Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Hãy phân tích những tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến giáo dục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.58 KB, 20 trang )

Đề bài:
Hãy phân tích những tác động của tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến
giáo dục Việt Nam.
BÀI LÀM
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo đã có bước phát triển
mới, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu... Tuy nhiên, trước xu
thế hội nhập với khu vực .và quốc tế, trước những đòi hỏi ngày càng cao của
thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát
triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tê quốc tế và khu vực; trước thực tiễn của
nền giáo dục của đất nước chưa thực sự là một động lực thúc đẩy và là một điều
kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và
bảo vệ đất nước ... mà nguyên nhân sâu xa là quá trình tiếp cận các xu thế giáo
dục mới để định hướng cho q trình đổi mới, phát triển cơng tác giáo dục ở các
nhà trường còn chậm, thiếu chủ động, chưa sáng tạo và kịp thời thì chúng ta cần
phải huy động mọi lực lượng của xã hội tham.gia vào cơng tác đổi mới và phát
triển giáo dục, trong đó việc nghiên cứu xu thế phát triển giáo dục của các nước
trên thế giới. và thực tiễn giáo dục ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và
hội nhập quốc tế có ý nghĩa đặc. biệt quan trọng bảo đảm tính kế thừa và sự đón
đầu trong q trình chấn hưng nền giáo dục.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước.
Giáo dục đã đào tạo bài bản và cung cấp cho đất nước một đội ngũ cán bộ
đơng đảo có trình độ tay nghề đáp ứng yêu câu thực tiễn của đất nước, cũng như
yêu cầu của sự hội nhập khu vực và thế giới trên mọi lĩnh vực. Với quan điểm
“đầu tư cho giáo dục là quốc sách”, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều nghị
quyết về phát triển giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ khẳng định tầm
quan trọng, định hướng cũng như xác định mục tiêu, nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo. Mặc dù như vậy, nhưng chất lượng giáo dục



của Việt Nam vẫn chưa cao, nói một cách nom na là số lượng thì tăng rất nhanh
nhưng chất lượng vẫn không tăng chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới.
Giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chê, yếu.kém, bất cập chậm được khắc phục,
chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất
lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa
thực sự là quốc sách hàng đầu. Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã
hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành
của học sinh, sinh viên. Chất lượng giáo dục có mặt bị bng lỏng, giảm sút,
nhất là giáo dục đạo đức lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”,
còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức,
lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống ... Hệ
thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đông bộ, chưa liên thông, mất cân
đối. Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi
mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo
dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng-, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên
các lĩnh vực khác của đất nước. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên
còn nhiều bất cập đạo đức và năng lực của một bộ phận còn thấp. Chưa nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về cơng tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết với
nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ
phương châm.
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển
đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa
học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học
giáo dục còn nhiều bất cập. Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan
điểm của Đảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong
công tác tham mưu, thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mơ, kém
hiệu quả; một số chính sách vê giáo dục cịn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế,

thiếu sự đồng thuận của xã hội.


Trên hành trình hội nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam mấy năm cũng đã có
những cố gắng nhất định. Nhưng cũng phải thẳng thắn nói rằng, trong thực tế,
giáo dục Việt Nam đang đứng trước những khó khăn trong việc hoà nhập với
các trào lưu giáo dục lớn trên thế giới bởi một số nguyên nhân. Thứ nhất về
ngôn ngữ: Thứ ngơn ngữ giảng dạy chính là tiếng Việt. Đây là tiếng mẹ đẻ của
người Việt chúng ta, nhưng đồng thời cũng là ngơn.ngữ có tính chất riêng biệt
của người Việt, do người Việt sử dụng. Ngôn ngữ tiếng Việt.khơng có khả năng
hội nhập. Thứ hai là về chương trình, giáo trình giảng dạy hầu hết do giáo viên,
giảng viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hoá và công nhận trên
trường quốc tế. Dẫn đến việc bằng cấp từ phổ thông đến đại học cũng chưa được
công nhận và đánh giá cho chuẩn, đúng mức. Điều này, khiến cho sinh viên
tham gia các chương trình trao đổi, giao lưu hàng năm với các trường đại học
trên thế giới, hoặc chuyển ngang sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế,
hoặc xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với các học sinh đã tốt nghiệp trong
nước. Thứ ba là giáo dục Việt Nam chưa có một bộ quy tắc đánh giá chất lượng
đào tạo cũng như tiêu chí xếp loại các trường, các ngành học để nước ngồi dựa
vào đó hợp tác làm việc với các trường trong nước. Dẫn đến hiện tượng một số
tổ chức quốc tế tự xếp hạng các trường đại học Việt Nam một cách không khách
quan Thứ tư là chúng ta chưa có các cơ quan, tổ chức trung gian làm việc độc
lập khách quan với các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục để có các ý kiến
phản biện, kịp thời chấn chỉnh cũng như góp ý cho các dự thảo hoặc Luật giáo
dục. Thứ năm là “đầu vào” của các trường đại học sư phạm chưa cao, chưa có
được những ưu tiên thỏa đang về chính sách cho loại trường này, chế độ lương
bổng của giáo viên khiến cho loại hình sư phạm chưa có sức thu hút nhân tài
những người thực sự có tâm, có đức vào làm trong lĩnh vực giáo dục đào tạo con
người. Hệ thống các phịng thí nghiệm, nghiên cứu cịn quá nghèo nàn, không
hút được các nhà nghiên cứu khoa học trẻ. Thứ sáu là hệ thống thi cử đánh giá

thực lực khả năng của học sinh còn bất cập, mặt khác lại gây tốn kém tiền bạc,
công sức và thời gian của học sinh, phụ huynh và cả xã hội. Bệnh thành tích
đang dần trở thành một căn “bạo bệnh” khó có cơ cứu chữa ...


