TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KHOA HỌC - QUẢN LÝ
Lê Minh Thơng
Tên đề tài: Giải pháp chính sách phát triển kinh tế ven biển tỉnh Thanh Hóa
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VEN BIỂN
CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Chuyên đề Luận án Tiến sỹ
Chuyên đề số 1
Chuyên ngành: Khoa học Quản lý
Mã số của chuyên ngành: 62.34.01.01
Năm 2010
1
MỞ ĐẦU
1. Mục đích nghiên cứu.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế biển. Với 28 trên
64 tỉnh, thành phố có biển, với khoảng 30% dân số ở vùng ven biển; hơn 3260 km bờ
biển; 112 cửa sông lạch, 4000 đảo lớn nhỏ và trên 1 triệu km2 vùng biển đặc quyền
kinh tế, so với nhiều quốc trên thế gới, Việt Nam đang sở hữu một nguồn tài nguyên
vô giá về biển. Tài nguyên biển Việt Nam bao gồm nhiều loại: Dầu khí, Hải sản,
đường vận tải, môi trường du lịch, năng lượng khác… Chỉ riềng nguồn lợi hải sản,
biển Việt Nam gồm nhiều loại, với hơn 75 lồi tơm cua, 25 lồi mực, 2100 loài cá, 7
loài bạch tuộc cùng nhiều nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như Trai, Ngọc, Vẹm, Hào,
Bào ngư, Sò huyết, Ngao, ... Vùng đất ven biển có điều kiện thuận lợi phát triển thuỷ
sản, sản xuất muối, phát triển dịch vụ du lịch, phát triển các loại hình cơng nghiệp.
Các hoạt động kinh tế gắn với việc khai thác các nguồn tài nguyên biển trên
đây vừa có liên hệ hỗ trợ nhau, nhưng đồng thời cũng cản trở nhau, gây hậu quả cho
nhau, Đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hố nhanh như hiện nay, nguy cơ khai
thác khơng hiệu quả, tình trạng huỷ hoại tài nguyên biển,ven biển đang diễn
ra,trong khi công tác quản lý của các nhà chức trách thiếu các giải pháp hữu
hiệu.Bên cạnh đó nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên, phát triển không bền vững đã
đến lúc báo động.
Hiện nay theo khuyến cáo của các nhà khoa học thì tài nguyên biển và tính đa
dạng sinh học biển Việt Nam đang bị đe doạ nghiêm trọng vì ơ nhiễm, tình trạng
khai thác quá mức và sử dụng những phương pháp khai thác hải sản mang tính huỷ
diệt. Trong những năm gần đây, việc nuôi tôm phát triển mạnh đã tạo thêm nhiều
công ăn việc, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho con người. Tuy nhiên nước xả
từ các đầm nuôi tôm đang làm ô nhiễm nặng môi trường biển. Việc bơm hút nước
ngầm quá mức phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản cũng làm mặt nước ngầm bị hạ
thấp, tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền vùng ven biển, ảnh
hưởng xấu đến sản xuất nơng nghiệp. Việc hình thành các khu cơng nghiệp trên
thượng lưu các dịng sơng đã gây nên nạn ơ nhiễm nặng nề ở các cửa sông, cửa biển
do các chất thải được trực tiếp xả ra sông biển. Các hoạt động du lịch cùng với chất
thải sinh hoạt của dân cư hàng ngày thải ra sông biển một khối lượng lớn chất thải
các loại cũng là tác nhân quan trọng gây nên tình trạng ơ nhiễm nặng nề vùng ven
biển. Tình trạng xói lở đất ven biển đang gây ra lo ngại lớn, đặt ra vấn đề phải giải
toả, tái định cư do các hộ dân bị mất đất…
Thực tiễn công tác quản lý tài nguyên vùng ven biển hiện nay cho thấy hai mặt
trái ngược nhau rất rõ rệt: một mặt chúng ta chưa phát huy hết tiềm năng kinh tế biển
được coi là kho của cải giàu có của đất nước cho mục tiêu phát triển, mặt khác do hoạt
động kinh tế bừa bãi đã làm cho tài ngun biển nhanh chóng bị cạn kiệt, mơi trường
sinh thái bị phá huỷ nghiêm trọng. Tình hình đó đã gióng lên hồi chuông báo động về
sự phát triển không ổn định và thiếu bền vững trong một tương lai rất gần.
2
Vấn đề đặt ra là phải khẩn trương ban hành các chính sách phù hợp nhằm
tăng cường quản lý, tạo ra một sự điều hành thống nhất các hoạt động khai thác tài
nguyên vùng ven biển của tỉnh đạt hiệu quả cao và bảo đảm sự phát triển kinh tế ổn
định, lâu dài và bền vững.
Tuy nhiên, chính sách phát triển kinh tế ven biển là gì? Đặc điểm về nội dung
cấu thành, các nhân tố ảnh hưởng, việc đo lường đánh giá tác động như thế
nào?...vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu chuyên đề chính
sách phát triển kinh tế ven biển dưois góc độ lý thuyết có ý nghĩa quan trong cho
việc soi sang hành động thực tiễn trong việc hồn thiện chính sách phát triển kinh tế
ven biển nói chung, từng địa phương nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề
- Làm rõ phạm trù kinh tế ven biển và chính sách phát triển kinh tế ven biển
- Khái quát nội dung chính sách phát triển kinh tế ven biển.
- Phân tích các công cụ và nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và hồn
thiện chính sách phát triển kinh tế ven biển
3. Bố cục của chuyên đề: gồm ba phần
3.1. Phát triển kinh tế ven biển: khái niệm, nội dung và đặc điểm
3.2. Khái niệm, đặc điểm chính sách phát triển kinh tế ven biển
3.3. Chính sách phát triển kinh tế ven biển: các công cụ và nhân tố ảnh hưởng
1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ VEN BIỂN: KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ
ĐẶC ĐIỂM
1.1. Khái niệm kinh tế biển và ven biển
Kinh tế biển hiểu một cách tổng quát nhất bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh
tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên
quan đến khai thác và sử dụng tài nguyên biển. Cụ thể là:
- Các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu bao gồm: (1) Kinh tế hàng
hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản);
(3) Khai thác dầu khí ngồi khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và (7) Kinh tế đảo.
- Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác và sử dụng tài nguyên
biển, mặc dù chúng không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này
là phải dựa vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải
đất liền ven biển, bao gồm: (1) Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được
xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); (2) Công nghiệp chế biến dầu, khí; (3)
Cơng nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; (4) Cung cấp dịch vụ biển; (5) Thông tin liên lạc
biển; (6) Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; (7) Đào tạo nhân lực phục vụ phát
triển kinh tế biển; và (8) Điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển.
Kinh tế ven biển là các hoạt động kinh tế diễn ra ở các vùng ven biển. Nó bao
gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và trên đất liền của vùng ven biển.
Theo nghĩa rộng, kinh tế ven biển là hoạt động kinh tế của các huyện ven biển
3
Các hoạt động kinh tế của huyện ven biển về nông nghiệp bao gồm tất các
các hoạt động trồng trọt mà người lao động sử dụng nước ngọt, nước lợ và nước
mặn để tạo ra sản phẩm; các hoạt động nuôi trồng trên địa bàn.
Các hoạt động kinh tế của huyện ven biển về ngư nghiệp bao gồm tất cả các
hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản ở các vùng nước mặn (ven bờ), nước lợ
và nước ngọt trên địa bàn huyện.
Lâm nghiệp ven biển: đó là hoạt đồng trồng và bảo vệ rừng ở các huyện ven
biển. Nó bao gồm hoạt động trồng và bảo vệ các rừng được nuôi dưỡng bằng nguồn
nước ngọt, rừng ngập mặn và các rừng được trồng để thực hiện nhiệm vụ chắn gió,
bão cát…
- Kinh tế cơng nghiệp ven biển: bao gồm các hoạt động kinh tế trong ngành
cơng nghiệp có sử dụng trực tiếp các đầu vào cho quá trình sản xuất có nguồn gốc
từ biển. Cơng nghiệp ven biển cũng như các ngành công nghiệp khác, khi tiến hành
các hoạt động kinh tế thì chúng diễn ra trên quy mơ lớn và có sự trợ giúp của khoa
học, kỹ thuật và cơng nghệ trong q trình tạo ra sản phẩm.
