Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.1 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THÙY LINH

GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN
HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN THANH GIANG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Thanh Giang. Các số liệu trích dẫn
trong luận văn là trung thực, rõ nguồn gốc./.

Tác giả luận văn

Phạm Thùy Linh


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................................ 8
1.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ......................... 8
1.2. Những yếu tố cơ bản tác động đến giáo dục ý thức chính trị cho thanh
niên ............................................................................................................... 21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO
THANH NIÊN HUYỆN MỸ ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
......................................................................................................................... 32
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và đặc điểm thanh niên
của huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội ........................................................ 32
2.2. Những ưu điểm trong giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội và nguyên nhân ............................................... 40
2.3. Những hạn chế trong giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội và nguyên nhân ............................................... 51
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO
DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN Ở HUYỆN MỸ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI .................................. 57
3.1. Phương hướng tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới................................. 57
3.2. Giải pháp tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ở huyện
Mỹ đức, thành phố Hà Nội........................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


: Cao đẳng


CNH

: Công nghiệp hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CSVN

: Cộng sản Việt Nam

CTQG

: Chính trị quốc gia

ĐH

: Đại học

GDĐT

: Giáo dục đào tạo

HĐH

: Hiện đại hóa

LLCT


: Lý luận chính trị

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

TCT

: Ý thức chính trị

TNCS

: Thanh niên cộng sản

TS

: Tiến sĩ

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thanh niên Việt Nam là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng to lớn, có đóng góp
quan trọng trong q trình xây dựng, phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam ln đánh giá cao vai trị của thế hệ trẻ; quan tâm giáo dục,
động viên, phát huy mọi khả năng của thế hệ trẻ phục vụ sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc. Trong bản “Di chúc” để lại cho toàn Đảng, toàn dân và tồn qn
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn về trách nhiệm của Đảng đối với thanh niên là:
“Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”; bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [29, tr.489].
Kế thừa quan điểm của Người, trong gần 90 năm qua, Đảng ta ln đánh giá cao
vai trị của thanh niên. Nghị quyết Trung ương 7, khóa X của Đảng tiếp tục khẳng định
vai trị to lớn đó: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan
trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc… công tác thanh niên là vấn đề sống còn
của dân tộc” [33]. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục YTCT cho thanh
niên nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng những
lớp người kế tục trung thành với lý tưởng của Đảng và của cách mạng Việt Nam “Độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH”.
Phần lớn thanh niên nước ta đều có có lịng u nước nồng nàn, có lý tưởng cách
mạng, luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh, khẳng định niềm tin
vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng. Đa số thanh niên ý thức rõ
trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc và nhân dân, ra sức phấn đấu lao động, học tập,
rèn luyện về mọi mặt với khát vọng cống hiến hết mình vì tương lai tươi sáng của dân
tộc.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, do yêu cầu cần phải hội nhập
quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã
dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản
động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” đã tác động khơng nhỏ đến
đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của
thanh niên. Hậu quả là đã có một bộ phận thanh niên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất

phương hướng phấn đấu; sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã

1


hội, sa vào tệ nạn xã hội... Trước thực trạng trên, việc giáo dục YTCT cho thanh niên là
một trong những việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng hiện nay nhằm từng bước
khắc phục những hạn chế về tư tưởng chính trị, YTCT, đạo đức, lối sống của thanh
niên Việt Nam.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của thanh niên và cơng tác giáo dục ý thức chính
trị, cũng như trước những địi hỏi của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong những năm qua, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội không ngừng chú trọng, tăng
cường công tác thanh niên, đặc biệt là công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh
niên. Huyện ủy Mỹ Đức định hướng các cấp chính quyền xây dựng cơ chế, chính sách
thanh niên; bằng những nội dung, biện pháp, cách thức cụ thể đã thu hút, động viên, tập
hợp thanh niên tham gia vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước. Thanh niên trở
thành lực lượng to lớn góp phần củng cố khối đại đồn kết tồn dân, xây dựng địa
phương vững mạnh, phát triển; có năng lực và trình độ, tự giác chấp hành chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước; tích cực học tập, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh,
trật tự và an toàn xã hội…
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên cơng tác giáo dục ý thức chính trị cho
thanh niên trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu
của thực tế cách mạng đang đặt ra. Đứng trước tình hình suy thối tư tưởng, chủ nghĩa
cá nhân, không giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị trong một bộ phận
khơng nhỏ thanh niên đã làm cho vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên trên
địa bàn huyện càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Từ việc nhận thức tầm quan trọng của công tác giáo dục ý thức chính trị nói
chung trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay đồng thời đánh giá đúng điều kiện cụ
thể của huyện Mỹ Đức thì cơng tác giáo dục ý thức chính trị đối với thanh niên trên địa
bàn huyện càng trở nên bức thiết và quan trọng hơn. Vì vậy tác giả chọn và nghiên cứu

