Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tiểu Luận Phân Tích Các Loại Nguồn Của Luật Tư La Mã Và So Sánh Với Các Nguồn Được Thừa Nhận Trong Blds Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.66 KB, 7 trang )

Tên tiểu luận:
Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn được
thừa nhận trong BLDS Việt Nam 2015
Phần dẫn nhập……………………….………….……………………………..1
Phần nội dung………………………………….………………………………2
I. Nguồn của luật tư La Mã ..………………………………………………... 2
1. Khái niệm nguồn của luật tư La Mã…….….……………………………2
2. Các loại nguồn của luật tư La Mã……..…….…………………………..4
II. Nguồn của luật dân sự Việt Nam. ……………...………………………….7
1. Khái niệm nguồn luật dân sự …….………..…………………………..7
2. Các loại nguồn của luật dân sự …………...……………………………8
III. So sánh nguồn của luật tư La Mã với các nguồn được thừa nhận trong
bộ luật dân sự Việt Nam 2015………………………………………………10
Phần kết luận………………………………………………………………... 12
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………..13

Các từ viết tắt
TAND: tòa án nhân dân
BLDS: bộ luật dân sự
TCN: trước công nguyên
SCN: Sau công nguyên
BLTTDS: bộ luật tố tụng dân sự
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

1
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


Nêu và phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các
nguồn được thừa nhận trong BLDS Việt Nam 2015.
A. Phần dẫn nhập


Khi nghiên cứu về luật La Mã, Ăngghen cho rằng “luật La Mã là hình thức pháp
luật hồn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu. Sự thể hiện pháp lý của những điều
kiện sống và những xung đột xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những nhà làm
luật sau đó khơng thể bán thêm điều gì hồn thiện hơn…” Luật la mã ra đời đã thể
hiện trình độ lập pháp đạt tới mức hoàn thiện của các luật gia La Mã. Luật tư La
Mã tuy hình thành và phát triển cùng với sự ra đời của nhà nước La Mã cổ đại
một nhà nước của xã hội chiếm hữu nô lệ nhưng ngày nay hầu hết các chế định
của nó vẫn giữ nguyên được giá trị. Vì vậy, việc phân tích, tổng hợp, nghiên cứu về
nguồn của luật tư La Mã là rất cần thiết để từ đó thấy được những điểm mới, sự kế
thừa về nguồn của Bộ luật Dân sự Việt Nam 20 15 so với nguồn của luật tư La
Mã.
B. Nội dung
I.

Nguồn của Luật tư La Mã.
1. Khái niệm về nguồn của luật tư La Mã.
Trong thời đương đại, có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình xác định

nguồn của luật tư pháp La Mã, nhưng tổng hợp của các quan điểm đó đều có giá trị
trong việc xác định căn cứ hình thành nội dung các quy phạm pháp luật La Mã.
- Nguồn của Luật La Mã là nguồn gốc nội dung quy phạm.
- Dựa theo nội dung của luật La Mã, thì cội nguồn của các quy phạm pháp luật
La Mã chính là nhu cầu của các quan hệ xã hội cần phải có sự điều tiết thống nhất mà
được nhà nước ban hành. Những quy phạm pháp luật được quy định như một tất yếu
khách quan trong một xã hội tư hữu về tư liệu sản xuất và nô lệ. Sự bảo vệ quyền tư
hữu cần phải đặt trong một chuẩn mực có tính nguyên tắc được áp dụng cho các quan
hệ trong phạm vi toàn xã hội. Quyền lợi và nghĩa vụ luôn luôn thuộc về các chủ thể
trong một quan hệ xã hội nhất định hoặc do thỏa thuận, hoặc do những quy ước chung
chi phối. Vì lẽ đó sự cần thiết phải có những chuẩn mực chung để mọi người trong xã
hội phải tuân theo.