- Kinh tế du lịch, dịch vụ ven biển: đó là việc tận dụng lợi thế của biển để tiến
hành các hoạt động thương mại, dịch vụ..
Sản phẩm du lịch bắt đầu đa sắc, khơng chỉ cịn gói gọn loại hình nghỉ dưỡng
mà mở rộng sang du lịch kết hợp tìm hiểu văn hóa lịch sử truyền thống, thể thao,
hội nghị hội thảo, tổ chức sự kiện quy mô hơn.
Các sản phẩm dịch vụ ven biển bao gồm hai hình thức, (i) các sản phẩm dịch
vụ được tạo ra bởi các khu vực khác nhưng được tham gia vào quá trình tạo ra giá
trị của vùng ven biển; (ii) các sản phẩm dịch vụ là đặc trưng của khu vực ven biển
mà những khơng khác khơng có khả năng tạo ra những loại dịch vụ này.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế ven biển là các hoạt động kinh tế diễn ra trên các
vùng ven biển; nhưng những hoạt động kinh tế này lại dựa vào lợi thế của vùng ven
biển. Nói cách khác, khi đề cập đến kinh tế ven biển theo nghĩa hẹp người ta chỉ
quan tâm đến những hoạt động kinh tế sử dụng nguồn lực trực tiếp của biển trên địa
bàn những huyện ven biển.
1.2. Các ngành kinh tế ven biển
1.2.1.Kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp ven biển
Kinh tế nông nghiệp ven biển bao gồm các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và nghề muối ở các huyện ven biển
Về trồng trọt, theo truyền thống và thực tế, tùy thuộc vào điều kiện đất đai,
khí hậu và nguồn nước ở các vùng ven biển mà người dân lựa chọn các loại cây
trồng, vật nuôi cho phù hợp để triển khai các hoạt động nơng nghiệp ven biển. Theo
nghĩa rộng thì các loại cây trồng ở vùng ven biển sẽ được lựa chọn dựa vào khả
năng thích nghi của các loại cây này với điều kiện thổ nhưỡng của từng vùng ven
biển. Nó có thể là các loại cây trồng sử dụng nước ngọt hay nước mặn; còn theo
nghĩa hẹp, cây trồng của vùng ven biển chỉ bao gồm các loại cây cói.
4
Hoạt động thủy sản là nghề truyền thống từ lâu đời, tạo ra nguồn lợi thực
phẩm thủy sản cao cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc
làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện,
bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, ven biển. Theo truyền thống, hoạt động
thủy sản bao gồm toàn bộ các hoạt động đánh bắt thủy sản của người dân vùng ven
biển. Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng tăng của khoa học kỹ thuật cũng như
nhu cầu tiêu dung của con người, hoạt động nuôi trồng thủy sản ngày càng mở
rộng, nên hoạt động thủy sản bao gồm cả nuôi trồng và khai thác thủy sản, kể cả
nước mặn, nước ngọt và nước lợ.
Ở nước ta, hoạt động ni trồng thủy sản ven biển có rất nhiều tiềm năng và
lợi thế. Trên phạm vi cả nước, diện tích có khả năng ni trồng thủy sản ven biển
khoảng trên 400.000 ha ở các vịnh và đầm phá, người dân có thể phát triển ni
trồng thủy sản biển với giống loài phong phú, nhưng tập trung chủ yếu vào các loại
tơm hùm, cá song, cá giị, cá cam, cá hồng, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, trai lấy
ngọc, ngao, nghêu, hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô...
Lâm nghiệp ven biển từ lâu đời đã cho thấy ý nghĩa to lớn của nó là bảo vệ
mơi trường, tạo đa dạng sinh học ven biển và chống bão, gió, cát bay (xa mạc hóa).
Theo đánh giá của tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (UNCR) thì rừng ngập mặn
ở Việt Nam là hệ thống sinh thái có giá trị bảo vệ môi trường cao, ngăn ngừa thiên
tai và tạo sự bền vững trong phát triển kinh tế xã hội. Những khu rừng ngập mặn
dọc vùng ven biển Việt Nam làm giảm thiểu tác động tiêu cực của lũ lụt và những
điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đồng thời làm nhẹ các tác động tiêu cực của biến đổi
khí hậu đã được các chuyên gia thay đổi khí hậu dự báo là vô cùng khắc nghiệt ở
Việt Nam.
Nghề làm muối là một nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam, gắn chặt
với nguồn nước biển và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết, nhiệt
độ, nắng trời ở các vùng ven biển. Trong những năm qua, cả nước có 20 tỉnh, thành
ven biển phát triển hoạt động sản xuất muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn ha
và sản lượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo việc
làm cho hơn 90 nghìn lao động.
1.2.2. Kinh tế cơng nghiệp ven biển là tồn bộ những ngành cơng nghiệp
được phát triển ở vùng ven biển dựa vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
hiện có của từng vùng, từng miền.
Thông thường, các ngành công nghiệp ven biển bao gồm:
Công nghiệp chế biến thuỷ hải sản: Chế biến thủy sản là khâu quan trọng
trong chu kỳ sản xuất kinh doanh thủy sản. Chế biến thủy sản làm tăng hiệu quả sản
xuất nhờ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có giá trị gia tăng phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng và giữ được chất lượng trong một thời gian dài. Hoạt động có
hiệu quả của lĩnh vực chế biến trong những năm qua đã góp phần tạo nên sự khởi
sắc và phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản Việt Nam. Hoạt động chế biến thủy
sản của nước ta chịu ảnh hưởng và tùy thuộc vào các mặt sau:
5
Thứ nhất chất lượng nguyên liệu: Đây là yêu cầu hàng đầu của khâu chế
biến. Chất lượng nguyên liệu phải đảm bảo độ tươi, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm. Thường thường xẩy ra nhiều bất cập trong khâu nguyên liệu cho chế biến. Ví
dụ: Do khâu bảo quản chưa được đầu tư thích đáng nên nguyên liệu là hải sản đánh
bắt đưa về thường bị xuống cấp chất lượng (cả ở trên tầu thuyền và ở cả các cảng
cá, bến cá). Hoặc cơng nghệ sau thu hoạch ít được áp dụng vào thực tiễn. Hoặc
trong tơm cịn dư lượng khác sinh quá mức cho phép.
Thứ hai cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến thủy sản: Từ năm 2004 đến
nay hệ thống nhà máy chế biến thủy sản nước ta phát triển rất mạnh. Trong số 405 cơ
sở có 239 đơn vị đạt tiêu chuẩn ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm, 153 doanh
nghiệp được vào danh sách đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU, 237 doanh
nghiệp vào Trung Quốc, 200 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ. Riêng
số doanh nghiệp chế biến đông lạnh là 236 với công suất đạt 3.000 tấn/ngày. Phần
lớn cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu xây dựng sau này đều có trình độ cơng nghệ
ngang với trình độ các nước trong khu vực và những nhà máy mới xây dựng gần đây
bước đầu tiến gần tới trình độ cơng nghệ thế giới. Số lượng cơ sở đáp ứng yêu cầu vệ
sinh an toàn thực phẩm, có code xuất hàng đi các nước ngày càng tăng. Đó là thế
mạnh của chế biến thủy sản trong nước giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nhược điểm
lớn trong hoạt động chế biến xuất khẩu này là sự phân bố cơ sở chế biến không đều
so với khả năng cung cấp nguyên liệu của các vùng, các địa phương.
Thứ ba các mặt hàng chế biến: Dựa theo trình độ công nghệ và nhu cầu của thị
trường xuất khẩu cũng như thị trường nội địa mà sản phẩm chế biến thủy sản được
chia thành sản phẩm sơ chế và sản phẩm có giá trị gia tăng.
