Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Tăng cường huy động vốn tại sở giao dịch i – ngân hàng thương mại cổ phẩn công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.75 KB, 117 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian, giữ vai trò quan trọng trong
việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Hoạt động huy động vốn là một trong 2 hoạt
động cơ bản của ngân hàng để thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Để có vốn
cho hoạt động kinh doanh của mình các ngân hàng thương mại phải tìm cách tạo lập
được vốn bằng nhiều hình thức khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó huy
động là hình thức tạo vốn quan trọng, lượng vốn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh
tế tồn cầu nên tình hình huy động vốn của các NHTM trong nước gặp nhiều khó
khăn, cơng tác huy động vốn tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng Thương mại cổ phẩn
Công thương Việt Nam (Nay là Chi nhánh thành phố Hà Nội) cũng trong tình trạng
tương tự. Do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng
trong nước, ngoài nước nên công tác huy động vốn tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng
Thương mại cổ phẩn Công thương Việt Nam ln được quan tâm đẩy mạnh nhằm
duy trì và tăng trưởng nguồn vốn huy động.
Từ thực tế trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ “Tăng
cường huy động vốn tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng Thương mại cổ phẩn Công
thương Việt Nam” nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh cơng tác huy động vốn tại
đơn vị.

2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống các vấn đề lý luận về vốn trong NHTM và cơng tác huy động vốn
tại các NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại Sở Giao dịch I –
Ngân hàng Thương mại cổ phẩn Công thương Việt Nam, những mặt đã làm được
và những mặt cịn hạn chế, từ đó tìm ra ngun nhân của những tồn tại.



2

- Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Sở
Giao dịch I – Ngân hàng Thương mại cổ phẩn Công thương Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về công tác huy động
trong các NHTM.
- Phạm vi nghiêu cứu của đề tài là công tác huy động tiền gửi tại Sở Giao
dịch I – Ngân hàng Thương mại cổ phẩn Công thương Việt Nam trong giai đoạn
2006 – 2009 và định hướng cho thời gian tới.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Với phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, suy diễn logic để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng Thương
mại cổ phẩn Công thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Sở Giao dịch I – Ngân
hàng Thương mại cổ phẩn Công thương Việt Nam.


3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại (NHTM), người ta
thường phải dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính
và đơi khi cịn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.Với mỗi quốc gia
khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại
hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo
cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tổ chức tài chính, cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào
trong nền kinh tế.
Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết yếu bao
gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và
các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ
chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm... ”.
Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở
hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng
hay dịch vụ tài chính”.
Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam: “Ngân hàng là TCTD thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.


4

“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền

gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh tốn”.
“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận”.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các NHTM đều có chung một
tính chất, đó là: việc nhận tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các
nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.
Như vậy Ngân hàng thương mại là một doanh ngiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng. Dựa vào tính chất và mục tiêu hoạt động, có thể chia ngân hàng
thành các loại hình sau:
- Ngân hàng thương mại: (cịn gọi là ngân hàng tiền gửi hay ngân hàng tín
dụng với nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngắn hạn
và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Tuy nhiên do thị
trường ngày càng phát triển, dần dần các ngân hàng này đi vào kinh doanh tổng
hợp, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và làm như tất cả các
nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng.
- Ngân hàng phát triển: Nét đặc trưng nổi bật là những ngân hàng tập trung
huy động vốn trung, dài hạn vì sự phát triển (khơng chỉ duy trì quy mơ, chất lượng
cũ). Hoạt động của các ngân hàng này chủ yếu qua đầu tư trực tiếp các dự án lớn.
- Ngân hàng đầu tư: Hoạt động với mục tiêu đầu tư trung, dài hạn cũng vì sự
phát triển nhưng thơng qua các hình thức đầu tư gián tiếp qua giấy tờ có giá. Hoạt
động của ngân hàng này gần gũi với nghiệp vụ chứng khốn. Các lọai giấy tờ có giá
được mở rộng thì loại ngân hàng này cũng phong phú và phát triển.