Trước thực trạng nền giáo dục Việt Nam như hiện nay đặc biệt là trong bối
cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam cũng đang đứng
trước những cơ hội lớn. Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ
trong giáo dục đang diễn ra ở quy mơ tồn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta
có thể nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mơ hình
giáo dục hiện đại, tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển
làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước khác. Hợp tác
quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc
tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào
tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục. Sau hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu
đạt được trong phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực
nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Sự đóng góp về nguồn lực của nhà
nước và nhân dân dành cho phát triển giáo dục nước nhà ngà,y càng được tăng
cường. Có thêm nhiều điều kiện để hồn thiện, phát triển hệ thông giáo dục. Môi
trường giáo dục được cải thiện, mở rộng được các loại hình đào tạo và mở rộng
hình thức du học ...Bên cạnh những cơ hội lớn, nền giáo dục Việt Nam cũng sẽ
đối diện với những thách thức không nhỏ. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ trên thế giới có thể làm cho khoảng cách kinh tế,
tri thức, giáo dục giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, nước ta có
nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm
nảy sinh những vấn đề mới, như nguy xâm nhập văn hố, lối sống khơng lành
mạnh; sự chảy máu chất xám đã tạo nên gánh nặng cho giáo dục ... Khả năng
xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn
đối với giáo dục Việt. Nam,. khi mà năng lực quản lý của ta đối với giáo dục
xuyên quốc gia cịn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định

hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngồi. Sự phân
hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các
nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều
này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa
các vùng miền và giữa các đối tượng người học. Yêu cầu phát triển kinh tế trong


thập niên tới khơng chỉ địi hỏi số lượng mà còn đòi hỏi chất lượng cao của
nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt qua ngưỡng các nước có thu nhập
thấp, Việt Nam phải câu trúc lại nền kinh tế, giáo dục ... Q trình này địi hỏi
đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù 62,7% dân số nước ta trong độ
tuổi lao động nhưng trình độ của lực lượng lao động này cịn thấp so với nhiều
nước trong khu vực, còn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu
đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày
càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn
đối với giáo dục ...
Hội nhập quốc tế đó là một q trình tất yếu, do bản chất của lao động xã
hội và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thi trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới
nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp
đến cao. Hội nhập đã trở thành xu thế lớn của thế.giới hiện đại, tác động mạnh
mẽ đến quan hệ quốc tế và đời .sống của từng quốc gia. Trong những năm gần
đây xu hướng hội nhập quốc tế khu vực đã phát triển mạnh mẽ thu hút ngày
càng nhiều nước tham gia. Hội nhập quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội với tính chất phạm vi hình thức khác nhau như hội nhập kinh tế
quốc tế, hội nhập chính trị, hội nhập an ninh - quốc phòng, hội nhập về văn hóa
xã hội, ... Hội nhập quốc tế đã có tác động rất lớn đến tất cả các mặt của đời
sống xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục ở nhiều khía cạnh khác nhau. Q
trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại, giáo dục, y tế và
các quan hệ kinh tế quốc tê khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh

tế xã hội. Hội nhập.tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh trong giáo dục,
nhất là cạnh tranh về chất lượng. Hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn
nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thơng qua đầu tư
trực tiếp nước ngồi và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiên. Hội nhập
giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm
giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.


Tồn cầu hóa là một q trình đa phương tiện, bao hàm nhiều nhân tố như
kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, xã hội. Tồn cầu
hóa là một thuật ngữ địi hỏi phải có cách tiếp cận liên ngành và đa chiều vì nó
có liên quan đến tất cả các hiện tượng xã hội đương đại. Tồn cầu hóa được tiếp
cận từ góc độ kinh tế học, xã hội học, công nghệ học, môi trường, văn hóa, ...
Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về tồn cầu hóa được đưa ra từ
nhiều góp độ tiếp cận khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tồn cầu hóa là kết quả
tất yếu từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Chúng là biểu hiện hệ
quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong các nền kinh tế
riêng biệt, từ đó q trình này dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của từng quốc gia, tạo
ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc trên quy mơ tồn cầu trong sự vận động phát triển. Tồn cầu hóa là kết quả
của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất là xu thế khách quan là
một thực tế khơng đảo ngược.
Về mặt tích cực, tồn cầu hóa thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và
xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao, góp phần làm
chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức
cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Dưới sự lan toả của tồn cầu hố hiện
nay, mọi lĩnh vực của xã hội đều bị tác động theo những chiều hướng khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung, những tác động này đều theo chiều hướng tích cực, làm
cho thế giới phẳng và gần nhau hơn. Như vậy, tồn cầu hóa vừa là thời cơ lịch

sử vừa là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các nước, đồng thời
cũng tạo ra thách thức là nếu bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa. Ở Việt Nam,
tồn cầu hóa gắn với ba yếu tố: thứ nhất là sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa ở
Đông âu dẫn đến kết thúc của chiến tranh lạnh q trình này đã xóa bỏ những
ranh giới của tồn cầu hóa ý thức hệ hay tồn cầu hịa cục bộ tức là “làm phăng”
trong phe xã hội chủ nghĩa, giúp Việt Nam mở cửa hội nhập với phần thế giới
còn lại và cũng là phần đang phát triển mạnh mẽ nhất.trong lịch sử hiện.đại. Thứ
hai là sự xóa bỏ nền kinh tế tập trung, bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị
trường, kết quả rõ rệt nhất là việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Và thứ