đề tài “Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên đến nay đã có
nhiều cơng trình khoa học, các cơng trình tiêu biểu như:
Thứ nhất, các sách chuyên khảo:
- Cuốn sách “Những vấn đề giáo dục hiện nay quan điểm và giải pháp” do nhiều
tác giả viết, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2008. Nội dung cuốn sách gồm các bài quan trọng

2


về các vấn đề mấu chốt và cấp bách của giáo dục do các tác giả trong và ngoài nước
viết. Các tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp đối với giáo dục Việt Nam.
- Cuốn sách “Đảng lãnh đạo cơng tác tư tưởng trong thời kì đổi mới” do TS.
Nguyễn Danh Tiên (chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010. Cuốn sách đã đề cập đến
vai trò của Đảng trong lãnh đạo công tác tư tưởng trước sự phức tạp của tình hình quốc
tế và trong nước; tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các tác giả cũng nêu lên những
phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp nhằm nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong
tình hình hiện nay.
- Năm 2004, tác giả Phạm Đình Nghiệp với cuốn sách “Giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thanh niên hiện nay”, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2004 đã cung cấp thông
tin về thực trạng của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ, và một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức chính trị cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới.
- Trong cuốn “Về giáo dục và tổ chức thanh niên”, Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh
niên, Hà nội, 1980. Nội dung cuốn sách khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí,
vai trị của thanh niên và sự cần thiết phải chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên và
công tác vận động thanh niên trong sự nghiệp cách mạng.

- Năm 2011, tác giả Phạm Hồng Tung trong đề tài “ h c trạng và u th

iển đổi

l i s ng c a thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và h i nh p qu c t ” đã làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên và lối sống của
thanh niên; khảo sát và phân tích tình hình thanh niên, lối sống của thanh niên trong
hơn hai thập k đổi mới đất nước thông qua đỏ ch ra những đặc trưng cơ bản của
thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên trong quá trình đổi mới đất nước và hội
nhập quốc tế, ch ra những yếu tố tác động cơ bản, có tính chất định hướng trong q
trình biến đổi lối sống của thanh niên. Trên cơ sở những nghiên cứu, với những luận
chứng có tính thuyết phục cao, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị khoa học và đề
xuất các giải pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến
trình đổi mới đất nước hiện.
- PGS.TS.Trần Thị Anh Đào tác giả cuốn sách: “Công tác giáo dục lý lu n chính
trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013. Trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn cần tìm ra những giải pháp khả thi để góp phần
hữu hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo lý luận chính trị cho sinh viên, nhằm đáp

3


ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, các đề tài, luận án, luận văn:
- Đề tài “Giáo dục chính trị tư tưởng cho hanh niên trong giai đoạn hiện nay”
(2005) của tác giải Nguyễn Đức Quyền, Đại học Hà Nội nghiên cứu về lĩnh vực giáo
dục chính trị, tư tưởng và lối sống của thanh niên đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay.

