Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu Luận Triết Học Nguyên Tắc Khách Quan Và Sự Vận Dụng Trong Hoạt Động Nhận Thức, Thực Tiễn 3137304.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.62 KB, 15 trang )

Tiểu luận Triết học

Đề tài:
NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN VÀ SỰ
VẬN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC, THỰC TIỄN

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Nhóm 5

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNH – HĐH



: Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học

LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, cho đến nay những nước có nền kinh tế phát triển
nhất trên thế giới cũng chính là những nước có bề dày phát triển kinh tế thị
trường dài nhất. Cả thế giới ngày nay đang bị sức hút bởi trình độ phát triển
ngoạn mục của các nước ở đỉnh cao của sự phát triển kinh tế thị trường. Một
số nước đi sau chỉ trong một thời gian ngắn (chừng 30 năm) đã phát triến
nhanh chóng bởi vì trước hết họ đã chấp nhận và đi theo con đường kinh tế thị
trường ngay từ đầu, họ biết khai thác tối đa kinh nghiệm và có sự hỗ trợ từ
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trái lại, mơ hình kinh tế hố tập
trung qua thực tiễn trong 70 năm tồn tại đã đạt được thành công rực rỡ trong
thời kỳ chiến tranh nhưng lại thất bại nặng nề trong thời kỳ xây dựng kinh tế
và đẩy XHCN lâm vào khủng hoảng.
Đối với Việt Nam, trong khoảng mười năm sau khi thống nhất đất nước
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đã phạm phải khơng ít
sai lầm. Do sự nơn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách
quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế nước ta tụt hậu
nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc tìm
hiểu bản thân phạm trù quy luật, lịch sử nhận thức nó, cũng như những vấn đề
hiện đang được đặt ra xung quanh phạm trù ấy là bước đi không thể thiếu
được trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Từ lý luận chủ

nghĩa Mác – Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng:
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tơn trọng
quy luật khách quan”.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Nhận thấy tầm quan trọng của việc nhận thức và vận dụng khách quan
để phát huy những thành tựu cũng như khắc phục, hạn chế những khó khăn
đang còn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập, dưới sự hướng
dẫn nhiệt tình của cơ giáo Lê Thị Hồng, chúng tơi – Nhóm 5 đã chọn nghiên
cứu đề tài: “Nguyên tắc khách quan và vận dụng trong hoạt động nhận thức,
thực tiễn”.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nội dung nguyên tắc khách quan và những ứng dụng
trong đời sống.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu nội dung và sự vận
dụng của nguyên tắc trong thời kỳ Cách mạng XHCN và trong q trình cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
III. Kết cấu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo hai phần chính:
- Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc khách quan
- Phần II: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn


Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc khách quan
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan
1.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”. Do đó, vật chất tồn tại khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên không phải
cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là tự nhiên trở thành ý
thức. Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu
cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thơng qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức là cái vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó. Tính sáng tạo của
ý thức được thể hiện rất phong phú, tuy nhiên sáng tạo của ý thức là sáng tạo
của phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ phản ánh tồn tại. Ý thức là sản
phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất có tính xã hội.
Có thể nói, vật chất và ý thức giống như hai mặt của một vấn đề, giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.
Thứ nhất, vật chất có vai trị quyết định đối với ý thức.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết
định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Khơng có vật chất thì khơng

thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất, trong đó bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,
sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên
quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngồi ra, ý thức chỉ
có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện
vật chất cần thiết cho hành động.
Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập
tương đối nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối
với vật chất là sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo
chủ động, là q trình con người khơng ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu
biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận
động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trị
định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra
biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều
kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt
khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một
là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức
phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật
khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức

hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí
phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không
đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu
con người khơng có ý chí, khơng nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác
động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó khơng thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ vai trò của ý thức đối với vật
chất
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
khách quan trước nhất thừa nhận vai trị quyết định của vật chất đối với ý
thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan khơng có nghĩa là quan
điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó cịn địi
hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.
Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan địi hỏi chủ thể phải phát huy tính
năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để
từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người
thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái
phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện,
sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các

mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
2. Nội dung nguyên tắc khách quan
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản
phẩm, là phản ánh thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực
lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể như sau:
2.1. Trong hoạt động nhận thức
- Chống thái độ chủ quan duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách
quan, không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện,
lấy ý muốn, nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính
sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến
thất bại trong hoạt động thực tiễn.
- Cần khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao
năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động ngồi
chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người
để cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người
bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng,
phát huy dân chủ rộng rãi….
2.2. Trong hoạt động thực tiễn
- Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ
sở cho mọi hành động của mình; khơng được lấy ý kiến chủ quan làm điểm

xuất phát;
- Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện, người lãnh
đạo phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan. Có như vậy thì mới nêu ra
mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
- Phát huy vai trò năng động, sáng tạo của nhân tố chủ quan.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Phần II: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn
1. Vận dụng trong hoạt động nhận thức
1.1. Góp phần xây dựng năng lực tư duy biện chứng
Cùng với các nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên
tắc lịch sử; nguyên tắc khách quan tạo cơ sở cho việc xây dựng một
phương pháp tư duy biện chứng khoa học và hiệu quả.
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi việc nhận thức phải dựa vào những cơ
sở thực tế khách quan, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc
tính và mối liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận động và phát triển
của bản thân nó; khơng thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan
áp đặt cho thực tế, đồng thời không được cắt xén, không được gán ghép cho
sự vật, hiện tượng những gì mà chúng vốn khơng có. Trong Bút ký triết học,
V.I.Lênin chỉ ra rằng, "tính khách quan của sự xem xét khơng phải thí dụ,
khơng phải dài dịng, mà bản thân sự vật tự nó".
Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan sẽ góp phần
thiết thực trong việc xây dựng năng lực tư duy biện chứng cho người học.
Việc quán triệt nguyên tắc này giúp họ thấy được rằng, phải quan sát các sự

vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí nghiệm khoa học
để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn.
Những kết quả nghiên cứu phải được kiểm tra, đối chiếu, so sánh và đánh giá
có phù hợp với hiện thực khách quan hay không. Nắm vững nguyên tắc khách
quan giúp người học hiểu được sự cần thiết phải quan sát thực tế một cách tỉ
mỉ, chính xác; phải xuất phát từ bản thân đối tượng, phải xem xét đối tượng
đúng như nó vốn có trong thực tế.
Bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không tồn tại
cô lập, tách rời, mà tồn tại trong những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Hơn nữa,
những mối liên hệ ấy lại vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp, bao

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
gồm cả những mối liên hệ bản chất và không bản chất, tất nhiên và ngẫu
nhiên, chủ yếu và thứ yếu. Vì thế, khi nhận thức thế giới khách quan, tư duy
biện chứng đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc toàn diện. V.I.Lênin viết: "Muốn
thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó. Chúng ta khơng
thể làm được điều đó một cách hồn tồn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét
tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng
nhắc". Muốn nhận thức được khách quan thì cần phải xem xét vấn đề đặt ra
một cách tồn diện. Qua đó mới đánh giá đối tượng một cách chính xác, đầy
đủ, tồn vẹn; xem xét đối tượng như một chỉnh thể, hệ thống; tránh được lối
tư duy phiến diện, chiết trung, ngụy biện. Thực tế cho thấy, các hiện tượng
trong tự nhiên thường xảy ra rất phức tạp, do nhiều nguyên nhân gây ra và
biến đổi qua nhiều giai đoạn, nhưng nhiều khi ta chỉ quan sát được kết quả

cuối cùng. Vì thế, nếu nghiên cứu đối tượng một cách phiến diện sẽ dẫn tới
những tri thức, kết luận sai lầm.
Tự nhiên, xã hội và tư duy ln nằm trong q trình vận động và phát
triển khơng ngừng theo những quy luật tất yếu, vốn có của chúng. Vì vậy, để
nhận thức được bản chất của sự vật, ngồi các ngun tắc trên, tư duy cịn
phải tuân thủ nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này quy định tính tất yếu phải
nghiên cứu sự vật trong sự vận động và phát triển theo những quy luật phổ
biến, khách quan vốn có, chỉ ra chiều hướng biến đổi của nó. Mặt khác,
ngun tắc này cịn giúp cho tư duy trở nên năng động, linh hoạt, mềm dẻo;
khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ và máy móc.
Lơgíc biện chứng chỉ cho chúng ta thấy được sự phát triển biện chứng
của nhận thức khoa học. Các khái niệm, định luật, lý thuyết tất yếu được bổ
sung, điều chỉnh, phát triển trong quá trình nhận thức, trong lịch sử phát triển
của khoa học. Những khái niệm, định luật, lý thuyết mới này khơng phủ nhận
hồn tồn các khái niệm, định luật, lý thuyết cũ mà có sự kế thừa những giá
trị hợp lý, coi chúng như những trường hợp đặc biệt. Vì thế, khơng nên có