ba là ảnh hưởng của.sự phát triển công nghệ thông tin. Ba yếu tố này trong
những .mức độ khác nhau đã góp phần “làm phẳng” thế giới, tạo nên quá trình
tồn cầu hóa.
Các trường đại học ở. bất kỳ nơi nào trên thế giới cũng đều đang bị xu
hướng toàn cầu hóa chi phối - đại chúng hóa giáo dục, tác động của công nghệ
truyền thông, trách nhiệm của nhà trường đối với nhà nước, một lực lượng giảng
viên ngày càng tăng tính chất quốc tế và lưu. động, mạng.lưới nghiên cứu toàn
cầu và nhiều hiện tượng khác nữa. Sự phát triển của tồn cầu hố, bên cạnh là sự
xuất hiện của ngơn ngữ chung tồn câu, tiếng Anh, địi hỏi người ta phải phấn
đấu không ngừng cho việc trao dồi kĩ năng, kiến thức của mình. Việc sử dụng
tiếng Anh như một ngôn ngữ chung cho truyền thông khoa học và giảng dạy,
nhất là khi kết hợp với Intemet đã khiến cho việc giao tiếp trở nên dễ dàng và
nhanh chóng hơn. Sự ra đời của các trường đại học đa quốc gia khiến việc phổ
biến những chương trình đào tạo mới và nhiều cải cách khác biến thành hiện
thực, nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu tức thời của những nước mà hệ thống
giáo dục đại học chưa có đủ những nhà cung cấp tương xứng. Nhưng đây lại là
một thách thức lớn cho những quốc gia còn hạn hẹp trong vấn đề kinh phí, cơ sở
đào tạo Chưa nói đến, các quốc gia, như các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, đang trong thời kì quá độ, đã phải “thử” nhiều cách khác nhau để hồ

nhập cùng thế giới.
Cũng như việc, nguồn cung cấp thơng tin ở các quốc gia kiểu này, chưa
thật sự được chú trọng, dẫn đến việc nguồn thơng tin chưa chính thống xuất hiện
quá nhiều, tràn lan, thiếu chọn lọc, thiếu giá trị, gây ra sự nhiễu loạn về kiến
thức toàn cầu hoặc như còn thái độ dè dặt với các tài liệu tri thức nước ngoài của
các nhà quản lý đào tạo. Muốn chủ động lựa chọn kinh nghiệm của các nước và
đóng góp phần mình vào dịng chảy chung của nhân loại, muốn hội nhập và hấp
thu được cái lợi do cơng cuộc tồn cầu hóa mang lại, một trong những việc cần
làm là phải có một quyết sách mạnh mẽ nhằm thúc đẩy việc học tiếng Anh trong
nhà trường.


Singapore đã phát triển một phần vì biết dùng tiếng Anh làm công cụ giao
tiếp phổ biến. Gần đây nhất chính phủ mới của Hàn Quốc cũng đã có một
chương trình đầy tham vọng, đưa Hàn Quốc trở thành một quốc gia sử dụng
tiếng Anh hàng đầu Châu á. Ngoại ngữ là cơng cụ bắt buộc phải có để làm việc
trong mơi trường tồn cầu hóa, là phương tiện tốt nhất để tiếp cận với tri thức
hiện đại, để hiểu biết một cách chắc chắn, có gốc rễ. Có ngoại ngữ giỏi người ta
tự tin và có bản lĩnh hơn. Đã đến lúc chúng ta phải phổ cập tiếng Anh từ tiểu học
để ở đại học sinh viên khơng cịn phải .khó khăn trong việc sử dụng tài liệu bằng
tiếng nước ngồi nữa. Nếu làm tơi điều này thì giáo dục Việt Nam thực sự khởi
sắc và giải quyết được rất nhiều vấn đề cốt lõi. Về mặt tiêu cực tồn cầu hóa đã
làm trầm trọng thêm sự bất cơng xã hội, đào hố sâu ngăn cách giàu nghèo trong
từng nước và giữa các nước. Tồn cầu hóa làm cho mọi mặt của hoạt động và
đời sống của con người kém an tồn hơn từ kinh tế đến chính trị hoặc tạo ra
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và xâm phạm độc lập tự chủ của mỗi quốc
gia. Cùng với tồn cầu hóa, cũng xuất hiện và phát triển xu hướng thương mại
hóa của giáo dục đại học. Những giá trị của thị trường đã ùa vào trường đại học
vả bắt nhà trường phải thay đổi theo ý nó. Một trong những nhân tố chính là sự
thay đổi trong thái độ của xã hội đối với trường đại học.

Việc cung cấp tri thức trở thành một giao dịch thương mại đơn thuần. Giáo
dục đại học đang ngày càng bị coi là một sản phẩm thương mại để mua và bán
giờ đây đã vươn ra thị trường toàn cầu. Tổ chức thương mại thế giới WTO đang
xem xét một loạt các đề nghị về việc xem giáo dục đại học như một lĩnh vực
thương mại nhằm đảm bảo cho việc xuất nhập khẩu giáo dục đại học tuân theo
những luật lệ phức tạp, những quy định pháp quy theo nghị định như WTO và
đảm bảo cho nó gần như không bị hạn chế. Và sự phát triển một hệ thống giáo
dục đại học như những tổ chức trí tuệ, với trách nhiệm cốt yếu của mình vê
giảng dạy, học tập và nghiên cứu, giữ vững sự trung thành với những giá trị học
thuật truyền thống không phải là điều dễ dàng, nhưng cái giá phải trả cho sự
tăng trưởng thương mại hóa giáo dục cịn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên không phải
tất cả các nước, các khu vực đều có thể tiếp cận với nguồn giá trị to lớn này.