- “Định hướng giá trị c a thanh niên sinh viên hiện nay”, Đỗ Ngọc Hà, luận án
tiến sĩ tâm lý học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002. Đề tài đã khái quát và hệ
thống hóa cơ sở lý luận tâm lý học về giá trị, định hướng giá trị của thanh niên sinh
viên. Theo tác giả, trong những cơng trình bàn về dịnh hướng giá trị trên thế giới, có 7
hướng nghiên cứu chính và phạm trù giá trị được khai thác dưới góc độ tâm lý học và
xã hội học có điều ch nh cho phù hợp tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
- Đề tài “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay” của tác giải
Phạm Đình Nghiệp, Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam (2004). Đề tài nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận và phân tích thực trạng cơng tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho
thanh niên trong những năm qua; dự báo về xu hướng phát triển của đất nước và của
tuổi trẻ, trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp của Đồn về cơng tác giáo
dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
- Đề tài “ ình hình tư tưởng thanh niên và cơng tác giáo dục c a Đoàn giai đoạn
hiện nay” của tác giải Trần Văn Miền (2002, đề tài nghiên cứu cấp Bộ) làm rõ các khái
niệm công cụ, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của
Đảng về giáo dục thanh niên; đánh giá thực trạng tình hình tư tưởng thanh niên và cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đồn thời gian qua; dự báo và đề xuất khuyến nghị
các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư
tưởng của Đồn trong thời kỳ mới.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Giải pháp c a Đồn NCS Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức, l i s ng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Thanh
Giang (2013). Đề tài đã làm rõ môt số vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên, vai trò của Đồn TNCS Hồ Chí Minh trong việc giáo dục đạo đức, lối sống
cho thanh niên; về thực trạng xây dựng và việc thực hiện các giải pháp giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh và những yêu cầu đạt ra.

4


- Luận án tiến sĩ của Trần Hùng (2000) về “Hiệu quả giáo dục lý lu n chính trị

cho sinh viên các trường đại học tại thành ph Hồ Chí Minh: h c trạng và giải
pháp”. Luận án đã xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận
chính trị cho sinh viên. Việc nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên lý luận chính trị
luôn phải gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên.
- Tác giả Phùng Quang Thắng với đề tài “Giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn
viên thanh niên từ th c tiễn văn phòng trung ương Đảng” (2016, luận văn thạc sỹ) đã
nêu ra được một số khái niệm cơ bản về đồn viên, thanh niên; những chủ trương chính
sách của Nhà nước về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên thanh niên.
Thứ ba, các bài báo khoa học, tạp chí:
Bài viết “Mấy vấn đề về xây d ng lý tưởng cho thanh niên hiện nay” của tác giả
Vũ Oanh đăng trên Tạp chí cộng sản, số 11, tháng 6 năm 1996. Tác giả Trần Sỹ Phán
với bài viết: “Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, l i s ng cho sinh viên Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí lý luận chính trị, số tháng 7. “Đổi mới tồn diện, nâng cao chất
lượng hiệu quả cơng tác giáo dục lý lu n chính trị trong tình hình mới” của tác giả
Đào Duy Quát, Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa, số 6, năm 2006; “Phương pháp đào tạo,
ồi dưỡng cán

về lý lu n chính trị theo quan điểm c a Hồ Chí Minh” (Mạch Quang

Thắng, 2008, Tạp chí Tuyên giáo, số 11). Vũ Hữu Ngoạn với bài viết“Nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí lý luận chính
trị , số 12.
Tất cả các cơng trình khoa học, sách, luận án trên đều có liên quan đến đề tài trên
các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống hoạt động giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ở huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Do đó, đề tài “Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” là vấn đề mới, mang ý nghĩa thực tiễn cao, khơng
trùng lặp các cơng trình khoa học, các luận văn đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục ý thức chính trị cho thanh
niên, đề tài đánh giá thực trạng và đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm
tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
hiện nay.