5

- Ngân hàng chính sách: Thơng thường là những ngân hàng thương mại
100% vốn Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước (gồm sở hữu
Nhà nước và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh), được lập ra để phục vụ

một số chính sách của Nhà nước như ngân hàng người nghèo, ngân hàng phát triển
nhà ở, ngân hàng xuất nhập khẩu... ). Loại ngân hàng này hoạt động khơng vì nục
tiêu lợi nhuận. Nó được tạo vốn dưới hình thức đặc thù để cho vay ưu đãi nhưng
được Nhà nước bù phần chênh lệch lãi suất.
- Ngân hàng hợp tác: (Hay gọi rộng ra là những tổ chức tín dụng hợp tác) là
những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện lập nên
khơng phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau nhiệm về vốn
và dịch vụ ngân hàng. Nó có thể có nhiều hình thức từ thấp đến cao, như hợp tác tín
dụng, quĩ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác... Nó có thể là tổ chức tín dụng hợp
tác độc lập ở từng mắt, khâu và có sự liên kết tồn hệ thống (như quĩ tín dụng nhân
dân).

1.1.2. Vai trò và chức năng cơ bản của Ngân Hàng thương mại
1.1.2.1. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
a) Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế


6

Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất
hàng hoá phát triển, lưu thơng hàng hố ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện
người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương mại ra đời là chìa khố
giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm
được lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối được vốn trong nền kinh tế giúp cho
các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn
tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi
cần vốn để tiến hành tái sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt
hơn. có lợi nhuận cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế
càng tăng, khơng một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ

chức trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất cả
các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.

b) Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường


7

Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản xuất bất
cứ cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ?
và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của thị trường. Thị trường yêu
cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã
đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh
nghiệp phải được đầu tư bằng dây truyền cơng nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công
nhân lao động phải được nâng cao... Những hoạt động này địi hỏi doanh nghiệp
phải có một lượng vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Do
đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng để vay
vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thơng qua hoạt động tín dụng,
ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng cung ứng cho các doanh nghiệp đã đóng vai trị quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp
ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc
trong cạnh tranh.

c) Ngân hàng thương mại là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ của toàn
bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự giao động của Ngân
hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt

động có hiệu quả của NHTM thơng qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là
công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.


8

Thơng qua hoạt động tín dụng và thanh tốn giữa các Ngân hàng trong hệ
thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu
thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã
thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều
kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn
cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trị điều tiết gián tiếp vĩ mơ nền kinh
tế.

d) Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế
Ngày nay, trong xu hướng tồn cầu hố nền kinh tế thế giới với việc hình
thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối
quan hệ thương mại, lưu thơng hàng hố giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng
được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính của một quốc gia cần
phải hồ nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng thương mại là trung gian,
cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra nước ngoài là một hướng đầu tư
quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời các nước cần xuất khẩu những
mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu.
Các ngân hàng thương mại với những nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho
vay, bảo lãnh... và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh tốn quốc tế, đã góp phần tạo
điều kiện, thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.

1.1.2.2. Chức năng:
a) Chức năng làm trung gian tín dụng

Ngân hàng Cơng thương - Ngân hàng Thương mại quốc doanh, cho nên cũng
có chức năng trung gian tín như Ngân hàng thương mại và được thể hiện qua sơ đồ
luân chuyển vốn sau:


9


nhân

doanh
nghiệp

Gửi tiền

Ngân
hàng
thương
mại

Uỷ thác đầu tư

Đầu tư

Đầu tư


nhân

doanh

nghiệp

Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn

Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu nối"
giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã khơng chỉ đem lại lợi ích cho
những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà cịn đem lại lợi ích kinh tế
cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho
bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng
môi giới, 80% lợi nhuận của Ngân hàng Công thương - Ngân hàng thương mại
Quốc Doanh là thông qua hoạt động cho vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có
vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu
vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô
sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi khơng hoạt động
thành vốn hoạt động, kích thích q trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh. ây chính là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, nó quyết
định sự duy trì và phát triển của Ngân hàng.

b) Chức năng trung gian thanh toán và chủ thể cho các doanh nghiệp
trong nền kinh tế
Chức năng trung gian thanh tốn có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán
hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo
yêu cầu của họ. Thơng qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trò là người "thủ
quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách
hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức
năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.