Một quan điểm về sự tiêu cực trong tác động của tồn cầu hố với giáo dục thêm
là sự đa dạng của công nghệ thông tin, dẫn đến sự đa dạng của cơng nghệ giải
trí, khiến cho người học mất tập trung, thậm chí là bị sa đà vào chúng. Như vậy,
đối với Việt Nam tồn cầu hóa khơng mang tính chất cưỡng bức, mà. là một cơ
hội, mang tính tất yếu. Trong bối cảnh đó, đặt vấn đề tồn cầu hóa về giáo dục
hồn tồn khơng có ý nghĩa tiêu cực. Tồn cầu hóa, kinh tế thị trường, cơng
nghệ thông tin hay bất cứ hiện tượng nào của cuộc sống cũng đều có hai mặt.
Tồn cầu hóa mang lại cho giáo dục Việt Nam nhiều cái lợi. Nó đặt giáo dục
Việt Nam trong bức tranh chung của giáo dục các nước trên thế giới, để từ đó
giáo dục Việt Nam nhận ra mình đang đứng ở đâu, hay dở chỗ nào. Lâu nay
trong một xã hội khép kín chúng ta dễ bằng lịng với chính mình, “mẹ hát con
khen hay”. Việc du nhập kinh nghiệm của các nền giáo dục phát triển khơng chỉ
có tác dụng nêu gương mà cịn tạo ra những “cú hích” cần thiết để phá vỡ những
khuôn mẫu đã cũ kỹ, lạc hậu, từ triết lý giáo dục, nội dung chương trình đến
phương pháp giảng dạy, tổ chức trường học ... Những kinh nghiệm tiên tiến ấy
sẽ góp phần hiện đại hố nền giáo dục Việt Nam, nối kết giáo dục Việt Nam với

các nên giáo giáo dục trên thế giới, mở rộng tầm nhìn và bậc thang giá trị vượt
ra biên giới quốc gia và dân tộc, hướng tới những chuẩn mực chung, có tính chất
tồn nhân loại từ đó đào tạo nên những con người khơng bị bó hẹp trong lối suy
nghĩ cực bộ mà biết tư duy có tính chất tồn cầu, có tinh thần dân chủ, có khả
năng hợp tác, có thể làm việc trong mơi trường quốc tế. Tồn cầu hóa đã mang
vào Việt Nam bức tranh hấp dẫn của các nền giáo.dục tiên tiến. Bức tranh ấy lôi
cuốn các nhà quản lý giáo dục, làm cho họ thấy cần phải thay đổi giáo dục Việt
Nam cho thật nhanh, thay đổi cùng một lúc tất cả. Tuy nhiên nguyện vọng tốt
đẹp nhưng duy ý chí ấy đã đẻ ra phương châm “đi tắt đón đầu”. Nhiều chủ
trương Ồ ạt về giáo dục hiện nay như: xếp loại đại học, đào tạo theo tín chỉ, tăng
học phí ở giáo dục phổ thông phản ánh tâm lý muốn “nhảy vọt”, muốn bắt
chước các nước tiên tiến, muốn nhanh chóng thực thi quan niệm xem giáo dục
như một hoạt động dịch vụ, có tính chất thị trường mà quên rằng giáo dục đại
học ở các nước ấy đã phát triển trước chúng ta hàng trăm năm, rằng cơ sở vật


chất của trường học ở ta cịn vơ cùng nghèo nàn, rằng đồng lương của thầy giáo
cịn khơng đủ. ăn. Nếu chúng ta đã muốn xây dựng những trường đại học lớn,
tầm cỡ quốc tế thì phải bắt đâu từ việc xây dựng từng bộ môn, từng khoa và làm
dần dần, chứ không phải là vội vã nhập các trường đại học hoàn chỉnh thành một
vài đại học quốc gia để rồi một thời gian sau lại cho các trường tách ra. Gần đây
việc nâng hàng loạt trường Cao đẳng lên thành Đại học, thậm chí một số khoa
trung cấp lên thành khoa của trường đại học, nhiều người đang dạy trung cấp và
cao đẳng bỗng dưng trở thành giảng viên đại học, đã bộc lộ cái nhìn thiển cận về
giáo dục đại học, thể hiện cách làm duy ý chí, nóng vội, cẩu thả mà chắc chắn
chúng ta phải trả giá trong một thời gian dài. Văn hóa và giáo dục là những thứ
hình thành dần dần, khơng.phải muốn là có ngay một lúc. Tồn cầu hóa mang lại
những bức tranh đẹp về nền giáo dục tiên tiên của các nước, như một làn sóng
tràn vào làm xáo động giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên học tập, bắt chước như thế
nào nhất định phải dựa trên những điều kiện thực tế của Việt Nam. Chúng ta đã

nói rằng tồn cầu hóa là cơ hội, là xu thế tất yếu. Trong bối cảnh đó một trong
những cách ứng xử khơn ngoan nhất là phải chủ động. Chủ động lựa chọn
những kinh nghiệm hay và phù hợp với thực tiễn của mình. Nhiều khi cái chúng
ta cần bắt chước khơng phải là cái mà các nước tiên tiến đang làm mà là những
kinh nghiệm của họ trong quá khứ, những kinh nghiệm để đi lên từ một nền giáo
dục còn lạc hậu đến một nền giáo dục có đẳng cấp quốc tế..Đặc biệt, chúng ta
phải chủ động trong việc giữ gìn những giá trị đặc sắc của nền giáo dục dân tộc
đã hình thành và phát triển hàng ngàn năm, từ đó giúp vào việc bồi dưỡng đạo
đức và tâm hồn của thế hệ trẻ. Cần phải nhận thức một cách sâu sắc rằng tồn
cầu hóa trong kinh tế khác tồn cầu hóa trong văn hóa.và giáo dục Thế giới có
thể “phẳng” về kinh tế và công nghệ nhưng không thể “phẳng” về văn hóa và
giáo dục. Bởi vì văn hóa và giáo dục là vấn đề con người, vấn đề đời sống tinh
thần và nhân cách của cá nhân mà mỗi cá nhân là một số phận, một vũ trụ riêng
tư không lặp lại, gắn với môi trường, với.cộng đồng bằng trăm ngàn sợi dây liên
hệ khác nhau. Chúng ta vẫn hay nói về bản sắc của văn hóa nhưng văn hóa
khơng thể hình thành thiếu giáo dục.