- Sản phẩm sơ chế: Là sản phẩm chế biến theo công nghệ đơn giản. Sản phẩm
sản xuất dưới dạng thô. Các nước nhập khẩu thường dùng làm nguyên liệu để tái
chế thành các sản phẩm đóng gói lẻ phù hợp với tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm để bán cho người tiêu dùng. Sản phẩm dưới dạng sơ chế gồm mặt hàng đông
lạnh: như các loại tôm nguyên con, tôm bỏ đầu, cắt khúc, phi lê; mực nguyên con,
bỏ đầu, cắt khúc, cắt khoanh; Ghẹ nguyên con, ghẹ mảnh, ốc, cua, sò, điệp…Sản
phẩm thủy sản sơ chế chiểm tỷ trọng lớn trong sản phẩm xuất khẩu cũng như trong
tiêu thụ nội địa với khoảng từ 70% -90
- Sản phẩm có giá trị gia tăng: Là sản phẩm được sản xuất theo công nghệ mới
có hàm lượng kỹ thuật và lao động cao, giá trị và hiệu quả cao hơn sản phẩm sơ chế.
Muốn sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng các doanh nghiệp phải có nhà xưởng, thiết bị
và các điều kiện bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản xuất. Nếu là sản phẩm ăn
liền thì yêu cầu an toàn vệ sinh càng cao.
Các sản phẩm thủy sản tươi sống giữ được chất lượng tốt sẽ bán được giá cao
hơn nhiều so với sản phẩm đã qua chế biến đơng lạnh và được người tiêu dùng ưa
thích. Tơm, cua còn sống, thịt cá ngừ còn tươi là những sản phẩm có giá trị cao. Các
sản phẩm giá trị gia tăng hiện nay bao gồm: Tôm sống, cá sống, cá ngừ đại dương
ướp nước đá để ăn tươi sống (Sashimi), tơm luộc bóc vỏ đơng lạnh nhanh, rời
(IQF), tơm bao mía, tơm duỗi (Nobashi), tơm tẩm bột sống hoặc rán chín, tơm xiên
6
que, mực cắt trái thông, mực nhồi thịt, mực tươi sống (Sushi), mực khô tẩm gia vị
nướng, cán, xé, chả cá, chả tôm, cua, ếch, lươn sống bán cho nhà hàng, khách sạn.
Các sản phẩm thủy sản có giá trị gia tăng được chế biến từ những nguyên liệu
phải bảo đảm độ tươi ngon, phải được xử lý và bảo quản hạ thấp nhiệt độ ngay sau
khi thu hoạch. Quy trình bảo quản phải được chấp hành nghiêm chỉnh theo hệ thống
HACCP cho đến khi vận chuyển về xí nghiệp.
Thứ tư chất lượng sản phẩm: Là một trong những vấn đề mấu chốt để hàng
thủy sản Việt Nam phát triển, đặc biệt là đối với mặt hàng thủy sản xuất khẩu.
Những năm qua, nhờ sự năng động, tích cực của các cơ sở chế biến và các trung
tâm kiểm tra chất lượng thủy sản được bố trí trên tồn quốc cùng sự phối hợp của
các cơ quan quản lý các ngành, các cấp, sản phẩm thủy sản Việt Nam đã thâm nhập
được nhiều thị trường, kể cả những thị trường khó tính nhất như EU, Nhật Bản.
Cơng nghiệp lọc hố dầu: Dầu khí là tiền đề và là nguồn năng lượng,
nguyên liệu chủ yếu và quan trọng để nước ta phát triển thêm nhiều ngành công
nghiệp mới với công nghệ tiên tiến, hiện đại để đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp trong những năm 20 của thế kỷ này. Tổng cơng ty Dầu khí Việt Nam
(Petro Việt Nam) đã và đang cùng với các đối tác trong và ngoài nước triển khai một
loạt dự án xây dựng các nhà máy lọc, hoá dầu để đem lại cho đất nước ngày càng
nhiều các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao, không những đáp ứng nhu cầu cơng
nghiệp hố nước nhà, mà cịn xuất khẩu.
Cơng nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển: Phát triển ngành cơ khí chế
tạo, trong đó cơ khí đóng tàu là một trọng điểm và định hướng chiến lược của Đảng
và Nhà nước ta trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; góp phần
phát triển kinh tế biển và thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc phịng theo
Nghị quyết Trung ương IV Khố X.
Cơng nghiệp khai thác khoáng sản:
Khoáng sản ven biển cũng rất phong phú cả trên bề mặt cũng như nằm sâu
trong lòng đất, đáy biển. Các loại khoáng sản nổi trên mặt đất mà ta có thể nhìn thấy
được như núi đá, đất sét, cát,…Các loại khoáng sản này hiện nay thường được khai
phục vụ cho sự phát triển công nghiệp vật liệu xây dưng. Nhưng khi KH&CN phát
triển cao, từ đây có thể sản xuất ra nhiều loại hàng hóa quý hiếm khác.
Nằm sâu trong lòng đất và nhất là dưới đáy biển đến nay đã được khai thác
và chế biến đó là dầu khí. Tuy nhiên, đáy biển cịn nhiều khống sản khác mà đến
nay con người vẫn cịn chưa khám phá ra.
Điều này cho thấy, cơng nghiệp khai khống là rất có triển vọng để phục vụ
phát triển kinh tế ven biển.
Công nghiệp khai thác muối: Ngành muối Việt Nam đang triển khai các
dự án xây dựng các cánh đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối,
nhất là công nghệ sản xuất muối sạch. Ngành muối đang kêu gọi các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án đầu tư đồng muối công
nghiệp để sản xuất, chế biến, tiêu thụ muối sạch. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
7
nơng thơn đang đẩy mạnh cổ phần hố tồn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong
ngành muối; và đang tích cực nghiên cứu xây dựng chính sách ngành muối để đảm
bảo tái sản xuất, thu nhập đủ sống cho diêm dân. Trên cơ sở đó, khuyến khích họ
gia tăng sản xuất muối để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành
Công nghiệp và các ngành khác của nền kinh tế, hạn chế tình trạng thiếu ổn định
giữa cung và cầu về muối ăn.
1.2.3. Kinh tế du lịch, dịch vụ ven biển
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), du lịch bao
gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham
quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư
giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian
liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngồi mơi trường sống định cư; nhưng
loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng
nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Dịch vụ: theo nghĩa rộng đó dịch vụ ven biển bao gồm những hoạt động
mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của
xã hội. Cịn theo nghĩa hẹp nó được hiểu là những hoạt động mang tính phục vụ
chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội được thực
hiện nhờ lợi thế của vùng ven biển ven biển.
Du lịch và dịch vụ có mối quan hệ với nhau, sự phát triển của hệ thống dịch
vụ tạo tiền đề để phát triển du lịch; ngược lại sự phát triển của du lịch làm cho hệ
thống dịch vụ trở nên tốt hơn.
Kinh tế du lịch và dịch vụ ven biển nằm trong hệ thống du lịch và dịch vụ nói
chung và để cho ngành này phát triển thì các huyện ven biển phải biết kết hợp giữa
du lịch và dịch vụ trong phát triển kinh tế trên địa bàn.
1.3. Những đặc điểm cơ bản của biển và vùng ven biển ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế ven biển
- Tính đa dạng của tài nguyên biển và vùng ven biển: Biển có ý nghĩa to lớn
để Việt Nam phát triển và mở rộng giao lưu quốc tế. Tiềm năng tài nguyên biển và
vùng ven biển của nước ta có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất
nước, nổi bật là dầu khí với trữ lượng khoảng 3-4 tỷ tấn dầu quy đổi, cùng các loại
khống sản có giá trị khác như than, sắt, ti tan, các thuỷ tinh…; hải sản có tổng trữ
lượng khoảng 3-4 triệu tỷ tấn; dọc bờ biển có thêm 100 địa điểm có thể xây dựng
cảng, trong đó có nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc tế; nhiều đảo có tiềm
năng phát triển kinh tế cao; hơn 125 bãi biển lớn, nhỏ với cảnh quan đẹp có điều
kiện tốt để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp phục vụ khách
trong nước và quốc tế.