5


3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên.
- Đánh giá thực trạng giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức,
thành phố Hà Nội để làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong giáo
dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường giáo dục
ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Đề tài nghiên cứu về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức,
thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơng tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội; giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên, công tác giáo dục và giáo dục ý thức chính
trị cho thanh niên.
- Đề tài kết hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu như: phân tích - tổng hợp; đánh
giá, quy nạp; diễn dịch; đối chiếu; so sánh…

Đề tài góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cơng tác giáo dục ý thức
chính trị và giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên; đi sâu nghiên cứu thực trạng cơng
tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội nhằm
ch ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất giải pháp góp phần tăng cường
cơng tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Đề tài đưa ra những nghiên cứu về thanh niên và cơng tác giáo dục ý thức chính
trị cho thanh niên trong huyện. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sâu sắc
thêm những vấn đề lý luận về giáo dục YTCT cho thanh niên nói chung và cho thanh
niên huyện Mỹ Đức nói riêng.

6


- Ý nghĩa thực tiễn:
Việc thực hiện đề tài “ Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức,
thành phố Hà Nội hiện nay” từ thực tiễn ở huyện sẽ ch ra được những ưu điểm, những
tồn tại, hạn chế và ngun nhân của nó trong cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng đối
với đồn viên thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Ở mức độ nhất định, kết
quả nghiên cứu làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo và ch đạo công tác thanh niên
trong huyện; làm tài liệu cho những sinh viên, học viên và những người muốn tìm hiểu
về vấn đề thanh niên, cơng tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận văn được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết.

7



Chƣơng 1
GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
1.1.1. Ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị
1.1.1.1. Ý thức chính trị
Khái niệm ý thức chính trị được tạo thành từ hai khái niệm là ý thức và chính
trị. Ý thức theo triết học Mác – Lênin là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc
của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ánh ý thức
không phải là sự phản ánh thụ động giản đơn, mà là sự phản ánh chủ động, sáng tạo
hiện thực khách quan.
Theo Phạm Minh Hạc thì ở một con người, ý thức là năng lực hiểu biết được
các tri thức về thực tại khách quan nói riêng mà người đó tiếp thu được và năng lực
hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân người đó.
Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể
hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh
của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh
thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan.
Ý thức là sự phản ánh thế giới một cách sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức
được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri
thức mới về sự vật. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo vì sự phản ánh đó dù trực tiếp
hay gián tiếp, dù dưới dạng ý tưởng thì bao giờ cũng phải dựa vào những tiền đề vật
chất, dựa trên hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập,
loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản
ánh.
Nguồn gốc của ý thức bao gồm: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc tự nhiên: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là một thuộc tính của vật
chất, nhưng khơng phải là của mọi dạng vật chất, mà ch là thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngồi
vào đầu óc con người. Bộ óc con người là cơ quan phản ánh, song ch có bộ óc thơi
thì chưa thể có ý thức; khơng có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác


8


quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, nguồn
gốc tự nhiên của ý thức là: bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi tác động lên bộ óc.
Nguồn gốc xã hội: Điều kiện tự nhiên của ý thức là rất quan trọng, song, điều
kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với
q trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao
động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thơng qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là một sản phẩm của xã
hội.
Chức năng của ý thức có 3 chức năng cơ bản sau: Chức năng nhận thức - sự
chiếm lĩnh tri thức có tính tích cực và có tính chủ định, được thực hiện trong các quá
trình hoạt động nhận thức. Chức năng điều ch nh trên cơ sở cá nhân gia nhập vào các
quan hệ xã hội. Chức năng thông tin - được thực hiện hố trong q trình giao tiếp, trao
đổi tri thức và điều hoà lẫn nhau bởi hành vi con người.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu phức tạp. Theo các yếu tố
hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí,
ý chí… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi. Theo chiều sâu của nội tâm, ý thức
bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vơ thức.
Chính trị từ khi xuất hiện đã có ảnh hưởng to lớn tới quá trình tồn tại và phát triển
của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại.
Theo Từ điển Triết học: “Chính trị là sự tham gia vào các cơng việc nhà nước,
việc qui định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Lĩnh vực
chính trị bao gồm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp,
vấn đề đấu tranh đảng phái, v.v… Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những
quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện trong chính trị. Chính trị cũng biểu hiện
những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia (chính sách đối ngoại). Các quan

hệ giữa các giai cấp và do đó, cả chính trị của họ nữa bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ.
Những tư tưởng chính trị và những thể chế tương ứng với chúng là kiến trúc thượng
tầng bên trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên, điều đó hồn tồn khơng có nghĩa rằng
chính trị là hệ quả thụ động của kinh tế...” [49, tr.85, 86]
V.I. Lênin cho rằng, “chính trị là sự tham gia vào cơng việc nhà nước, là việc
vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước” [55, tr.404]. Trong chính trị, yếu tố quan trọng nhất là “tổ chức chính

