khỏi lưu thơng và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua
hàng. Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc
hay các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng này.
Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ cịn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền

cho lưu thơng.
d. Phương tiện thanh tốn:
Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nào đó tất yếu sẽ sinh ra mua
bán chịu và tiền có thêm chức năng là phương tiện thanh tốn như trả nợ, đóng
thuế... Tiền làm phương tiện thành tốn có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu
của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ
6


tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong q trình
thực hiện chức năng thanh tốn, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có
nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
e. Tiền tệ thế giới:
Đây là chức năng cuối cùng của tiền. Chức năng này xuất hiện khi bn bán
vượt ra ngồi biên giới quốc gia, hình thành quan hệ bn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị,
phương tiện lưu thơng, phương tiện thanh tốn, tín dụng, di chuyển của cải từ
nước này sang nước khác. Khi ấy, tiền phát là tiền vàng hoặc tiền tín dụng
được cơng nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước
này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một
đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền nước khác.

Tóm lại, 5 chức năng của tiền trong nên kinh tế thị trường có mối quan hệ mật
thiết với nhau và thơng thường tiền thực hiện nhiều chức năng cùng một lúc.
Sự phát triển chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu
thơng hàng hóa.

II – Quy luật lưu thông tiền tệ
1. Khái niệm của quy luật lưu thông tiền tệ
7



“Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu
thơng hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.” – trích Giáo trình
NNLCBCCNML.
2. Phân tích quy luật lưu thơng tiền tệ:
Karl Marx cho rằng quy luật này được thể hiện như sau:
Tổng giá cả của
hàng hóa lưu thơng
Lượng tiền cần thiết

=

_____________________________

cho lưu thơng

Tốc độ lưu thơng của
đồng tiền

Trong đó:
- Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cá nhân với khối lượng đưa vào
lưu thơng của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thơng bằng tổng giá
cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thơng.
- Tốc độ lưu thơng của đồng tiền chính là số vịng quay trung bình của một đơn
vị tiền tệ.
 Khi tiền mới chỉ thực hiện được một chức năng là phương tiện lưu
thông, thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thơng được tính theo cơng
thức:
M=


P .Q
V

M: phương tiện cần thiết cho lưu thơng.
P: mức giá cả.
Q: là khối lượng hàng hóa đem ra lưu thơng.
V: là số vịng ln chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ.

8


 Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh tốn thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thơng được xác định như sau:
M: Số lượng tiền cần cho lưu thơng.
1: Tổng giá trị hàng hóa dịch vụ lưu thơng.
2: Tổng giá cả hàng hóa bán chịu.
M=

1−( 2+3 )+ 4
5

3: Tổng giá cả hàng hóa khấu trừ.
4: Tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh tốn.
5: Số vịng ln chuyển trung bình của 1 đơn vị

tiền tệ.
III – Vấn đề lạm phát:
1. Khái niệm:
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế tăng lên

trong một thời gian nhất định.
2. Phân loại:
Lạm phát có 3 loại,
- Lạm phát vừa phải : là lạm phát khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức ‘một con
số’. Tổng tỉ lệ lạm phát cả năm dưới 10%.
Lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Nguyên nhân của loại lạm phát này thường là do:
+ Hiện tượng kinh tế tự nhiên.
+ Nhà nước duy trì lạm phát này với mục đính riêng.
- Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa bắt đầu tăng với tỷ lệ
hai hoặc ba con số (20%, 100% hoặc 200% một năm).
Thông thường, lạm phát phi mã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

9


- Siêu lạm phát: là loại lạm phát khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần lạm phát
phi mã.
3. Các chỉ số đo lường lạm phát:
- Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị
GDP tính theo giá hiện hành và GDP tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo
lường mức tăng và giảm giá trên tất cả các loại hàng hoá dịch vụ tính trong
GDP.
- Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình qn gia
quyền của một nhóm các hàng hóa thiết yếu.
4. Nguyên nhân:
Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó “lạm phát do
cầu kéo” và “lạm phát do chi phí đẩy” được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều khơng thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.
– Lạm phát do cầu kéo: Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng

lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng
khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên
thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng)
được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
– Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả ngun liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân,
thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất
của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ
tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế
cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
10


– Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần
tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành
kinh doanh khơng hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền
cơng cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu
quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc
phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
– Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt
hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị
trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới
(chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì
lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
– Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng
cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được
thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút
hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và
tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.

– Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu
tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải
tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
– Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất
giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của
nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra
lạm phát.
– Các nguyên nhân khác: 

11


+ Tâm lý dân cư không tin vào đồng tiền của Nhà nước. Họ sẽ không giữ tiền mà
đẩy vào lưu thơng bằng việc mua hàng hố dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực
kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được
cân bằng cung cầu trên thị trường hang hố khơng cịn nữa và tiếp tục đẩy giá lên
cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra.
+ Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần
thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm
tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt
trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành
tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên
cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.
5. Hậu quả:
- Sức mua của đồng tiền giảm. Nền kinh tế nào có mệnh giá tiền tệ càng cao thì
sức mua càng yếu.
- Giá cả tăng vọt.
- Dẫn tới sự phân phối lại nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư: người nắm

giữ hàng hóa, người đi vay được lời; người có thu nhập và nắm giữ tài sản bằng
tiền, người cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút).
- Khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất kinh doanh, các hoạt động kinh
tế bị méo mó biến dạng, tâm lý người dân hoang mang,...
PHẦN II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM:
I – Thực trạng:

12


Từ năm 2004 đến 2011, lạm phát ở nước ta có xu hướng gia tăng, cao điểm đã
lên mức 2 con số. Cụ thể là vào năm 2004, chỉ số lạm phát là 9,5%; năm 2007, lạm
phát tăng cao ở mức 12,63%, năm 2011, lạm phát vượt quá 18%. Do đó, chống
lạm phát là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách trong điều hành chính sách kinh tế
vĩ mơ.
Song, từ năm 2012 đến năm 2013, lạm phát có xu hướng ổn định dưới mức
7%. TS. Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết chỉ tiêu CPI
(Consumer Price Index - chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi
tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian) cả năm nay chỉ tăng 6,81% và
tăng 9,21% so với bình quân 12 tháng năm 2011.
Ngay từ đầu năm 2014, Chính phủ đã tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh
tế vĩ mơ, trong đó, kiểm sốt lạm phát là một trong những trụ cột quan trọng. Kết
quả này lại tiếp tục được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2014, chỉ
tăng 1,84% so với tháng 12/2013, chỉ bằng 26,2% chỉ tiêu mức lạm phát của Quốc
hội đặt ra (7%) và bằng 37% mức dự kiến lạm phát của Chính phủ (5%).
Nếu xét mức lạm phát bình quân, thì cả năm 2014 so với năm 2013 tăng
4,09%, dù xét theo chỉ tiêu nào, thì kết quả này cũng là điều đáng ghi nhận. Đây là
mức lạm phát thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và khá bất ngờ đối với các dự báo
của nhiều cơ quan chức năng, các tổ chức và chuyên gia kinh tế. Có thể nhận định
rằng, kết quả này là một trong những sự kiện nổi bật nhất, một trong những thành

công đuợc ghi nhận của kinh tế Việt Nam trong năm 2014.
6 tháng đầu năm 2016, chỉ số lạm phát đạt 5,52%. Tốc độ tăng trưởng năm nay
tuy cao hơn tốc độ tăng chung của cùng kỳ các năm từ 2012 – 2014 (lần lượt là
4,93%; 4,9%; 5,22%) nhưng có dấu hiệu chững lại so với tốc độ tăng 6,28% trong
6 tháng đầu năm 2015.

13


II – Nguyên nhân
Theo các nhà nghiên cứu, lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả
ba dạng thức, gồm lạm phát tiền tệ (dạng thức chủ yếu), lạm phát cầu kéo và lạm
phát chi phí đẩy. Cụ thể, lạm phát tiền tệ là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ như
việc tung khối lượng tiền lớn vào lưu thông.
Lạm phát cầu kéo do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh
nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực, thực
phẩm trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng kéo theo cầu về lương
thực trong nước cho xuất khẩu tăng, trong khi đó, nguồn cung trong nước khơng
thể tăng kịp.
Lạm phát chi phí đẩy biểu hiện ở giá nguyên liệu, nhiên liệu trên thế giới tăng
mạnh, đẩy hàng loạt mặt hàng khác tăng theo. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ
thuộc rất lớn vào nhập khẩu thì việc giá nguyên liệu nhập tăng làm giá thị trường
trong nước biến động theo.
III – Hậu quả :
 

Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau

đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát

được coi là nỗi lo của tồn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.
- Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến
động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của
đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế.
Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ
phá sản rất lớn.
14


- Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy q trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các
nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thơng. Thậm chí khi
lạm phát trở nên khó phán đốn thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp
phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực
này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại
nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thơng, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều
này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
- Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do
lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không
làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người
đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh
chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không cịn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ khơng cịn
ngun vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
- Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hố. Khi lạm

phát xảy ra những thơng tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm
cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm
ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước
khơng cịn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt
giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị
thu hẹp lại hoặc khơng có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục
15


tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ khơng có điều kiện thực hiện
được.
IV – Biện pháp khắc phục :
1. Chính sách xiết chặt lượng cung tiền tệ
Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định thắt chặt mức cung tiền tệ. Điều đó sẽ
có kết quả là lãi suất tăng lên (ở một mức độ nhất định). Lý do là do thị trường tiền
tệ bị chi phối bởi sự phối hợ qua lại giữa sự mong muốn của công chúng về việc
nắm giữ tiền và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
2. Kiềm giữ giá cả
Nhà nước có thể thực hiện chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp
khác nhau như: Nhập hàng hố của nước ngồi để bổ sung cho hàng hoá trong
nước - Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ bán cho dân chúng (khó thực hiện ở các
nước nghèo) - Kiểm soát giá cả: Biện pháp này chỉ có tác động nhất thời và trong
cơ chế thị trường,và một sự thật là rất khó để kiểm sốt được mức giá
3. Ấn định mức lãi suất cao
Việc ấn định này là do nhà nước quyết định. Khi mức lãi suất tiền gửi tăng lên,
những người có tiền sẽ thấy có lợi khi gửi tiền vào ngân hàng. Ngược lạI biện pháp
này sẽ làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên khó khăn hơn, vì lãi suất q cao
ngân hàng sẽ khơng có thể cho vay được nhiều và sẽ bị lỗ, và một điều có thể xẩy
ra nếu lãi suất tiền gửi cao quá mức lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ khơng
đầu tư cho sản xuất nữa mà tìm cách đư vốn của mình vào ngân hàng vì nó khơng

chịu dược sức ép rủi ro và vẫn có lợi tức cao.
4. Giảm chỉ tiêu của ngân sách
Bằng nhiều biện pháp như hạn chế tăng tiền lương, chi tiêu hợp lý, chống lãng
phí một cách bất hợp lý Đây là một phương sách có hiệu quả trong việc chống lạm
phát
16


5. Biện pháp lạm phát chống lạm phát
Có nghĩa là việc đầu tư phải mạnh lại hiệu quả chắc chắn. Nếu khơng nó sẽ
đẩy lạm phát lên cao nữa.
6. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh toàn diện
Ở đây chúng ta cần phải xoá bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt động của thị trường.
Và nếu quá trình cạnh tranh được nâng lên ở mức độ hoàn hảo thì gía cả sẽ có xu
giảm đi (do cạnh tranh).
7. Chính sách thu nhập dựa trên thuế
Đây là chính sách mới tìm cách chế ngự gía cả, sử dụng kích thích vĩ mơ để
đạt chính sách vĩ mơ, và mục đích của chính sách này là trợ cấp cho người có tiền
lương thấp hoặc các mặt hàng có gía cả tăng chậm và đánh thuế những người làm
tăng lạm phát.
8. Mua lấy một tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát
Giữa lạm phát và thất nghiệp là hai yếu tố nghịch nhau. Như vậy khơng thể
triệt tiêu lạm phát được vì như thế thất nghiệp sẽ tăng lên rất nhanh. Vì vậy ở đây
người ta phải mua lấy một tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp vừa phải để đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển bình thường.

17


C.


KẾT LUẬN

Khi nghiên cứu về lạm phát, những nhà khoa học và toàn xã hội đều khẳng
định rằng: Lạm phát ln ln là một đề tài lớn, khó và phức tạp. Mỗi khi xuất
hiện đều mang theo một sức tàn phá tiềm ẩn, làm rối loạn nền kinh tế, phức tạp hóa
xã hội. Và nó cũng địi hỏi nhiều tâm trí và sức lực của các nhà nghiên cứu, nhà
lãnh đạo nhằm tìm ra các giải pháp kiềm chế để tránh hậu quả do nó gây ra. Các
nhà nghiên cứu đã đưa ra rằng: “Lạm phát luôn luôn là vấn đề thuộc về tiền tệ”. Vì
thế, chúng ta khơng thể xóa bỏ lạm phát mà nó ln ln tồn tại. Vấn đề đặt ra đối
với bất kì quốc gia nào là thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm: Tăng trưởng
kinh tế cao, ổn định và lạm phát ở mức hợp lí. Các biện pháp đó được thực hiện
đồng bộ, tùy thuộc các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát mà chú trọng biện pháp
nào hơn. Sự thành công trong kiềm chế lạm phát là nhờ sự thông minh, linh hoạt
của chính phủ mỗi nước. Ở Việt Nam, việc kiềm chế lạm phát đã thu được nhiều
thành tựu đáng ghi nhận, mở đường cho sự phát triển kinh tế trong thời gian tới.

Nguồn tham khảo tài liệu:
Vnexpress.net
Dantri.com.vn
18


Cafef.vn
Gso.gov.vn
Giáo trình Những Ngun lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê-nin.

19




×