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
thái độ xem những tri thức đã có của con người như những chân lý tuyệt đích,
cuối cùng.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có q trình hình
thành và phát triển, đều có lịch sử của mình và bao giờ cũng tồn tại trong
những điều kiện, hồn cảnh cụ thể nhất định. Lơgíc biện chứng chỉ rằng,
"khơng có chân lý trừu tượng”, rằng “chân lý luôn luôn là cụ thể". Nguyên tắc
lịch sử - cụ thể chỉ cho người học thấy rằng, khi xem xét các sự vật, hiện

tượng, cần phải tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển của chúng, chỉ ra mối
liên hệ nội tại của chúng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nắm vững nguyên tắc lịch sử - cụ thể giúp cho người
học có thể xem xét, nghiên cứu đối tượng nhận thức gắn với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể nhất định, biết vận dụng những học thuyết, những nguyên
lý, công thức một cách sáng tạo, tránh rơi vào các căn bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, máy móc.
Tóm lại, muốn nhận thức thế giới một cách đầy đủ và khoa học, cần
vận dụng tốt cả bốn nguyên tắc, mà trong đó nguyên tắc khách quan là quan
trọng nhất.
1.2. Căn bệnh chủ quan duy ý chí
Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy
vật, như Mác và Ăngghen đã khẳng định "không chịu khuất phục trước một
cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối
lập với phép biện chứng duy tâm , mà nó cịn là phương tiện chủ yếu để khắc
phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các
quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua
hoạt động thực tiễn của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát
triển, do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy
của phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trị của nó đối với việc khắc
phục những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy

vừa mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ
nghĩa chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hố vai trị của chủ thể
trong quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và
tính quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực khách quan".
Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, người ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách
quan, coi thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng
nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để
xem xét thì rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu khơng nói là tất cả
của những điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát
triển thấp kém về kinh tế.
- Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hố, khoa học
của chủ thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta
khơng thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học
chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá,
khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí.
- Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc
thường xuyên chủ động nâng cao năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm
cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này,
Ăngghen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh
dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái được phát triển hồn
thiện... Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ
yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói
riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai

Nhóm 5


Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm
mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ
tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách
lược cách mạng và sự cụ thể hố đường lối đó bằng các chủ trương, chính
sách và pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ
làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng
như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này,
V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vơ sản, không sai lầm nào
nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra
một sách lược vơ sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị
thất bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây
nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể
được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu
của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) khơng nhận
thức được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được
nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngồi ngun nhân hạn chế về trình độ nhận
thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai
lầm, theo chúng tơi, cịn có ngun nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo
thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm
chủ quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách
đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan... Trong tình hình

đó, thay cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ
đợi sự may rủi... và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí cịn
dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ơ, lãng phí,
coi thường người lao động...
Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng
đã mắc phải căn bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan
trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng
về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ
tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã khơng có được một
đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường.
Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự
xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh khơng chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý
luận mà cịn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt
nó, bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho
nền kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan
duy ý chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý
luận, trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc
đẩy mạnh đổi mới và phát triển kinh tế.
Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ cịn gắn

kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển
đất nước.

Tải bản FULL (31 trang): />Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

1.3. Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những
sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất
của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hố kinh
nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khố vạn năng" trong việc giải quyết những
vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh
nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức
khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó
là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của
địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước
khác, kinh nghiệm của các thế hệ trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh
nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản thân.
Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:
Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục
bộ, chứ không phải là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm
phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc
của quá khứ chưa hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển
theo "quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là
sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều
trường hợp, chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên, nhưng
trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không
thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đốn được, nó đã diễn ra một cách
độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều.
Thứ ba, "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất yếu.
Con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Vì vậy,
mặc dù đã được trang bị chủ nghĩa Mác -Lênin, đặc biệt là phép biện chứng
duy vật, nhưng ở một số nhà quản lý của chúng ta ít nhiều vẫn mắc bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này, trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào
tình trạng mị mẫm, sự vụ,tuỳ tiện, tự ti, khơng nhất quán trong việc thi hành
các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và trì trệ
bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn
khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí

Nhóm 5

Lớp : 18G
3137304



×