9


quyền nhà nước”. Do vậy, “Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các
dân tộc, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước” [56,
tr.403]. Chính trị là tổng hợp những phương hướng, những mục tiêu quy định bởi giai
cấp, dân tộc, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, nhà nước để thực
hiện con đường phát triển đã chọn nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của chính trị suy cho
cùng là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Lênin ch rõ: “Chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế… chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh
tế ” [54, tr.121].
Như vậy, có thể hiểu chính trị là tồn bộ những hoạt động có liên quan đến
những quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc, trong đó chủ
yếu nhất là vấn đề giành, giữ chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực của nhà
nước.
Ý thức chính trị là hình thái ý thức xã hội xuất hiện khi xã hội có giai cấp và nhà
nước, nó phản ánh đời sống chính trị của xã hội, trong đó cốt lõi là mối quan hệ giữa
các giai cấp. Cụ thể hơn, ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế,
xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp
đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhạy
cảm và có vai trị quan trọng trong đời sống xã hội có giai cấp. V.I.Lênin cho rằng: ý

thức chính trị bao gồm những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, tầng lớp với Nhà
nước và Chính phủ.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị cũng bao gồm những
nét đặc trưng của ý thức xã hội nói chung. Bởi vậy, có thể hiểu ý thức chính trị là
những tình cảm, thái độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị hay lý luận chính trị
của cộng đồng xã hội, hoặc của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, phản ánh mọi mặt
của đời sống chính trị. Như vậy, ta thấy, ý thức chính trị là những tình cảm, thái độ
chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị, phản ánh vị trí, vai trị của các chủ thể trong
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.
Các cấp độ của ý thức chính trị:
Thứ nhất, ý thức chính trị ở cấp độ phản ánh trực tiếp:
Trường hợp này ý thức chính trị biểu hiện là tâm lý, mong ước, cảm xúc,
nguyện vọng... của quần chúng về những vấn đề chính trị trong thực tiễn đời sống.
Ở cấp độ này, ý thức chính trị biểu hiện một cách trực quan, chưa có tính khái quát,

10


tính hệ thống và tính lý luận chưa cao và khơng ổn định, do đó nó phản ánh cịn
thiếu đầy đủ, thiếu toàn diện về bản chất các vấn đề chính trị. Tuy vậy, ý thức chính
trị ở cấp độ này có nội dung rất phong phú, là cơ sở dữ liệu để ý thức chính trị ở cấp
độ lý luận khai thác, đúc kết, khái quát hóa, phản ánh nội dung bản chất các vấn đề
chính trị.
Thứ hai, ý thức chính trị ở cấp độ lý luận: nó biểu hiện là những quan điểm
chính trị đã được khái quát, hệ thống hóa thành một ch nh thể mang tính hợp lý, tính
khoa học, phản ánh được mối quan hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các hiện tượng
trong đời sống chính trị. Ý thức chính trị ở cấp độ này được diễn tả dưới dạng các
phạm trù, khái niệm, luận điểm khoa học và thể hiện ở trình độ cao nhất đó là các
học thuyết chính trị và hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với
các tổ chức chính trị mà thơng q đó một giai cấp trong xã hội có thể tiến hành đấu