Bởi vậy muốn giữ gìn bản sắc văn hóa nhất định phải gìn giữ bản sắc của
giáo dục, gìn giữ cái riêng trong việc đào tạo con người. Cái riêng.ấy chủ yếu
không nằm trong việc truyền bá tri thức mà nằm trong quá trình bồi dưỡng ý
thức về các giá trị, q trình làm cho cá nhân khơng chỉ thơng minh và mạnh mẽ
hơn mà cịn nhân hậu hơn, có. đời sống tâm hồn phong phú hơn. Rốt cuộc thì
khơng phải cơng nghệ sẽ cứu thế giới, mà tình u, “cái đẹp sẽ cứu thế giới” (F.
Dostoiepxki). Giáo dục Việt Nam đã có một truyền thống lâu đời dựa trên
phương châm “Tiên học Lễ, hậu học Văn”. Đó là một di sản quí báu. Mỗi thời
đại giải thích phương châm này theo cách của mình, nhưng cái chung nhất vẫn
là đề cao những giá trị đạo đức, đề cao việc làm người. Nếu chúng ta hiểu “ Tiên
học Lễ” không phải là giáo dục sự phục tùng, chỉ biết vâng lời, mà là giáo dục
lịng kính trọng đối với người khác, sự tôn trọng những giá trị tốt đẹp, giáo dục

lòng hiếu thảo và vị tha, tinh thần nhân ái, ý thức về cộng đồng, thì phải xem
đây là truyền thống tốt đẹp cần được phát huy trong thời đại tồn cầu hóa. Để
tồn tại trong thời đại tồn câu hóa mỗi dân tộc cần phải có cái riêng của mình.
Sự đa dạng vê văn hóa và giáo dục khơng chỉ có lợi cho việc bảo vệ bản sắc của
mỗi dân tộc mà cịn quan trọng.với tồn nhân loại: Thế giới sẽ trở nên nhạt nhẽo
biết chừng nào nếu tất cả chỉ có một màu, mọi thứ đều giống nhau. Chúng ta đã
có những truyền thống tốt đẹp như “Tiên học Lễ, hậu học Văn”, “Tôn Sư trọng
Đạo”, “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” hay “Không thầy đố mày
làm nên”. Rất tiếc là những giá tri ấy đang bị mai một. Nếu khơng biết giữ gìn
và phát huy, chúng rất dễ bị chìm đi.trong làn sóng tồn cầu hóa, trong thời đại
kinh tế tri thức. Một xã hội tiến đến cơng nghiệp hóa đang biến những người đi
dạy học và chữa bệnh thành những người hành nghề chứ khơng cịn là thầy, là
lương y, từ mẫu. Trong khi mà nền kinh tế thị trường chưa đẻ ra được cơ chế
kiểm sốt tương ứng với nó, trong khi xã hội chưa đủ những ràng buộc pháp lý
cần thiết đối với mỗi thành viên của nó thì rất nhiều thứ phải trông chờ vào sự
lương thiện của con người. Nếu xã hội không tôn trọng thầy giáo và thầy giáo
chỉ cư xử với học sinh như một người hành nghề thì điều gì sẽ xẩy ra.


Giáo dục Việt Nam gắn chặt với văn hóa Việt Nam. Cũng như văn hóa, nó
phải đóng góp vào gia tài .chung của nhân loại phần riêng tốt đẹp của mình.
Tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu và cũng là cơ hội để Việt Nam hội nhập, để
giáo dục Việt Nam làm bạn với giáo dục các nước trên thế giới. Trên sân chơi
quốc tế chúng ta vừa phải nhập cuộc, vừa phải tỉnh táo biết mình là ai, để khơng
thu mình lại nhưng cũng khơng bắt chước, rập khuôn vội vã. Làm thế nào để
tiếp nhận và lớn lên qua làn sóng tồn cầu hóa, đó là thách thức đối với giáo dục
Việt Nam, trước hết là với những người có trách nhiệm lãnh đạo, với các nhà
quản lý giáo dục hiện nay.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nhờ có sự hỗ trợ về .công
nghệ thông tin, giáo dục đào tạo đang có sự phát triển khơng ngừng, là nền tảng

cho sự phát triển của tri thức nhân loại. Tri thức mới được tạo ra với cấp số
nhân, được phổ biến nhanh và rộng đến mức khơng hình dung được lại có thể
lưu giữ những khối lượng khổng lồ bằng những phương tiện vơ cùng gọn nhẹ và
việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng đến mức trẻ con cũng có thể làm được và thậm
chí cịn thao tác nhanh hơn người lớn ...
Trong bôi cảnh ấy, kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới
ln có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và trở nên
rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ
xa, hội nghị trực tuyến ... Cho đến hôm nay việc .tìm kiếm thơng tin, kiến thức
và giao lưu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc sách,
báo giấy trước đây. Nhờ vào đó mà, việc giáo dục và đào tạo trở nên dễ dàng, dễ
tiếp cận, khơng chỉ việc đa dạng hố cách tiếp cận trên phương pháp học tập như
học tại trường hay tại nhà, học trực tuyến ... mà còn trên phương pháp giảng
dạy.
Càng ngày càng có nhiều trường từ tiểu học cho đến đại học không ngừng
cải tiến cơ sở vật chất để đảm bảo khả năng tiếp cận cái mới, phương pháp học
mở, cũng như nguồn thông tin cho học sinh, sinh viên của mình. Tri thức, đặc
biệt là giáo dục, đang ngày càng xoá bỏ đi biên giới của chính mình, tạo thành
một hệ thống với bản chất chứa đựng “thuộc tính khơng biên giới”. Một trong