- Khí hậu thời tiết của biển và vùng ven biển luôn luôn biến đổi phức tạp:
Vùng ven biển dễ bị tác động bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt là do những biến đổi
của nhiệt độ trái đất. Mối quan tâm chính liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu của
8
vùng ven biển bao gồm dâng mực nước biển, mất đất, thay đổi trong cơn bão biển và lũ
lụt, và tác động đối với tài nguyên nước.
IPCC, 2007 Hội đồng quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC) ước tính mực nước
biển trung bình tồn cầu sẽ tăng từ 0,6 và 2 feet (0,18-0,59 m) trong thế kỷ tiếp theo
(1). Nguyên nhân phần nhiều bởi tình trạng hiệu ứng nhà kính, và bầu khí quyển ngày
một nóng lên gây ra tình trạng các tảng băng ở Greenland và Nam Cực tan chảy.
Tăng mực nước biển tràn ngập vùng đất ngập nước và vùng đất thấp, vùng
khác, làm xói mịn các bãi biển, tăng cường lũ lụt, và tăng độ mặn của các con sông,
vịnh, và nước ngầm. Một số trong những hiệu ứng có thể được thêm phức tạp bởi
các hiệu ứng khác của khí hậu thay đổi.
Hình: Tình trạng mất đất do mực nước biển dâng
Nguồn (1)
Mực nước biển tăng cũng làm tăng tính dễ tổn thương của các khu vực ven
biển ngập lụt trong cơn bão vì nhiều lý do. First, a given storm surge from a
hurricane or northeaster builds on top of a higher base of water. Trước tiên, một cơn
bão được từ một cơn bão hoặc đông bắc được xây dựng trên đầu trang của một cơ
sở cao hơn của nước. Chỉ xem xét hiệu ứng này, một báo cáo để Quốc hội của
FEMA (1991) ước tính rằng hiện có phát triển ở các vùng ven biển Khu Mỹ sẽ kinh
nghiệm tăng 36-58 phần trăm thiệt hại hàng năm cho một chân lên 1 ở mực nước
biển, và 102-200 phần trăm một tăng cho sự gia tăng 3-chân.. Xói lở bờ biển cũng
làm tăng tính dễ tổn thương với bão, bằng cách loại bỏ các bãi biển, cồn mà nếu
không sẽ bảo vệ tài sản ven biển từ sóng bão ( FEMA 2000 ). Tác động của biến đổi
khí hậu khác nữa có thể nâng cao hoặc giảm nhẹ lũ lụt ven biển. Lũ lụt từ mưa bão
có thể trở nên tồi tệ hơn nếu nhiệt độ cao hơn dẫn đến tăng cường độ mưa trong cơn
bão. Việc tăng cường độ của các cơn bão nhiệt đới sẽ làm tăng thiệt hại lũ lụt và gió
- Phát triển kinh tế biển và vùng ven biển luôn gắn với bảo vệ môi trường
sinh thái
9
Quá trình phát triển kinh tế biển và vùng ven biển tất yếu gắn liền với việc
khai thác và sử dụng tài nguyên biển, ven biển một cách hợp lý để phát triển kinh tế,
xã hội vùng ven biển. Việc phát triển các ngành công nghiệp ven biển tất yếu sẽ dẫn
đến vấn đề ô nhiễm môi trường, bởi chất thải từ cơng nghiệp đóng tàu, khai thác
dầu khí, cơng nghiệp chế biến thủy hải sản, đặc biệt là trong điều kiện các công ty,
doanh nghiệp dầu tư vào những lĩnh vực này hiện nay đang đặt vấn đề lợi nhuận lên
hàng đầu mà chưa có nhiều biện pháp để bảo vệ môi trường xung quanh các cơ sở
sản xuất công nghiệp này. Đối với ngành thương mại, dịch vụ, số lượng du khách
tại các bãi biển trên toàn quốc thời gian tăng dần qua các năm, điều này một mặt là
cho điều kiện sống của cư dân ven biển ngày một được cải thiện, nhưng mặc khác
nó cũng đem đến những vấn đề về ô nhiễm môi trường ở vùng biển khi mà ý thức
của du khách chưa cao, hay vứt chất thải bữa bài trên các bãi biển; ngoài ra, sự phát
triển của hệ thống các nhà hàng và dịch vụ ven biển cùng với vấn đề xử lý chất thải
ở những khu du lịch ven biển chưa được quan tâm thỏa đáng cùng góp phần làm xói
mịn hệ sinh thái ven biển.
- Hoạt động kinh tế xã hội ven biển chịu sự tác động mạnh của hội nhập kinh
tế thế giới và khu vực
Việt Nam nằm ở rìa Biển Đơng, vùng biển có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc
biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lược phát triển
không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc
hàng hải khác trên thế giới.
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore... có nền kinh tế hầu như phụ thuộc sống
cịn vào con đường Biển Đơng. Hàng năm, có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập
khẩu và 45% hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản, khoảng 60% khối lượng hàng hóa
xuất nhập khẩu của Trung Quốc... được vận chuyển bằng con đường này. Đặc biệt,
nền kinh tế Singapore hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào Biển Đơng.
Việt Nam có lợi thế là vùng biển nằm ngay trên một số tuyến hàng hải chính
của quốc tế qua Biển Đơng, trong đó có tuyến đi qua eo biển Malacca, là một trong
những tuyến có lượng tàu bè qua lại nhiều nhất thế giới. Bờ biển Việt Nam lại rất
gần các tuyến hàng hải đó nên rất thuận lợi trong việc phát triển giao thương quốc
tế. Hiện nay, hầu hết khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và một phần giao lưu nội
địa của nước ta được vận chuyển bằng đường biển trên Biển Đông. Trong một vài
thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của các nước trong khu vực, khối
lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông sẽ tăng gấp hai, ba lần hiện nay, khi đó
Biển Đơng nói chung và vùng biển Việt Nam nói riêng càng có vai trị to lớn trong
thương mại thế giới; vùng biển Việt Nam sẽ trở thành chiếc cầu nối quan trọng để
phát triển thương mại quốc tế và mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VEN BIỂN
2.1. Khái niệm chính sách phát triển kinh tế ven biển.
10
2.1.1. Khái niệm về chính sách
Thuật ngữ chính sách được dùng với những nghĩa rất khác nhau trong các tài
liệu khoa học. trong thực tiễn, cán bộ quản lý thường phải đối mặt với những vấn đề
chính sách, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào xây dựng, triển khai và đánh giá
chính sách, song cách hiểu của họ cũng rất khác nhau. Như vậy, khái niệm chính
sách vẫn chưa được hiểu nhất quán trong lý luận và thực tiễn. Sự thống nhất một
khái niệm phức tạp như khái niệm chính sách là khó khăn. Tuy nhiên để có thể sử
dụng thật ngữ chính sách một cách tương đối nhất quán cần phải thảo luận nội hàm
khái niệm này một cách kỹ lưỡng trước khi bàn đến vấn đề xây dựng chính sách,
thực thi chính sách và đánh giá chính sách, điều chỉnh chính sách, …
Guba (1984) đã liệt kê tám cách hiểu chính sách
(1) Chính sách là các quyết định hiện hành của cơ quan quản lý, dựa vào đó để điều
hành, kiểm tra, phục vụ và tác động đến mọi việc trong phạm vi quyền lực của mình
(2) Chính sách là tiêu chuẩn của cách cư xử được đặc trưng bởi tính kiên định
và có quy tắc trong một số lĩnh vực trọng yếu
(3). Chính sách là sự định hướng các hành động mong muốn
(4). Chính sách là cách cư xử đã được thừa nhận thông qua các quyết định
của chính quyền một cách chính thức
(5). Chính sách là sự xác nhận các ý định và mục đích
(6). Chính sách là đầu ra, là kết quả tổng hợp của tất cả các hành động, các
quyết định và cách cư xử của các cấp quản lý
(7). Chính sách là kết quả của hệ thống hoạch định và thực thi trong quản lý
(8). Chính sách là chiến lược dùng để giải quyết hoặc làm cho tốt hơn một vấn đề
Hogwood và Gunn (1984) đã phân loại thuật ngữ chính sách theo các nhóm sau đây:
(1) Chính sách được dùng để đặt tên cho một lĩnh vực hoạt động. Trong
những bối cảnh rộng, chúng ta thường nói: chính sách kinh tế, chính sách xã hội,
hoặc chính sách ngoại giao của một chính phủ. Trong những trường hợp cụ thể,
chúng ta đề cập đến các loại chính sách như: chính sách phát triển nơng nghiệp,
thương nghiệp; chính sách phát triển y tế, giáo dục… trong trường hợp này, chính
sách đã dừng để ám chỉ một lĩnh vực hoạt động của chính phủ bao hàm cả hoạt
động trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên cách hiểu này không cho phép
phân biệt giữa chính sách như là mong muốn và chính sách như là kết quả. HƠn thế
nữa, nếu coi chính sách là một lĩnh vực hoạt động thì rất khó phân biệt thái độ có
hành động hay khơng hành động trong các hoạt động chính sách
(2) Chính sách được xem là sự biểu đạt những mục tiêu chung hoặc trạng thái
mong muốn của cơng việc. Ví dụ Hội nghị TW II (khóa VIII) về giáo dục và đào
tạo đưa ra chính sách “phấn đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các
vùng lãnh thổ”. Đây là một tuyên bố chính sách biểu đạt mục tiêu rộng của các hoạt
động trong tương lai. Cũng dễ thấy tuyên bố chugn này chưa bao hàm những mục
tiêu cụ thể và mức độ khả thi của chính sách đã được biểu đạt.