tranh về ý thức hệ vì lợi ích của giai cấp mình và vì lợi ích cho các chủ thể xã hội
mà nó làm đại diện. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp phản ánh trực tiếp và tập
trung nhất lợi ích của giai cấp đó, nó được hình thành một cách tự giác, được các
nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá.
Ý thức chính trị có vai trị hết sức to lớn đối với sự phát triển xã hội. Thông
qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể, trong những giới
hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội.
Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị phụ thuộc vào tính
chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư
tưởng đó. Giai cấp khi cịn tiến bộ, cách mạng, tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên
của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã
hội. Ngược lại, khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng chính trị
của nó tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Từ những phân tích trên cho thấy, ý thức chính trị là một lĩnh vực rộng lớn,
phức tạp, nhạy cảm và đóng vai trị quan trọng trong đời sống của xã hội có giai
cấp. Ý thức chính trị được biểu hiện qua hai cấp độ là tâm lý chính trị và hệ tư
tưởng chính trị. Trên thực tế ý thức chính trị bao giờ cũng gắn với một chủ thể nào
đó, sẽ khơng có ý thức chính trị chung chung cho mọi thời đại, vì đời sống tinh thần
của xã hội nói chung và ý thức chính trị nói riêng được hình thành và phát triển trên
cơ sở đời sống vật chất trong một giai đoạn cụ thể nhất định. Với tư cách là một

11


hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị cũng bao gồm những nét đặc trưng của ý
thức xã hội nói chung. Bởi vậy, có thể thiểu ý thức chính trị là những tình cảm, thái
độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị của cộng đồng xã hội, hoặc của các tầng
lớp, giai cấp trong xã hội, phản ánh mọi mặt của đời sống chính trị.
1.1.1.2. Giáo dục Y C

Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, khi tìm hiểu khái niệm giáo dục có
nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau. Trong tiếng
anh giáo dục là “education” có nghĩa là dẫn dắt con người vươn tới sự hoàn thiện
hơn, tốt đẹp hơn cái đang có ở hiện tại.
Theo giáo trình Giáo dục học thì định nghĩa: “giáo dục là hiện tượng xã hội
đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của các thế hệ loài người”. Theo định nghĩa này nhấn mạnh đến vấn đề truyền đạt
của người dạy và việc lĩnh hội của người học, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học.
Kế thừa các quan niệm của các nhà nghiên cứu, theo tác giả giáo dục là một
trong những hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức tác động đến đối tượng bằng các
hình thức và phương pháp khác nhau nhằm đi đến mục đích cuối cùng là làm thay
đổi sự phát triển theo chiều hướng tích cực của cá nhân hoặc đối tượng theo ý muốn
của chủ thể.
Theo các quan niệm, giáo dục là quá trình được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác thông qua q trình giảng dạy; là sự tác động có hệ thống, có chủ đích của
chủ thể giáo dục và được sắp xếp, tổ chức một cách khoa học nhằm chuyển biến đối
tượng giáo dục theo những mong muốn, mục tiêu xác định.
Giáo dục có vai trị quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của con
người. Giáo dục vạch ra phương hướng phát triển nhân cách thông qua những hình
mẫu nhân cách theo một yêu cầu nhất định; thông qua giáo dục nhằm truyền thụ các
tri thức, các kỹ năng để góp phần hình thành nhân cách và qua đó giáo dục hướng
tới một tương lai tốt đẹp. Trước những địi hỏi của xã hội, giáo dục có khả năng uốn
nắn những hành vi lệch chuẩn trong hình thành và phát triển nhân cách, tạo nên
những hình mẫu nhân cách mới.
Hoạt động giáo dục chính quy liên quan đến việc dạy và học trong môi trường
học và theo một chương trình học nhất định. Giáo dục gắn với hệ thống nhà trường
(giáo dục nhà trường), đó là các hoạt động giáo dục được tổ chức một cách khoa
học, quy củ, bài bản, có chủ đích dựa trên nội dung, chương trình, phương thức đào