2
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


- Những phong tục tập quán của người La Mã như một quy ước chung đối với
mọi chủ thể khi thiết lập một quan hệ xã hội nhất định. Nhưng những quan hệ xã hội
chỉ có thể đảm bảo thực hiện ở mức độ cao nhất lại do các đạo luật và hiến pháp chi
phối, điều tiết. Mọi quyền hạn và nghĩa vụ của những người tham gia vào quan hệ tài
sản và nhân thân đều phải phù hợp với những quy định của pháp luật.
- Nguồn của Luật La Mã đã là cơ sở nhận thức về pháp luật La Mã. Cội nguồn
nhận thức về các quy phạm luật tư pháp La Mã không những dựa vào phong tục, tập
quán của người La Mã, mà còn dựa vào nội dung của các bút ký triết học, của các các
triết gia, dựa trên văn bia, các hợp đồng La Mã được thể hiện dưới hình thức văn bản,
các tác phẩm của các luật gia, các tác phẩm văn học, nghệ thuật...những nguồn văn
bản trên đã phản ánh trực tiếp và gián tiếp những mối quan hệ của người La Mã trong
các giai đoạn phát triển của lịch sử.
Do vậy nguồn của Luật tư pháp La Mã là những tồn tại khách quan đã phản
ánh trực tiếp hoặc gián tiếp nội dung hiện thực của các quan hệ xã hội La Mã về tài
sản, về nhân thân mà dựa trên đó luật La Mã được xây dựng và được áp dụng trong
suốt chiều dài lịch sử tồn tại của Nhà nước La Mã, nhà nước chiếm hữu nô lệ.
- Nguồn của luật La Mã là hình thức biểu hiện nội dung quy phạm. Quy phạm
của luật được thể hiện dưới một hình thức nhất định như tập quán pháp, các đạo luật,
hệ thống hóa pháp luật…
2. Các loại nguồn của luật tư La Mã.
2.1. Tập quán của người La Mã.
Tập quán của người La Mã được hình thành phù hợp với chế độ thị tộc do tài
sản trong xã hội ngày càng được tạo ra nhiều hơn, phong phú hơn. Những tập quán
được hình thành, chi phối mọi quan hệ xã hội và được coi là những chuẩn mực chung
đối với hành vi của mọi người. Những tập quán của người La Mã trong quan hệ tài

sản, tôn giáo, lễ nghi, quyền mang tên thị tộc, bổn phận các thành viên trong thị tộc,
quyền của trưởng tộc, thừa kế tài sản của người chết, nghi thức kết hôn và điều kiện
kết hơn... đó là cơ sở để xây dựng và phát triển luật thành văn - luật La Mã cổ đại.
2.2 Đạo luật (plebiscite).
Nói về lịch sử phát triển của luật La Mã, ngay trong các chế định của Justinian
đã có sự phân biệt giữa luật thành văn (ius scriptum) và luật không thành văn (ius non
3
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


scriptum). Luật thành văn là đạo luật và những quy phạm do các cơ quan quyền lực
đặt ra và ghi nhận bằng các văn bản cụ thể. Đạo luật đã được sử dụng thay thế cho
thường luật không thành văn khi thường luật khơng cịn là hình thức phù hợp với sự
phát triển của xã hội.
- Vào thời quân chủ (khoảng năm 753-509 TCN) - nhà vua căn cứ vào hồn
cảnh, tình hình của La Mã đã ra các sắc dụ (constitution) hay chiếu chỉ (leges regiae)
để ra một lệnh nào đó có nội dung chỉ dẫn, khuyến dụ có tính chất bắt buộc một tầng
lớp hoặc tồn thể cơng dân La Mã phải tuân theo hoặc thực hiện một việc hoặc trong
một quan hệ nhất định. Cách sắc dụ thể hiện ở dạng: “ chiếu chỉ cho các thần dân; sắc
chỉ cho từng vụ việc; sắc dụ cho các quan lại và sắc lệnh giải quyết các tranh chấp”.
Những chiếu chỉ của vua có chứa đựng những nguyên tắc xử sự bắt buộc trong quan
hệ tài sản và nhân thân giữa các cơng dân La Mã, có giá trị là nguồn của luật La Mã.
- Luật XII bảng được cơng bố vào năm 449 TCN có nội dung điều chỉnh các
quan hệ thuộc lĩnh vực tư pháp, được coi là nguồn chính của luật tư pháp La Mã.
- Vào thời cộng hoà ( năm 510/509 - 44 TCN) tuy tập quán của người La Mã
vẫn được áp dụng phổ biến trong xã hội, nhưng các quan chấp chính vẫn công bố
những quyết định về việc giải quyết những vụ việc cụ thể. Những án lệ mà các quan
chấp chính hay quan tòa đã áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giữa các công dân
La Mã được thông báo công khai, cũng là nguồn của luật tư La Mã.
2.3. Sắc dụ của các quan chấp chính (edicta)