11
(3). Chính sách được xem như những dự kiến đặc biệt. Trong trường hợp này,
chính sách được xem như kiến nghị của các nhóm lợi ích đồn thể và của chính chính phủ
(4). Chính sách cịn là những quyết định của chính phủ. Tuy nhiên khơng
phải mọi quyết định đều là chính sách, mà chỉ những quyết định liên quan đến
những vấn đề mà chính phủ phải đương đầu giải quyết có liên quan đến quốc kế dân
sinh hoặc quyết định này phải có tính dài hạn kể từ khi lwajc họn và quyết định và
đầu ra của quyết định có thể xác định được thì mới là chính sách
(5). Chính sách được coi là một quyết định được quốc hội hoặc nghị viện
chuẩn y. Khi một đạo luật được thơng qua thì hàng loạt hoạt động được tiến hành để
thực thi đạo luật đó. Việc thực thi một đạo luật cũng được coi là thực thi một chính
sách về một lĩnh vực nào đó
(6) Chính sách cịn được xem như một chương trình hành động. Ví dụ một
chương trình nhà ở của chính phủ được gọi là chính sách sẽ bao gồm việc cung cấp
trợ gía nhà ở, chương trình nâng cấp nhà ở, hệ thoogns bán hoặc cho thuê nhà.
Chương trình thường xuyên được xem như là phương tiện để chính phủ theo đuổi
những mục tiêu lớn hơn
(7) Chính sách cịn được xem là đầu ra của các hoạt động của chính phủ. ở
đây chính sách được xem như những gì chính phủ đang cung cấp để đối lập với
những gì chính phủ đã hứa hoặc đã thơng qua trong luật pháp. Những đầu ra có thể
có nhiều dạng như: trả lãi tín dụng, cung cấp hàng hóa dịch vụ và thu thuế khóa…
(8). Chính sách được xem là kết quả. Trong trường hợp này chính sách được
xem như những gì đã đạt được. Phân biệt giữa đầu ra và kết quả là một việc làm
khó khăn và nhiều khi không thực hiện được trong thực tiễn nhưng việc phân biệt
hai khái niệm này là rất quan trọng. Xem xét chính sách ở khía cạnh kết quả cho
phép đánh giá những gì đã đạt được so với mục tiêu đặt ra trong một chính sách nào
đó, trong khi xem xét đầu ra không cho phép đánh giá kết quả so với mục tiêu đặt ra
(9). Chính sách có thể xem như một lý thuyết hay mơ hình. Khi chính sách được
xem đơn giản là “Nếu X thì Y” thì có thế xảy ra hai trường hợp: hoặc chính phủ không
đảm bảo được đầy đủ điều kiện X, hoặc X khơng gây ra hậu quả Y như giả định
Chính sách được xem như một q trình. Chính sách cịn được xem như một
q trình, theo đó chính sách bao gồm việc xác định vấn đề, đưa ra mục tiêu, lựa chọn
các giải pháp, phê chuẩn chính sách, triển khai, đánh giá và điều chỉnh chính sách.
Jenning (1977) coi chính sách là sự định hướng cho việc tiến hành các hành
động tương lai và thực thi sự lựa chọn hay những quyết định phù hợp để đạt được mục
tiêu mong muốn nào đó. Chính sách có thể cịn được hiểu là việc xây dựng những giải
pháp cho một vấn đề hoặc ý đồ của các nhà làm chính sách trong việc thay đổi các điều
kiện hiện tại bằng những cách thức giúp giải quyết những vấn đề đặt ra.
Chính sách theo Crane (1982) là sự cam kết một đường hướng hành động
dựa trên những kế hoạch và những nguyên tắc chung. Một số nhà nghiên cứu khác
như Harman (1980) Hogwood và Gunn (1984) cho rằng về cơ bản chính sách
được xem xét như đường hướng hành động hoặc không hành động để tiến tới đạt
12
mục đích mong muốn. theo cách hiểu này, về cơ bản chính sách được xem như một
q trình, nó bao gồm khơng chỉ việc xây dựng chính sách mà cịn bao hàm cả việc
triển khai, đánh giá và điều chỉnh chính sách. Đây cũng là cách hiểu chính sách một
cách thực tiễn nhất, bởi chỉ khi xem xét chính sách là một quá trình và đường hướng
của một loạt hành động hoặc khơng hành động thì chính sách mới thực sự giúp giải
quyết vấn đề và đạt tới mục tiêu. Hơn thế nữa, chỉ khi xem chính sách là một q
trình, thì tính biện chứng của việc thực hiện chính sách, điều chỉnh chính sách, và
mục tiêu mới được đảm bảo trong q trình thay đổi của điều kiện mơi trường.
Quan niệm quá trình được chấp nhận rộng rãi trong xây dựng và thực thi chính
sách. Khái niệm làm chính sách (xây dựng chính sách) được hiểu là việc chuẩn bị,
quyết định và ban hành chính sách _ một bộ phận của q trình lớn hơn, q trình
chính sách. Q trình chính sách bao gồm nhiều bước và giai đoạn trong đó chính
sách dược xây dựng thơng qua và thực thi trong thực tiễn (Harman, 1985).
Như vậy theo nghĩa tổng quát chính sách được hiểu là là tổng thể các quan
điểm phát triển, những mục tiêu tổng quát và những biện pháp cơ bản để thực hiện
mục tiêu phát triển của đất nước. Chính sách theo quan niệm trên là đường lối phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quan điểm phát triển đất nước là nguyên tắc
thể hiện bản chất của chế độ xã hội, được dùng làm cơ sở để xem xét mọi vấn đề
trong tiến trình xây dựng đất nước. Đánh mất nó, Nhà nước và xã hội sẽ bị biến
chất. Người xưa nói rất đúng: hành động không quan điểm là múa rối, liên kết hội
nhập không quan điểm là đầu cơ, nhượng bộ không quan điểm là đầu hàng, thủ
đoạn không quan điểm là phá hoại. Các quan điểm còn là kim chỉ nam cho hoạt động
của của tất cả các phân hệ trong xã hội (lĩnh vực, ngành, địa phương). Nó là chuẩn mực
để lựa chọn các mục tiêu bộ phận và các mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn phát triển,
bảo đảm không gây tổn hại tới mục tiêu chung, lợi ích chung của cả đất nước.