12



tạo được áp dụng thống nhất, phù hợp đối với từng cấp học trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Giáo dục cũng được hiểu là hoạt động có mục đích của xã hội với nhiều
lực lượng tham gia, tác động để hình thành nên những giá trị nhân cách, những năng
lực phẩm chất cần thiết nào đó (giáo dục xã hội). Ngồi giáo dục nhà trường và xã
hội thì mỗi gia đình cũng có những ảnh hưởng, tác động quan trọng đến việc hình
thành, phát triển nhân cách của con em mình (giáo dục gia đình). Đồng thời, giáo
dục cũng bao hàm cả những hoạt động tự thân của mỗi cá nhân trong việc tìm tịi,
học hỏi, nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức (tự giáo dục).
Giáo dục có vị trí, vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non
sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ
một phần lớn ở cơng học tập của các em” [29, tr.35]. Ngày 3/9/1945, trong phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm
vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục. Đảng và
Nhà nước ta trong suốt tiến trình cách mạng đã ln coi trọng giáo dục, xem đó là
quốc sách hàng đầu, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Nghị Quyết TW 3, khố 7 năm 1993
khẳng định: “Khoa học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Nghị quyết TW 2, khoá VIII: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết TW 8, khoá XI: “Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Giáo dục ý thức chính trị là một q trình có chủ đích của chủ thể giáo dục
đến đối tượng giáo dục và phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Giáo dục
YTCT là hoạt động giáo dục trên lĩnh vực tư tưởng. “Bản chất của cơng tác giáo
dục chính trị-tư tưởng là q trình tác động có mục đích, có hệ thống của một Đảng,

một giai cấp, một tổ chức vào quần chúng nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức tư
tưởng của họ về quan điểm, đường lối chính trị để quy tụ, tập hợp quần chúng tham
gia vào quá trình đấu tranh giành và bảo vệ thực thi quyền lực chính trị, bảo vệ lợi
ích của giai cấp” [24, tr.18]. Giữ vị trí là một bộ phận của công tác tư tưởng, giáo
dục YTCT là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản, Nhà nước và các đoàn thể

13


chính trị - xã hội nhằm hình thành ở cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về thế
giới quan khoa học, rèn luyện bản lĩnh chính trị vừng vàng, niềm tin vào sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo, khắc phục thói thụ động và thờ ơ chính trị, hình thành
thái độ đấu tranh đối với các tư tưởng phản tiến bộ, thúc đẩy tính tích tự giác, tích
cực, sáng tạo tham gia vào các phong trào cách mạng.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, đổi mới, đẩy mạnh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [25, tr.83]. Giáo dục YTCT là một bộ phận trong
công tác tư tưởng của Đảng. Nội dung trọng tâm của giáo dục YTCT là tuyên
truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh những nội dung trọng
tâm đó, giáo dục YTCT còn bao gồm: giáo dục lý tưởng cách mạng – xã hội chủ
nghĩa, giáo dục niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, tính tích cực
chính trị-xã hội, đấu tranh khắc phục sự mơ hồ về chính trị, phai nhạt lý tưởng…
xây dựng con người Việt Nam mới có nhân cách cao đẹp, sống nhân văn, nhân ái,
có ý thức xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ chính trị, đấu tranh cho lợi
ích của dân tộc.
Như vậy, giáo dục YTCT là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước đến các tầng lớp, giai cấp trong xã hội; định hướng giá trị, lý tưởng cách
mạng, cung cấp thông tin về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quần chúng

nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị, hình
thành con người mới với khả năng nhạy bén, chủ động, tích cực tự giác, sáng tạo
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác giáo dục ý thức chính trị là các hoạt động giáo dục một cách khoa
học, quy củ, bài bản, có chủ đích dựa trên nội dung, chương trình, phương thức đào
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật
của Nhà nước đến với thanh niên, giúp họ có niềm tin, tri thức, lý tưởng chính trị
đúng đắn, góp phần hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng;
đồng thời, phát huy tính tích cực của thanh niên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