10


Thơng qua chức năng trung gian thanh tốn, hệ thống Ngân hàng thương mại
góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng
sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh tốn cho khách hàng đồng thời tốc độ luân
chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn
của khách hàng tăng. Đối với Ngân hàng thương mại chức năng này góp phần tăng
lợi nhuận của ngân hàng thơng qua việc thu lệ phí thanh tốn. Hơn nữa, nó lại tăng
nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của
khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền
của Ngân hàng thương mại.

c) Chức năng tạo tiền:
Vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành
trong đó NHTW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ còn các
NHTM thực hiện vai trò kinh doanh tiền tệ. Khi đó, các NHTM thơng qua chức
năng trung gian thanh tốn và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi sổ trên tài khoản
tiền gửi thanh tốn của khách hàng tại NHTM. Nói cách khác, nhờ hoạt động trên
hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.


11

Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản tiền
gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín dụng
cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy
động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ thanh tốn cho khách hàng đều
có khả năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức năng trung gian thanh tốn và trung gian
tín dụng làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh tốn. Từ một
khoản tiền gửi ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử
dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá,

thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng
vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá,
thanh toán dịch vụ... tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy
động được số vốn mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của
NHTM chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của NHTM thực hiện bằng chuyển
khoản ghi nợ cho tài khoản nay và ghi có cho tài khoản khác có liên quan.
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một số
dự trữ ban đầu thơng qua q trình cho vay và thanh tốn bằng chuyển khoản của
ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban
đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. hức năng này
được thực hiện thơng qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM trong
mối quan hệ với NHNN qua vấn đề DTBB. Khi NHTM cấp vốn tín dụng cho khách
hàng A, lập tức số tiền này có thể chuyển thành tiền gửi của khách hàng B (mở tại
một Ngân Hàng bất kì) NHTM lại dùng nguồn vốn này cho các đối tượng khác vay.
Như vậy, từ một đồng vốn kí thác ban đầu, hệ thống NHTM có thể tạo ra một số
vốn tín dụng lớn hơn nhiều lần đẻ ra bội số tín dụng. Đây chính là khả năng tạo tiền
của NHTM, để kiểm soát khả năng này, luật pháp cho phép NHNN được quyền,
buộc các NHTM phải kí gửi tại NHNN một phần của tổng số tiền họ nhận được từ
những khách hàng gửi tiền gọi là dự trữ bắt buộc.


12

Theo thuyết tạo tiền: khi một khối lượng tiền gửi tăng lên, khả năng cho vay
của toàn bộ hệ thống NHTM sẽ tăng lên nhiều lần. Ngược lại khi bớt đi một lượng
tiền gửi khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống NHTM sẽ giảm đi nhiều lần. Cụ
thể:
Khả năng mở rộng tiền
gửi của Ngân Hàng


=

Hệ số nhân mở
rộng tiền tệ

Số tiền gửi huy động
ban đầu
=



1
Tỉ lệ Dự trữ bắt buộc

Hệ số nhân mở
rộng tiền tệ


13

Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên qua chặt chẽ tới chính sách tiền
tệ của NHNN. Thơng qua hệ thống NHTM, NHNN có thể tăng hoặc giảm lượng
tiền cung ứng bằng cách thay đổi tỉ lệ DTBB. Thực hiện chức năng tạo tiền, với
việc cho vay khơng có sự xuất hiện của tiền mặt, các NHTM đã giảm được khối
lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền
cung ứng phù hợp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp,
làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu chi trả của
xã hội.

d) Cung cấp các dịch vụ tài chính

Ngồi các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay
còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán,
dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm...
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng
cũng phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. chưa bao giờ các dịch vụ
tài chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở
các ngân hàng hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng
thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu
chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thơng do đó tiết
kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc
đưa ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh
tranh. Chính vì vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở
vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình.
Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy
tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy động
vốn.

e) Chức năng khác


14

Ngồi các chức năng chủ yếu như trên, NHTM cịn tham gia vào nhiều dịch
vụ khác: Tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, dịch vụ
ủy thác, dịch vụ bảo quản an toàn các tài sản có giá, dịch vụ kinh doanh ngoại hối...
nhằm hỗ trợ và mở rộng hoạt động kinh doanh của NHTM trong thị trường tài
chính.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở

cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NHTM thực hiện tốt chức
năng thủ quỹ và trung gian thanh tốn góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở
rộng quy mơ hoạt động của ngân hàng.