Sắc dụ của các quan chấp chính có tính chất bắt buộc và hiệu lực của nó kéo
dài theo nhiệm chức của quan. Trong thực tiễn xét xử, một số quy phạm pháp luật cũ
khơng cịn phù hợp đã được điều chỉnh hoặc thay đổi. Điều này đã khắc phục được
các hạn chế của luật civile nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, giải quyết
các vấn đề mới phát sinh trong xã hội mà luật chưa thay đổi kịp điều chỉnh.
Hoạt động sáng tạo lập pháp của các quan tòa đã làm xuất hiện một hệ thống
các quy phạm pháp luật mới có tên gọi là ius honorarium (từ honores dùng để chỉ
những người có chức sắc) hoặc cịn gọi là ius praetorium – luật quan. Hoạt động sáng
tạo luật pháp của các quan tòa còn dẫn đến sự xuất hiện một loạt những học thuật mới

4
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


như: legitium – theo luật civile, iustae causae (căn cứ chính xác, hợp đạo), legitimum
tempus ( thời hạn luật pháp).1
2.3. Hoạt động của các luật gia La Mã (responsa prudentium).
Các luật gia La Mã trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình đã áp dụng
những nguyên tắc do luật XII bảng và các quyết định của quan chấp chính quy định.
Đồng thời, các luật gia cịn có vai trị bổ sung, sáng tạo luật trong quá trình nghiên cứu
và áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Theo Xi-xê-ron, hoạt động của các
luật ra gồm các hình thức: respondere, cavere, agere và scribere.
Respondere - là hoạt động tư vấn giúp cho các công dân hiểu rõ hơn các điều
luật khi họ có những việc liên quan tới luật pháp. Cavere - hoạt động giúp công dân ký
kết các thỏa thuận để tránh những thiếu sót có thể gây thiệt hại về quyền lợi. Scribere là hoạt động giúp các công dân lập biên bản hợp đồng và các loại văn bản khác liên
quan tới pháp luật. Agere - Là hoạt động phụ trách tố tụng của các bên nhưng không
với tư cách là luật sư bào chữa2.
Đến thời kỳ Prinxipat (từ năm 27 TCN – 193 SCN), hoạt động sáng tác luật
pháp của các luật gia La Mã được cơng nhận chính thức. Các luật gia La Mã có vai
trị khơng nhỏ trong việc sáng tạo ra các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội mới nảy sinh.
2.4. Hệ thống hóa luật La Mã của Hồng đế Justinian (constitutiones
principum).
Vai trị của hồng đế La Mã Justinian rất lớn trong việc khôi phục đế chế La
Mã và hệ thống pháp luật. Hoàng đế Justinian lên ngôi vào năm 527. Từ năm 528 ông
thành lập một ủy ban pháp luật nhằm hệ thống các quy phạm luật la mã thành Corpus
Juris Civilis ( tập hợp các chế định luật dân sự). Ngoài việc hệ thống, hoàng đế còn
cho phép ủy ban được thay đổi nội dung của những những quy phạm cho phù hợp với
hoàn cảnh xã hội đương thời. Corpus Juris Civilis bao gồm bốn bộ phận cấu thành:
Codex Constitutionum ( Bộ luật Justinian), Institutiones (sách giáo khoa luật la mã),
Digesta (Tổng luận luật học Justinian ), và Novellae (tập hợp luật mới). Vào năm năm
1

Lê Thu Trang (2017), “ tiếp nhận luật la mã trong việc xây dựng chế định vật quyền ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ luật học, khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.
2
Lê Thu Trang (2017), “ tiếp nhận luật la mã trong việc xây dựng chế định vật quyền ở Việt Nam hiện nay”,
luận văn thạc sĩ luật học, khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.

5
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


534, cơng việc hệ thống luật La Mã đã hồn thành và được gọi là bộ luật của hoàng đế
Justinian gồm 12 quyển được phân chia theo nội dung của các quy phạm thuộc lĩnh
vực tư pháp, hành chính…
Tóm lại, hệ thống luật dưới thời hoàng đế Justinian được gọi là luật La Mã cổ
đại, trong đó có các quy phạm về tư pháp La Mã.
2.5. Ý kiến viện nguyên lão ( senatus consulta).
Viện nguyên lão có 3 trách nhiệm chính: nắm quyền hành pháp, có vai trị như