2.1.2. Khái niệm chính sách phát triển kinh tế ven biển
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chính sách phát triển kinh tế ven biển
1. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là sự lựa chọn của chính phủ, hoặc
chính quyền tỉnh (phù hợp với đường lối của nhà nước). Sự lựa chọn trong việc phát
triển kinh tế ven biển có thể là phát triển kinh tế của huyện ven biển dựa trên điều kiện
kinh tế xã hội của toàn huyện, hoặc phát triển kinh tế của huyện ven biển nhưng trọng
tâm hướng vào lợi thế của huyện ven biển đồng thời có các biện pháp bổ trợ cho các
hoạt động kinh tế khác của huyện ven biển
2. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là phương thức hành động được Nhà
nước, hoặc chính quyền tỉnh (phù hợp với đường lối của nhà nước) về tuyên bố và thực
hiện giải quyết những vấn đề có tính quy luật, lặp đi lặp lại của các huyện ven biển
3. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là những hành động của Nhà nước,
hoặc chính quyền tỉnh (phù hợp với đường lối của nhà nước) nhằm hướng tới những
mục tiêu của tỉnh
4. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là quyết sách của Nhà nước, hoặc chính
quyền tỉnh (phù hợp với đường lối của nhà nước) nhằm giải quyết một vấn đề chín
13
muồi đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, thông qua hoạt động thực thi của
các ngành, các cấp có liên quan trong bộ máy nhà nước.
5. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là phương thức hành động của Nhà
nước, hoặc chính quyền tỉnh (phù hợp với đường lối của nhà nước) để tác động tới kết
quả của các sự kiện kinh tế - xã hội, bao gồm một tập hợp mục tiêu của Nhà nước, tỉnh
và các phương pháp được lựa chọn để theo đuổi các mục tiêu đó.
6. Chính sách phát triển kinh tế ven biển là tổng thể các quan điểm, các chuẩn
mực, các biện pháp và các thủ thuật mà Nhà nước hoặc chính quyền tỉnh (phù hợp
với đường lối của nhà nước) sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể
quản lý nhằm đạt đến một số mục tiêu bộ phận theo định hướng mục tiêu chung của
đất nước, tỉnh.
Từ những khái niệm trên đây có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của các chính
sách phát triển kinh tế ven biển
- Là hành động can thiệp của Nhà nước, chính quyền tỉnh (phù hợp với đường
lối của nhà nước) nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề chính sách chín muồi trên
địa bàn của các huyện ven biển. Đó là những vấn đề lớn, có tầm ảnh hưởng rộng, mang
tính bức xúc trong đời sống xã hội trên địa bàn của huyện ven biển
- Nó giải quyết những mục tiêu bộ phận có thể mang tính dài hạn, trung hạn
hoặc ngắn hạn, nhưng phải hướng vào việc thực hiện những mục tiêu chung, mang tính
tối cao trên địa bàn của huyện ven biển.
- Nó khơng chỉ thể hiện kế hoạch của các nhà hoạch định chính sách, mà cịn
bao gồm những hành vi thực hiện kế hoạch. Chính sách phát triển kinh tế ven biển thể
hiện trước hết kế hoạch của Nhà nước, của tỉnh nhằm thay đổi và phát triển một lĩnh
vực nhất định trên địa bàn của huyện ven biển.
- Chính sách phát triển kinh tế ven biển là một quá trình do nhiều người, nhiều
tổ chức tham gia. Trước hết, nó là sản phẩm của các đường lối chính trị, do Nhà nước,
với tư cách là người tổ chức và quản lý xã hội xây dựng và chịu trách nhiệm tổ chức
thực thi. Nhưng q trình chính sách khơng phải chỉ do các tổ chức công của Nhà nước
thực hiện. Ngày nay, trong q trình dân chủ hóa chính sách, vai trị của các tổ chức
ngồi nhà nước và dân chúng ngày càng được nâng cao.
Tóm lại: Chính sách phát triển kinh tế ven biển là tổng thể các quan điểm, các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước, chính quyền sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề kinh tế trên địa bàn huyện ven biển theo định hướng mục
tiêu tổng thể của tỉnh và của đất nước.
Theo phân tích ở trên, kinh tế ven biển có thể hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Theo
nghĩa rộng, đó là hệ thống các mục tiêu và biện pháp để phát triển kinh tế nói chung của
các vùng, các huyện ven biển.
Theo nghĩa hẹp, đó là hệ thống các mục tiêu, biện pháp khai thác tiềm năng lợi
thế về nguồn lực của các vùng, các huyện ven biển để phát triển kinh tế.
Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn cách hiểu thứ hai để nghiên cứu kinh
tế ven biển trên địa bàn ở tỉnh. Theo đó, chính sách phát triển kinh tế ven biển là
14
những hệ thống các biện pháp tác động vào các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm
khai thác tiềm năng, lợi thế nguồn lực ven biển để phát triển kinh tế trên địa bàn
các tỉnh, các địa phương.
2.2. Đặc điểm của chính sách phát triển kinh tế ven biển
2.2.1. Mục tiêu chính sách phát triển kinh tế ven biển
Vùng kinh tế ven biển, với những lợi thế của mình, một mặt là một bộ phận
lãnh thổ của cơ cấu kinh tế, mặt khác nó cũng là một khu vực với các chức năng tạo
điều kiện cho sự phát triển của địa phương, và sự phát triển chung của toàn bộ nền
kinh tế. Hệ thống chính sách phát triển kinh tế ven biển vì thế nó cũng chịu sự chi
phối của hai nhóm chính sách
Nhóm 1: Các cơ chế chính sách áp dụng chung cho vùng kinh tế ven biển.
Vùng kinh tế ven biển tồn tại với tư cách là các vùng riêng biệt theo khơng gian địa
lý. Vì vậy chính phủ phải có chính sách chung cho tạo điều kiện cho các vùng phát
triển. Đó là các chính sách về đầu tư hạ tầng cơ sở, phát triển ngành nghề, kêu gọi
đầu tư, giải quyết việc làm…
Nhóm 2: các cơ chế chính sách trực tiếp cho sự phát triển kinh tế của từng
vùng kinh tế ven biển, đây là chính sách dành riêng cho vùng ven biển. Chính phủ
do đó phải có các giải pháp tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực này, để định
hướng sự phát triển, tạo điều kiện hướng những khu vực ven biển trở thành phát
huy tốt những lợi thế của mình để phát triển kinh tế và thực hiện mục tiêu cơng
bằng xã hội.
Tuy vậy, dù là nhóm chính sách nào, nhưng mục tiêu chung nhất của chính
sách phát triển kinh tế ven biển là khai thác tiềm năng, lợi thế về nguồn lực ven biển
để thúc đẩy các ngành nghề kinh tế phát triển, đem lại điều kiện sống tốt nhất cho
người dân ven biển
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng của các ngành nghề kinh tế ven biển có tiềm năng
và lợi thế, từ đó tạo tác động lan tóa làm thay đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu
các thành phần kinh tế vùng ven biển.
Thứ hai, đảm bảo công ăn việc làm, tăng thu nhập, giảm đói nghèo cho dân cư
vùng ven biển.
Thứ ba, làm cho môi trường sinh thái ven biển được bảo vệ và thân thiện với cuộc
sống con người.
Như vậy, mục tiêu chính sách phát triển kinh tế ven biển là đảm bảo sự phát triển
bền vững của vùng ven biển.
Từ đó các chỉ tiêu của chính sách phát triển kinh tế ven biển:
Thứ nhất, các chỉ tiêu thức đẩy phát triển các ngành kinh tế ven biển
- Tăng trưởng của các ngành nghề kinh tế ven biển có tiềm năng và lợi thế
phát triển
- Tác động tới sự biến đổi cơ cấu giữa các ngành kinh tế ven biển
- Các chỉ tiêu kinh tế phản ánh khai thác lợi tiềm năng của ven biển
15
Thứ hai, các chỉ tiêu về thu nhập, đời sống và việc làm của dân cư ven biển
- Chỉ tiêu về thu nhập và đời sống của dân cư ven biển.
- Chỉ tiêu về việc làm của dân cư ven biển.