những điểm tích cực của việc mất đi tính biên giới của giáo dục nhờ vào tồn
cầu hố là việc đi du học. Những học thảo giới thiệu về đi du học xuất hiện với
tần suất ngày càng nhiều tại các thành phố lớn của Việt Nam là một trong những
minh chứng rõ nhất cho việc này. Tồn cầu hố làm cho thế giới phẳng hơn,
phương tiên đi lại, ngôn ngữ chung là những yếu tố đẩy mạnh sự giao lưu, đặc
biệt là giao lưu học tập, cho mọi người. Không chỉ đi du học tới các nước phát
triển hơn, mà thậm chí du học tới những nước ngang bằng hoặc thấp hơn để học
hỏi.


Khả năng nắm bắt thông tin ngày càng tốt lên, càng nhiều trường đại học
thành lập các trung tâm và biến đổi khí hậu, trung tâm quan hệ quốc tế, nhằm
mục đích nghiên cứu và .đẩy mạnh sự giao lưu tri thức giữa các nước, góp phần
làm phong phú hơn nguồn tri thức nhân loại. Việc du học Ồ ạt cũng đang lộ ra
những điểm tiêu cực của mình. Đầu tiên có thể kể đến sự chảy máu chất xám tới
các quốc gia mạnh hơn. Không ít các trường hợp học sinh được cấp học bổng,
được các doanh nghiệp nước ngoài “mua lại”, mà chúng ta khơng thê làm gì
được. Có những số liệu cho thấy 700/0 học sinh du học kể cả học bông hay tự
túc không quay về Việt Nam. Một điều khác về việc nhận học sinh du học. Do
sự khác biệt về văn hố, trình độ và nhiều yếu tố khác, du học sinh phải gặp
nhiều khó khăn trong q trình ở lại nơi mình học. Tuy nhiên, đối với trường
hợp các quốc gia mạnh hơn đưa học sinh du học tới các nước thấp hơn, lại tạo
nên sự ảnh hưởng ngược, chưa kể cách hành xử thiếu tôn trọng đối với nước sở
tại. Tiếp đến là việc các trung tâm Anh ngữ, mang danh quốc tế mọc lên càng
nhiều, Ồ ạt. Các nhóm người dưới danh nghĩa đào tạo giáo dục con người nhưng
mở những trung tâm thiếu chất lượng nhằm mục đích trục lợi cho bản thân, giảm
hiệu quả, tiêu tốn tài chính của người học. Một trong những ảnh hưởng tích cực
dễ thấy khác là sự hình thành hệ thống giáo dục toàn cầu, tức là hệ thống giáo
dục của các nước, các khu vực đang có xu hướng trở thành một nhằm nhiều mục


đích. Nhờ vào đó cùng một tấm bằng có thể được công nhận ở nhiều nơi hơn,
tạo điều kiện thuận lợi cho người học sau này.
Không chỉ vậy hệ thống giáo dục toàn cầu cũng thúc đẩy sự giao lưu, trao
đổi sinh viên, ngăn hạn hoạt dài hạn, mang lại nhiều lợi ích khác nhau. Nhưng
sự hình thành của hệ thống này, đang tạo áp lực lên các nước chưa có nên đào
tạo giáo dục ổn định. Động lực đổi mới không cao và do một số nguyên nhân
khác nữa, nên nền giáo dục của chúng ta tương đối khép kín. Mặc dù số lượng
cán bộ của ngành giáo dục có cơ hội đi thăm quan nước ngồi rất nhiều, nhưng
dường như việc học tập nước ngồi chưa có một chương trình thật bài bản với

những mục tiêu xác định nên kết quả không như mong muốn. Địa điểm tham
quan, vấn đề tìm hiểu trùng lặp, những kinh tiếp thu manh mún, thiếu đồng
bộ. . .Do vậy về cơ bản, hệ thống giáo dục và các chương trình của các cơ sở
đào tạo ở nước ta so với các nước tiên tiến trên thế giới cịn có khoảng cách khá
xa. Và đặc biệt điều đáng nói là tính liên thơng quốc tế của hệ thống giáo dục
nói chung và của các cơ sở đào tạo nước ta nói riêng cịn rất hạn chê. Nếu như ở
nước ngoài kể cả các nước Đơng Nam Á, các trường đại học có thể dễ dàng trao
đổi sinh viên với nhau vì họ cơng nhận hệ thống tín chỉ của nhau thì điều này
cịn rất khó khăn với các trường đại học nước ta.
Từ những phân tích đánh giá trên, chúng ta cần đưa ra những định hướng
phát triển giáo dục.Việt Nam trong thời gian sắp tới để đáp ứng và thích nghi
với bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay. Đó chính là một hệ
thống những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cần được vận dụng một
cách sáng tạo phù hợp thực tiễn giai đoạn mới.
Một là giáo dục đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển
tồn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh
tồn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Giáo dục đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động
có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có
kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc
hiệu quả trong mơi trường tồn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này


địi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương pháp
dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi,
giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng
và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Thông qua các hoạt động giáo
dục, các giá.trị văn hóa tốt đẹp cần được phát triển ở người học, giúp người học
hoàn thiện tố chất cá nhân, phát triển hài hòa các mặt trí, đức, thể, mỹ. Nội
dung, phương pháp và mơi trường giáo dục phải góp phân duy trì, bảo tồn và

phát triển nền văn hóa Việt Nam.