1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác. Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập
quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách
hàng gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng
chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng và Ngân hàng trả cho khách hàng một
khoản lãi và Ngân hàng đã thưc hiện vai trò tập trung và phân phối vốn làm tăng
nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích mọi hoạt
động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn
tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn của ngân hàng thương
mại chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng, bao gồm:
- Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định đến khả
năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.


15

- Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn
huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử
dụng và phải hồn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động,
tuy nhiên nó đóng vai trị rất quan trọng đối với mọi hoạt động của ngân hàng.

- Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương đối
cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
- Vốn khác là phần vốn phát sinh trong q trình thực hiện các nghiệp vụ
thanh tốn...

1.2.2. Vai trị của vốn đối với hoạt động của Ngân hàng thương
mại
1.2.2.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và
đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển
sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết
kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên
phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương mại.
Thơng qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp
phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng
trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh tốn
đồng thời các khoản tiền ln được vận động, quay vịng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.


16

Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối
về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư ln có điều kiện để thực
hiện. Q trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy
động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện
bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước... nhưng trong điều

kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình
thức chủ yếu và quan trọng nhất.

1.2.2.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
a) Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn.
Ngồi lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.
Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà
cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với
những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng hơn
các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng
kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, khơng có vốn thì
ngân hàng khơng thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.

b) Vốn quyết định quy mơ hoạt động tín dụng và các hoạt động khác
của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân
hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được
nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có
điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mơ tín dụng. Các ngân hàng lớn,
nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động kinh
doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng khẳng định
rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


17

c) Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, ln được ca

ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính
là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh tốn của ngân hàng ln được
đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng.
Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh tốn ln được các ngân hàng ưu
tiên hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng ln tìm cách huy động được
nhiều vốn hơn.

d) Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để
các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mơ hoạt
động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lơi kéo khách hàng mới, giữ
chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng thời làm
tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả
năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt
về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi... Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được
cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.

1.2.3. Hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh tốn hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng
huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.


18

Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong mơi trường cạnh tranh và để có nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình

thức huy động khác nhau.

a) Phân loại theo thời hạn:
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền khơng xác
định, khách hàng (cá nhân, tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích
của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh tốn khi
có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là
bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn:
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian
xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi
đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm
hoặc trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước
thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới
lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo
trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người
gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.

b) Phân loại theo đối tượng:
- Tiền gửi của dân cư


19

Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến.
Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm với
mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu
cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều
khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách ở

rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn ...
- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn
vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong
thanh tốn. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này
thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng u
cầu thanh tốn của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải
thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải
vì sao ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi
phí thấp và được sử dụng cho vay khơng chỉ ngắn hạn mà cịn cả trung hạn. Tuy
nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mơ, loại
hình của doanh nghiệp.

c) Phân loại theo mục đích:
- Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo quy định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập
bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng. Nó là
một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người
gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng.
Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền
lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm.Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.


20

- Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán.
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ

ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả
của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán
theo yêu cầu. Lãi suất của khoản tiền này rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể
được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- Tiền gửi “lai” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể u cầu ngân hàng thanh tốn
hộ, vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên,
lãi suất của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi tính
cố định của khoản gửi, ngân hàng có thể khơng sử dụng được hoặc sử dụng rất ít số
vốn huy động này để cho vay hoặc đầu tư.

1.2.3.2. Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi
cần các ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương
thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân
hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả
khi khả năng huy động bị hạn chế.

a) Vay NHNN



×