- Chỉ tiêu giảm đói nghèo của dân cư ven biển
Thứ ba, chỉ tiêu về bảo vệ môi trường ven biển
- Chỉ tiêu về rừng ngập mặn
- Chỉ tiêu về xử lý nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp
- Chỉ tiêu về cung cấp nước ngọt cho người dân ven biển.
2.2.2. Chủ thể và đối tượng của chính sách phát triển
kinh tế ven biển
- Chủ thể của chính sách phát triển là những người, tổ chức tham gia vào q trình
quản lý chính sách phát triển kinh tế ven biển như:
+ Người có thẩm quyền quyết định chính sách, người chịu trách nhiệm chính
đối với tổ chức thực thi chính sách, người chịu trách nhiệm đối với những hành
động chính sách cụ thể.
+ Người tham gia vào quá trình tổ chức thực thi chính sách, người giám sát, đánh giá
chính sách.
+ Những người thụ hưởng chính sách
Trong thực tế, có nhiều người, tổ chức vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của
chính sách.
- Đối tượng của chính sách là những ngành nghề kinh tế chịu sự tác động của
chính sách.
Xem xét dưới góc độ đề tài này, đối tượng chính sách là những ngành nghề
ven biển có tiềm năng và lợi thế và phát triển. Đó là các ngành nghề trong sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ven biển.
2.2.3. Nguyên tắc của chính sách phát triển kinh tế ven biển
Thứ nhất, chính sách phải được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế ven biển.
Xét về bản chất, chính sách phát triển kinh tế ven biển là sự nhận thức chủ quan
của con người để khai thác tiềm năng lợi thế nguồn lực ven biển để phát triển kinh tế.
Chính vì thế các chủ trương, biện pháp mà con người đề ra có thể phù hợp với thực tế
khách quan, với xu hướng phát triển, cũng có thể khơng phù hợp. Khi các chính sách
phù hợp với thực tế khách quan, với xu hướng vận động phát triển chung, thì các chính
sách đó sẽ phát huy được tác dụng, khai thác được tiềm năng, lợi thế thúc đẩy kinh tế
phát triển. Ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Vì thế trong xây dựng
chính sách phát triển kinh tế ven biển, phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan,
đưa ra các chính sách phù hợp với xu thế phát triển kinh tế ven biển của mỗi thời kỳ.
Thứ hai, chính sách phải phát huy được các lợi thế, tiềm năng các vùng
ven biển để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ven biển.
16
Phát triển kinh tế là quá trình khai thác nguồn lực. Chính vì thế các mục tiêu
phát triển phải dựa trên nguồn lực. Nguồn lực đó có thể là sẵn có, nhờ thiên nhiên
ban tặng, cũng có thể là phải qua biện pháp thu hút được từ bên ngoài mang lại.
Việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài là rất khó khăn. Sự phát triển thành cơng
của các nước nhờ vào thu hút nguồn lực từ bên ngoài là rất ít. Hiện nay, có thể đếm
đầu ngón tay các nước phát triển thành công theo con đường này như Nhật Bản,
Singapore. Trong điều kiện đó, các nước này phải sử dụng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao để phục vụ cho mục tiêu phát triển.
Sẽ là lý tưởng nếu như một nước một địa phương có được nguồn lực do thiên
nhiên ban tặng. Trong trường hợp đó, khai thác nguồn lực sẵn có của địa phương để
xây dựng hệ mục tiêu phát triển thì tính khả thi của hệ thống mục tiêu sẽ cao. Vì thế
trong việc xây dựng chính sách phát triển, các địa phương phải dựa trên cơ sở
nguồn tài nguyên thiên nhiên, những lợi thế mà mình có được để đưa ra các chính
sách phù hợp. Sẽ là sai lầm nếu như việc hoạch định chính sách phát triển của một
quốc gia hay một vùng lại không dựa vào tiềm năng, lợi thế của mình mà với ý
muốn chủ quan duy ý chí lại chạy theo “mốt thời thượng”.
Lý thuyết kinh tế chỉ ra hai loại lợi thế trong phát triển kinh tế. Lợi thế tuyệt đối
và lợi thế so sánh. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế dựa vào điều kiện tự nhiên ban cho mà
một nước, một địa phương nào đó mới có, cịn các địa phương, các nước khác
khơng có được. Trong điều kiện đó, việc hoạch định chính sách phát triển cần phải
xuất phát từ lợi thế tuyệt đối là hiệu quả nhất
Lợi thế so sánh là phạm trù xuất hiện khi cơng nghiệp nghiệp phát triển, theo
đó người ta lựa chọn chun mơn hóa sản xuất sản phẩm nào có lợi hơn. Đó là lợi
thế có được khi một nước, một địa phương nào đó có chi phí sản xuất ra một loại
sản phẩm thấp hơn chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó ở một nước, hoặc một địa
phương khác. Để xác định lợi thế so sánh, người ta sử dụng công thức sau:
CPSXSP A ở tỉnh C
---------------------------PSXSPA của tỉnh T
CPSXSP B ở tỉnh C
---------------------------CPSXSP B của tỉnh T
<
Trong điều kiện đó, việc hoạch định chính sách phát triển
kinh tế của tỉnh C cần lựa chọn chun mơn hóa sản xuất sản
phẩm A cịn tỉnh T cần lựa chọn sản xuất B thì cả hai tỉnh đều đạt
được lợi thế so sánh, khai thác tài nguyên sẽ có hiệu quả hơn. Ví
dụ
CPSX 1 tấn lạc ở Thanh Hóa
CPSX 1 tấn Thóc ở Thanh Hóa
----------------------------------- < ----------------------------------CPSX 1 tấn lạc Thái Bình
CPSX 1 tấn Thóc ở Thái Bình
Trong trường hợp này, Thanh Hóa nên chun mơn hóa sản xuất lạc cịn Thái
Bình nên chun mơn hóa sản xuất Thóc.
17
Xuất phát từ đó, việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển của mỗi địa
phương cần xuất phát từ lợi thế của mình. Sẽ là có hiệu quả nhất, nếu các mục tiêu
phát triển đặt ra xuất phát từ lợi thế tuyệt đối, được tự nhiên ban tặng. Dĩ nhiên,
cùng với lợi thế tuyệt đối, nếu như có cơng nghệ cao hơn, trình độ tổ chức quản lý
tốt hơn, sẽ làm cho năng suất lao động cao hơn và điều đó mang lại “Lợi thế Kép”
trong phát triển. Và đương nhiên đạt được “lợi ích kép”, hiệu quả khai thác tài
nguyên sẽ cao hơn.
Rõ ràng muốn có được lợi thế so sánh, phải dựa vào năng suất lao động. Đến
lượt nó, năng suất lao động lại phụ thuộc vào mức độ giàu có của tài ngun, vào
cơng nghệ khai thác, vào trình độ quản lý. Do vậy, khi lựa chọn lợi thế về khai thác
tài nguyên phục vụ xây dựng chính sách phát triển phải căn cứ vào điều kiện cụ thể
về khoa học cơng nghệ, về trình độ quản lý, đưa ra lộ trình khai thác lợi thế để đạt
được hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, chính sách phải quán triệt nguyên tắc sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả nguồn lực, trước hết là nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được cho
phát triển
Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn lực, trước hết là tài nguyên thiên nhiên
không tái tạo được là vấn đề đặt ra cấp bách trong thế giới hiện đại. Trước đây,
quan niệm sai lầm là nguồn tài nguyên thiên nhiên là vô tận. Do đó nhiều nước
phát triển đã ra sức khai thác tài nguyên thiên nhiên cho tăng trưởng. Đặc biệt với
những nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên được khai thác và đưa ra
thị trường dưới dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Hậu quả là nguồn tài nguyên
thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại, lợi ích kinh tế từ khai thác và bán tài
nguyên mang lại kém. Kết cục rơi vào trạng thái kinh tế phát triển kém bền vững.