Hai là phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng
đầu
Giáo dục phải chăm lo nhiều hơn đến việc học của các tầng lớp nhân dân,
tạo điềukiện cho mọi người, đặc biệt là con em các đồng bào dân tộc thiểu số,
học sinh ở các vùng kinh tế chậm phát triển, học sinh khuyết tật, học sinh có
hồn cảnh khó khăn được tiếp cận với giáo. dục có chất lượng. Về phần mình,
người dân cần có ý thức và cân được tạo điều kiện tham gia vào quá trình giáo
dục, từ việc chia sẻ đóng.góp cho giáo dục phù hợp với hồn cảnh và điều kiện
của mình đến việc trực tiếp tham gia vào các quá trình giám sát, đánh giá, góp ý
và hiến kế cho các hoạt động giáo dục. Các thành phần xã hội đều có trách
nhiệm tham gia tích cực vào cơng tác giáo dục để quá trình giáo dục trở thành
một quá trình xã hội hóa sâu sắc.
Với quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước tiếp
tục dành sự ưu tiên cho giáo dục, không chỉ thế hiện ở những chính sách đầu tư
mà cịn ở sự lãnh đạo trực tiếp và triệt để hơn nữa đối với sự phát triển giáo dục
của nước nhà. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, những giải pháp chỉ
đạo giáo dục của Đảng và Nhà nước cũng cần có những đổi mới sáng tạo và linh
hoạt hơn để thích ứng với thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là giáo dục vừa đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa thỏa mãn nhu cầu phát
triển của mỗi cá nhân, mang đến niềm vui học tập cho mỗi người và tiến tới một


xã hội học tập. Để khắc phục tình trạng vừa lãng phí vừa thiếu hụt trong đào tạo
nhân lực, giáo dục phải bám sát nhu cầu và đòi hỏi của xã hội, thơng qua việc
thiết kế các chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực phục vụ
các ngành kinh tế đa dạng. Vì học sinh có những mong muốn, nhu cầu khác
nhau, điều kiện sống và học tập khác biệt, giáo dục chỉ thực sự có hiệu quả nếu
không đồng nhất với tất cả mọi đối tượng. giáo dục phải chú trọng nhiều hơn

đến cơ hội lựa chọn trong học tập cho mỗi học sinh. Các chương trình, giáo trình
và các phương án tổ chức dạy học phải đa dạng hơn, tạo cơ hội cho mỗi học sinh
những gì phù hợp với chuẩn mực chung nhưng gắn với nhu cầu, nguyện vọng và
điều kiện học tập của mình.

Mỗi trường học phải trở thành một mơi trường sư phạm thân thiện, ở đó
học sinh được cảm thơng, chia sẻ, được bày tỏ ý kiến riêng của mình và việc tới
trường trở thành một nhu cầu của mỗi học sinh. Nội dung, phương pháp giáo
dục, trách nhiệm và tình thương của đội ngũ.giáo viên, khung cảnh sư phạm của
nhà trường là những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn của mỗi nhà trường
Bốn là đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu tính
nhân văn, tiên tiến, hiện đại. Tồn câu hóa mang đến nhiều cơ hội cùng với
khơng ít thách thức, trong đó có nguy cơ văn hóa dân tộc bị lu mờ bởi việc du
nhập những lối sống và giá trị xa lạ, cực đoan, thậm chí phi nhân tính. Cần vận
dụng những kinh nghiệm giáo dục của nhiều nước tiên tiến trên thế giới để tiết
kiệm thời gian, công sức, tiền của, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nước ta
và các nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc tiếp nhận những mơ hình giáo dục của
nước ngồi phải được xem xét thận trọng để phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo tính khả thi đồng thời khơng làm tổn hại đến những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Vận dụng những bài học kinh nghiệm của
quốc tế phải được tiến hành đồng thời với việc nhấn mạnh hơn những yếu tố dân
tộc trong nội dung và phương pháp giáo dục, giúp người học hiểu biết sâu sắc về


văn hóa Việt Nam, biết tự hào về truyền thống dân tộc, có ý thức và trách nhiệm
gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Năm là phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong
hệ thống giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục. Sự quan tâm
của nhà nước trong nhiều năm qua đã được thê hiện rõ thông qua đầu tư ngày

một tăng cho giáo dục. Tuy nhiên, với một đất nước còn nghèo như nước ta, đầu
tư trong ngân sách nhà nước cho giáo dục dù đã tăng nhưng vẫn còn nhỏ bé so
với yêu cầu phát triển giáo đục đáp ứng mong mỏi của người dân và so với sự
đầu tư cho giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới . Phát triển những dịch
vụ giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ là cần thiết,
nhằm thu hút nhiều hơn các nguồn vôn đầu tư, tạo điều kiện mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân. Bên
cạnh đầu tư của nhà nước và của xã hội cho giáo dục, mỗi cá nhân tham gia vào
sự nghiệp giáo dục phải có những đóng góp tích cực góp phần tạo nên chất
lượng giáo dục. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục và giữa các cá
nhân tham gia giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục. Mỗi
học sinh, giáo viên, nhà quản lý và mỗi cơ sở giáo dục cần được tạo cơ hội để
phấn đấu đạt kết quả cao trong các nhiệm vụ của mình, từ đó tạo nên uy tín
riêng, và ngược lại được đối xử bằng sự tơn vinh, bằng các chính sách đãi ngộ,
đầu tư tương xứng với những đóng góp, uy tín và hiệu quả cơng việc.
Sáu là giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí
cịn hạn hẹp. Chất lượng là mục tiêu hàng đầu của mọi nền giáo dục, nhưng chất
lượng cũng đòi hỏi những đầu tư thỏa đáng. Trong vài thập niên tới ở nước ta
chưa thể đòi hỏi sự đầu .tư của nhà nước cho giáo dục ngang chững đầu tư của
nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là những nước phát triển. Cần tận dụng
sự đầu tư của nhà nước, những đóng góp của xã hội với nguồn lực còn hạn hẹp
để đạt đến chất lượng giáo dục tốt nhất, mặc dù chất lượng này có thể chưa so
sánh được với chất lượng giáo dục cao của nhiều nước khác trên thế giới. Việc
tận dụng các kinh nghiệm và mơ hình giáo dục của các nước tiên tiến, tích cực
đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tiết kiệm, chống tiêu cực trong giáo