14


1.1.2. Thanh niên và giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên
1.1.2.1. Thanh niên
Thứ nhất, về độ tuổi của thanh niên: Theo Điều lệ của Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam là những người có tuổi từ 16 đến 30.
Từ góc độ pháp luật, theo điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 được Quốc hội nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua tại kì họp thứ XI thì “Thanh niên
quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Là thời
kì sung sức nhất của mỗi con người về thể chất, có sự phát triển mạnh về trí tuệ,
nhạy bén, năng động, sáng tạo, có nhiều ước mơ, hồi bão. Từ góc độ xã hội học,
thanh niên được xem là một nhóm xã hội của những người “mới lớn”, “Tuổi thanh
niên là độ tuổi quá độ từ trẻ con sang người lớn trong cuộc đời mỗi người”. Đây là
một nhóm động, khơng ổn định, nó như một dịng chảy, thường xun đón nhận
những thành viên mới và chia tay những người đã trưởng thành, vượt quá phạm vi
lứa tuổi của nhóm.
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là một độ tuổi, ở giữa lứa tuổi trẻ em và
tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đ nh cao, tuy

nhiên, các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối.
Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề nghiệp…)
do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng, tuy nhiên, họ có
một tính chất chung, đó là tính trẻ. Tính trẻ được thể hiện ở sự năng động, nhiệt
huyết, chấp nhận mạo hiểm, giàu ước mơ và hoài bão lớn, thích cái mới, thích giao
lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho xã hội để khẳng định bản
thân.
Phạm vi tuổi của thanh niên khá rộng (từ 16 tuổi đến 30 tuổi). Vì vậy, xét từ
góc độ nghề nghiệp của họ, trong thanh niên có nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm
trẻ tuổi nhất đang chuẩn bị kết thúc những năm học phổ thông, mối quan tâm lớn
nhất của họ là lựa chọn nghề, chọn trường để tiếp tục học cao hơn, hoặc bước vào
nghề; một bộ phận khác đang học tập tại các trường cao đẳng, đại học, tiếp thu
kiến thức và kỹ năng chun mơn ở trình độ cao để trở thành nguồn nhân lực chất
lượng cao của đất nước; có một bộ phận mới bước vào hoạt động nghề nghiệp,
đang đối mặt với những khó khăn, thử thách ban đầu; bên cạnh đó, một bộ phận
thanh niên đã khẳng định được vị trí nghề nghiệp của mình, có những cống hiến
nhất định cho xã hội. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học – công nghệ, một

15


lĩnh vực có rất nhiều đặc điểm phù hợp với tâm lý thanh niên, được thanh niên ưa
thích và tích cực vận dụng vào chun mơn, khơng ít thanh niên đã sớm đạt được
thành tích lớn, nhanh chóng khẳng định được bản thân. Với sự nhanh nhạy, nhiệt
huyết của tính trẻ, dám nghĩ, dám làm và sức khỏe tốt, thanh niên được xem là lực
lượng chủ chốt của xã hội.
hứ hai, thanh niên là một nhóm xã hội – dân cư bao gồm những thành viên
trong một xã hội cụ thể đang trong độ tuổi thanh niên. Với ý nghĩa nhóm xã hội - dân
cư, thanh niên có vai trị và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cộng
đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Một năm bắt đầu

bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ; tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc. Có
thể nói, thanh niên chính là tương lai của tồn cộng đồng, dân tộc. Do đó, “Nhiệm vụ
của thanh niên khơng phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi
mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều
hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”, “Thanh niên phải
có tinh thần gan dạ và sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên vượt
mọi khó khăn gian khổ để tiến mãi khơng ngừng” [31, tr.455]. Đó là những lời căn
dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tầng lớp thanh niên, trong đó có đội
ngũ sinh viên có tri thức.
Ở nước ta, thanh niên được xem là rường cột của nước nhà, lực lượng xung
kích trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với cơng tác
thanh niên thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã khẳng định: “Thanh
niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định
tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực đảm nhiệm
những cơng việc địi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ
tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, ln năng động, sáng tạo, muốn tự
khẳng định mình” [24, tr.35].
Như vậy, thanh niên được đánh giá là lực lượng dân số quan trọng của mỗi quốc
gia không ch bởi họ là lực lượng dân số đông đảo đang góp phần quan trọng vào mọi
hoạt động của đời sống xã hội, mà họ còn là một lực lượng mới đang lớn lên, đang
trưởng thành và có khả năng thích ứng nhanh nhạy trước những biến động của xã hội.

16




×