Trước tình cảnh đó, sự xuất hiện của lý thuyết về sự khan hiếm nguồn lực,
trước hết là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được đã cảnh tỉnh loài người. Theo
lý thuyết này, tài nguyên thiên nhiên là khan hiếm. Con người cần phải sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên khơng được tái tạo. Chính vì
thế, trong việc xây dựng hệ thống mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của cả nước
cũng như từng địa phương cần phải tuân theo nguyên tắc sử dụng tiết kiệm và có
hiệu quả nguồn tài ngun thiên nhiên khơng thể tái tạo được.
Nguyên tắc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên
không thể tái tạo được đòi hỏi:
1) Khai thác các nguồn tài nguyên thiên thiên không tái tạo được một cách tiết
kiệm nhất. Khai thác nó như thế nào? Mỗi thời kỳ sẽ khai thác bao nhiêu?...phải được
lên kế hoạch và có sự kiểm sốt chặt chẽ của Nhà nước. Như vậy, việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên không tái tạo được phải phù hợp với khả năng quản lý tài nguyên.
Nếu khả năng quản lý tài nguyên thấp, việc mở rộng khai thác tài ngun dẫn đến tình
trạng lãng phí.
2) Khai thác tài ngun thiên thiên không tái tạo được phải mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Muốn đạt hiệu quả cao, tài nguyên thiên thiên không tái tạo được phải
18
được chế biến. Không ngẫu nhiên mà từ thế kỷ thứ XVII, các nước phương Tây đã
đặt ra nguyên tắc chỉ sản xuất và xuất khẩu thành phẩm chứ không xuất khẩu
nguyên liệu (9). Điều này chỉ có được khi khai thác và chế biến tài nguyên thiên
thiên không tái tạo được bằng cơng nghệ cao, trình độ chun mơn kỹ thuật cao.
Như vậy nguyên tắc hiệu quả đòi hỏi việc mở rộng khai thác tài nguyên không tái
tạo được phải căn cứ vào trình độ phát triển của cơng nghệ, trình độ chun mơn kỹ
thuật của người lao động và trình độ quản lý cơng nghiệp. Trình độ cơng nghệ,
chun mơn kỹ thuật và quản lý đến đâu thì mở rộng quy mô khai thác tài nguyên
không tái tạo được đến đó.
Thứ tư, chính sách phải đảm bảo hài hịa lợi ích của các đối tượng tham
gia vào phát triển kinh tế ven biển (nhà nước, các địa phương; các đơn vị tổ chức
thực hiện và người dân)
Đối với người lao động, việc phát triển kinh tế ven biển mang lại thu nhập
cho họ ra sao? Doanh nghiệp khai thác lợi thế ven biển thu được lợi nhuận như thế
nào? Cịn đối với xã hội, khơng những Ngân sách nhà nước được tăng lên bao nhiêu
mà điều quan trọng hơn là xã hội và mơi trường sinh thái có được bảo vệ để cho sự
phát triển lâu dài và bền vững hay khơng? Ngay cả trong trường hợp, có thể nguồn
thu NSNN từ khai thác nguồn lực phát triển kinh tế ven biển có tăng lên đáng kể,
nhưng nếu tính tốn thấy những hậu quả chi phí xã hội và mơi trường lớn hơn những
gì mà NSNN thu được, Nhà nước cũng phải xem xét lại chính sách phát triển này.
2.2.4. Q trình chính sách phát triển kinh tế ven biển.
Q trình chính sách bao gồm xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám
sát, đánh giá kết quả thực hiện
- Xây dựng, hoạch định chính sách là khâu đầu tiên của quá trình. Trong khâu
này, trên cơ sở căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội, bối cảnh
trong và ngồi nước, vào trình độ nhận thức của đối tượng thụ hưởng, năng lực của
đối tượng hoạch định và thực thi chính sách để đưa ra nội dung chính sách và đề
xuất các biện pháp để tổ chức thực thi chính sách.
- Tổ chức thực thi chính sách đó là khâu thiếp theo của q trình chính sách.
Trong khâu này, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tổ chức, triển khai các biện pháp
nhằm thực hiện các mục tiêu, nội dung, định hướng phát triển đã được đề ra. Trong
quá trình đó, việc kiểm tra, giám sát để điều chỉnh, bổ sung, xử lý tình huồng trước
những biến đổi là có ý nghĩa rất quan trọng.
- Cuối cùng là khâu tổng kết đánh giá chính sách. Ở đây, việc đánh giá tác
động chính sách đến các đối tượng thụ hưởng và kết quả đạt được của chính sách
ban hành.
Q trình chính sách được thể hiện qua các bước như sau:
Hoạch định chính sách
Tổ chức thực
thi
Đánh giá chính sách
Tác động chính sách
19
Kết quả thực thi
chính sách
- Căn cứ, điều kiện ban hành
chính sách (kinh tế, văn hóa,
xã hội, chính trị - xu thế)
- Trình độ nhận thức của
đối tượng thụ hưởng, năng
lực của đối tượng hoạch
định và thực thi chính sách
- Nội dung chính sách
- Biện pháp thực thi chính
sách
- Tổ chức triển
khai thực hiện
trong cuộc sống.
- Kiểm tra, giám
sát
- Điều chỉnh, bổ
sung, xử lý tình
huống
- Thái độ của đối tượng thụ
hưởng (ủng hộ, phản đối,
bàng quan)
- Hành vi của đối tượng
thụ hưởng (cách thức
chấp nhận chính sách,
tích cực, tiêu cực)
- Niềm tin của đối tượng thụ
hưởng
- Lợi ích, cơ hội mà chính
sách đem đến cho đối
tượng thụ hưởng
- Những khó khăn, thiệt
thịi, các đối tượng thụ
hưởng phải gánh chịu
- Thành quả đạt được
so với mục tiêu
- Hiệu quả của chính
sách
- Hiệu lực của chính
sách
- Ngoại ứng của
chính sách
- Khuyến nghị
III. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VEN BIỂN: CÁC BỘ
PHẬN CẤU THÀNH VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
3.1 Các bộ phận cấu thành chính sách phát triển kinh tế ven biển
Với cách hiểu chính sách phát triển kinh tế ven biển như trên, chúng ta cần
làm rõ tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế ven biển bao gồm những yếu tố gì.
Phát triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế ven biển nói riêng về thực chất là
quá trình huy động và sử dụng có hiệu quả những điều kiện, những yếu tố cơ sở của sự
phát triển. Các điều kiện và yếu tố cơ sở của sự phát triển kinh tế ven biển trước hết là
các điều kiện, các yếu tố vật chất bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên, các yếu tố vật
chất là thành quả của lao động của con người (các cơ sở vật chất kỹ thuật đã được
tạo ra trong xã hội) và yếu tố về các nguồn tài lực có thể huy động phục vụ cho phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đồng thời với các điều kiện, các yếu tố vật chất
nói trên là yếu tố về trình độ, tri thức và truyền thống văn hoá của các vùng. Đây là
yếu tố nguồn lực rất quan trọng của sự phát triển kinh tế- xã hội. Ở mỗi quốc gia, ở vị
trí trung tâm của các điều kiện các yếu tố nguồn lực của sự phát triển nói chung và phát
triển kinh tế nói riêng là yếu tố con người, tức huy động và sử dụng các điều kiện, các
yếu tố cơ sở khác các nguồn lực khác của sự phát triển.
Như vậy có thể hiểu các cơng cụ chính sách phát triển kinh tế ven biển là các
cơng cụ chính sách huy động và sử dụng có hiệu quả những yếu tố, những điều kiện
hợp thành cơ sở vật chất và tinh thần cho sự phát triển của nền kinh tế ven biển
trong những thời kỳ nhất định.
Theo cách hiểu về nguồn lực nêu trên thì các yếu tố, các điều kiện đóng vai
trị là các nguồn lực phát triển kinh tế ở mỗi vùng ven biển là rất đa dạng. Ở mỗi
vùng ven biển khác nhau thì các nguồn lực thường khác nhau, thậm chí có thể khác
nhau rất xa. Ngay trong một vùng ven biển vai trò các yếu tố nguồn lực cũng có thể
biến đổi và khác nhau giữa các thời kỳ.
20