một hội đồng cố vấn cho nhà vua; là cơ quan lập pháp. Trong thời kỳ quân chủ, nhiệm
vụ quan trọng nhất của Viện là bầu ra vị vua mới. Nếu nhà vua tự động được nhân dân
lựa chọn, những người đó đã thực sự thay thế vai trò Viện nguyên lão. Thời gian giữa
cái chết của vị vua cũ cho đến khi bầu vua mới được gọi là interregnum, trong thời
gian này Interrex đề cử một ứng viên thay thế vua cũ. Sau khi được Viện ngun lão
chấp thuận, ơng chính thức được nhân dân bầu, và được tuyên bố bởi Viện. Duy nhất
một vua, Servius Tullius, được bầu bởi một mình Viện ngun lão, khơng phải bởi
người dân. Ngoài ra một nhiệm vụ quan trọng khác của Viện nguyên lão là làm một
hội đồng cố vấn cho nhà vua. Nhà vua có thể bác bỏ những đề nghị của Viện, nhưng
uy tín ngày càng tăng của Viện nguyên lão khiến nhà vua càng trở nên khó khăn trong
việc bác bỏ các quyết nghị. Về cơ bản Viện cũng có thể soạn thảo ra luật mới, mặc dù
thật không đúng lắm khi xem những quyết nghị của Viện là "pháp luật" theo nghĩa
hiện đại. Chỉ có nhà vua mới có thể ra được luật mới, mặc dù ơng cũng tham gia vào
cả Viện nguyên lão lẫn Đại hội Curia (Đại hội Nhân dân)3.
II.

Nguồn của luật dân sự Việt Nam.
1.

Khái niệm.

Tải bản FULL (13 trang): />Dự phịng: fb.com/TaiHo123doc.net

Khi nói đến nguồn của pháp luật điều đó cũng có nghĩa là muốn nói đến hình
thức bên ngồi của pháp luật hay nói một cách khác là các hình thức ghi nhận và ban
hành các quy phạm pháp luật. Nguồn của luật còn được hiểu theo nghĩa rộng là tổng
hợp các cách thức biện pháp ấp để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều
chỉnh của một ngành luật. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội này bằng cách nào, theo
phương thức nào cũng như hình thức của sự ghi nhận và ban hành các quy phạm pháp


3

/>
6
Trịnh Hồng Nhung - 20061212


luật - một phần phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, pháp lý cũng như khả năng xây
dựng pháp luật ở từng nước.
Nguồn của luật dân sự ở nước ta được hiểu là các văn bản quy phạm pháp luật
dân sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm
điều chỉnh các quan hệ dân sự giữa các chủ thể trong một khoảng thời gian và không
gian nhất định. Nhưng không phải mọi văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành đều là nguồn của luật dân sự, mặc dù điều chỉnh quan hệ tài sản hoặc quan
hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Ví dụ một bản án dân sự của
tòa án giải quyết tranh chấp quyền sở hữu, một quyết định phân nhà cho công nhân
viên chức nhà nước,...
Theo khoa học pháp lý và pháp luật thực định, một văn bản được xem là nguồn
của luật dân sự phải đáp ứng các điều kiện sau đây: 
- Văn bản phải chứa đựng các quy tắc xử sự để điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân.
- Văn bản phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành .Ví dụ theo hiến
pháp 2013 và luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 3/6/2008 thì Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền ban hành luật, cịn ủy ban thường vụ quốc hội chỉ có
quyền ban hành pháp lệnh.
- Văn bản đó phải được ban hành theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục luật
định.
- Văn bản đó được nhà nước đảm bảo thi hành bằng các biện pháp thích hợp và
quan trọng nhất là cưỡng chế, buộc thi hành và áp dụng chế tài đối với người có hành
vi vi phạm pháp luật.

1.

Các loại nguồn của luật dân sự Việt Nam.

Mỗi một văn bản quy phạm pháp luật tương ứng với một mức độ điều chỉnh
nhất định, hiệu lực pháp lý cao hay thấp nhất định, với mức độ khái quát hay cụ thể
khác nhau, trên cơ sở đó, có thể phân loại các văn bản quy phạm pháp luật theo hai
tiêu chí, đó là mức độ điều chỉnh và mức độ hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm
pháp luật, trên cơ sở các tiêu chí đó, nguồn của luật dân sự Việt Nam bao gồm:
2.1. Hiến pháp.

7
Trịnh Hồng Nhung - 20061212

9608799



×