dục, thu hút các nhà khoa học, nhà giáo giỏi trong và ngoài nước tham gia giảng
dạy, đào tạo và. nghiên cứu khoa học ... là những .giải pháp cần được chú trọng
nhằm sử dụng tối ưu các nguồn đầu tư và hỗ trợ để nâng cao chất lượng giáo

dục. Từ những định hướng phát triển giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta
vạch ra, trong những.năm qua, các trường đã bám sát đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước,.phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành, trực tiếp là Bộ Giáo
dục và Đào tạo để triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nội
dung, chương trình đào tào.

Một là, đẩy mạnh việc quy hoạch hệ thống nhà trường; nâng cao hiệu quả
chỉ đạo, quản lý đào tạo và xây dựng nhà trường. Thực hiện công tác này, các cơ
quan chức năng, nhà trường cần bám sát hướng tổ chức trong những năm tới để
xây dựng quy hoạch hệ thống nhà trường sao cho tinh, gọn, ổn định về tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ, bậc học, ngành nghề và lưu lượng đào tạo; trong đó, ưu
tiên xây dựng trường trọng điểm đạt chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế. Hoàn
thiện cơ chế phân công, phân cấp chỉ đạo, đầu tư, bảo đảm, tránh chồng chéo,
phân tán; đồng thời, hoàn thiện hệ thống văn bằng của các bậc học và xây dựng
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường.
Hai là, tiếp tục kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục. Từng trường căn cứ vào nhiệm vụ, quy mô đào tạo để xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý.đạt chuẩn theo quy định của Chính phủ, bảo đảm đủ
số lượng và chất lượng (nhấn mạnh bản lĩnh chính trị, trình độ giảng dạy và hiệu
quả cơng tác), có lượng dự trữ đúng theo quy định của Bộ giáo dục- đào tạo.
Ba là, đổi mới quy trình, chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục,
đào tạo Mục tiêu đơi mới quy trình, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo
phải thống nhất đáp ứng nhu cầu xã hội và phát triển kinh tế. Do đó, phải đổi
mới quy trình, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, phù hợp với mặt bằng chung của hệ thống giáo dục quốc gia và
phản ánh hoạt động đặc thù của lĩnh vực . Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu


khoa học, kết hợp chặt chẽ giáo dục, đào tạo với nghiên cứu khoa học. Từng
trường cần tạo ra phong trào nghiên cứu khoa học sâu rộng trong cán bộ, giảng

viên và sinh viên, hướng chủ thể nghiên cứu vào các đề tài trực tiếp phục vụ
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và từng chuyên ngành mà nhà trường có nhiệm vụ
đào tạo.
Năm là, tăng cường phối hợp giữa các sinh viên, nhà trường và các công ty,
nhà máy hay các nơi sử dụng nguồn nhân lực và phát triển hợp tác quốc tế về
giáo dục, đào tạo. Cần chú trọng thực hiện tốt liên kết đào tạo giữa các trường
trong nước và quốc tế để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, nghiên cứu
khoa học; đồng thời, tham gia đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường chất lượng quan hệ giữa các nhà trường
và cơ quan công ty trong sử dụng sinh viên ra trường, trong đánh giá kết quả
thực tập của sinh viên và trình độ, năng lực của sinh viên tốt nghiệp. Thực hiện
tốt phương châm “đào tạo theo địa chỉ”, “đào tạo theo đơn đặt hàng” của các
doanh nghiệp. Mặt khác, các nhà trường cần từng bước hoạch định, xây dựng
chiến lược phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo phù hợp với thay đổi
của tình hình thế giới, khu vực và trong nước; nâng cao hiệu quả hợp tác, mở
rộng liên kết đào tạo với nước ngồi; tích cực nghiên cứu kinh nghiệm đào tạo
của các nước.
Sáu là tăng cường đầu tư theo hướng “chuẩn hóa” cơ sở vật chất và ứng
dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại cho công tác quản lý giáo dục, đào tạo ở các
học viện, nhà trường. Trước hết cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
cho phòng quản lý và điều hành huấn luyện đáp ứng yêu cầu thu thập, nắm tình
hình, xử lý và quản lý thơng tin để phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ giáo dục, đào
tạo. Mặt khác, cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng và
phát triển các phần mềm chuyên dụng để quản lý từng nội dung của nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo ở các cơ sở đào tạo và cả . hệ thống giáo dục, đào tạo trong
bằng mạng vi tính; tập trung đầu tư nâng cấp thư viện, phịng học chuyên ngành,
cơ sở thực hành.


Tóm lại, nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ mới đang đặt ra yêu

cầu rất cao về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, các nhà trường
cần tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi
mới công tác giáo dục, đào tạo, đông thời triển khai thực hiện có hiệu quả hệ
thống giải pháp, khơng ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực cho và đất nước trong tình hình mới. Đặc biệt
là trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, nguồn lực con
người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công
của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ
quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát
triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Thực tiễn phát triển
giáo dục đất nước đã khẳng định những định hướng đúng đắn của chiến lược và
chắc chắn sẽ tạo những bước chuyển căn bản của giáo dục trong thập niên tới.



×