Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận triết học: Nguyên tắc khách quan và sự vận dụng trong hoạt động nhận thức, thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.48 KB, 31 trang )

Tiểu luận Triết học

Đề tài:
NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN VÀ SỰ
VẬN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC, THỰC TIỄN

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Nhóm 5

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNH – HĐH



: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học

LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, cho đến nay những nước có nền kinh tế phát triển
nhất trên thế giới cũng chính là những nước có bề dày phát triển kinh tế thị
trường dài nhất. Cả thế giới ngày nay đang bị sức hút bởi trình độ phát triển
ngoạn mục của các nước ở đỉnh cao của sự phát triển kinh tế thị trường. Một
số nước đi sau chỉ trong một thời gian ngắn (chừng 30 năm) đã phát triến
nhanh chóng bởi vì trước hết họ đã chấp nhận và đi theo con đường kinh tế thị
trường ngay từ đầu, họ biết khai thác tối đa kinh nghiệm và có sự hỗ trợ từ
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trái lại, mô hình kinh tế hoá tập
trung qua thực tiễn trong 70 năm tồn tại đã đạt được thành công rực rỡ trong
thời kỳ chiến tranh nhưng lại thất bại nặng nề trong thời kỳ xây dựng kinh tế
và đẩy XHCN lâm vào khủng hoảng.
Đối với Việt Nam, trong khoảng mười năm sau khi thống nhất đất nước
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đã phạm phải không ít
sai lầm. Do sự nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách
quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế nước ta tụt hậu
nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc tìm
hiểu bản thân phạm trù quy luật, lịch sử nhận thức nó, cũng như những vấn đề
hiện đang được đặt ra xung quanh phạm trù ấy là bước đi không thể thiếu
được trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Từ lý luận chủ

nghĩa Mác – Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng:
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Nhận thấy tầm quan trọng của việc nhận thức và vận dụng khách quan
để phát huy những thành tựu cũng như khắc phục, hạn chế những khó khăn
đang còn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập, dưới sự hướng
dẫn nhiệt tình của cô giáo Lê Thị Hồng, chúng tôi – Nhóm 5 đã chọn nghiên
cứu đề tài: “Nguyên tắc khách quan và vận dụng trong hoạt động nhận thức,
thực tiễn”.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nội dung nguyên tắc khách quan và những ứng dụng
trong đời sống.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu nội dung và sự vận
dụng của nguyên tắc trong thời kỳ Cách mạng XHCN và trong quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
III. Kết cấu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo hai phần chính:
- Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc khách quan
- Phần II: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn


Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc khách quan
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan
1.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”. Do đó, vật chất tồn tại khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên không phải
cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là tự nhiên trở thành ý
thức. Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu
cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức là cái vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó. Tính sáng tạo của
ý thức được thể hiện rất phong phú, tuy nhiên sáng tạo của ý thức là sáng tạo
của phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ phản ánh tồn tại. Ý thức là sản
phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất có tính xã hội.
Có thể nói, vật chất và ý thức giống như hai mặt của một vấn đề, giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.
Thứ nhất, vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết
định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không

thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất, trong đó bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,
sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên
quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ
có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện
vật chất cần thiết cho hành động.
Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập
tương đối nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối
với vật chất là sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo
chủ động, là quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu
biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận
động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò
định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra
biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều
kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt
khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một
là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức
phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật
khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức

hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí
phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không
đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu
con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác
động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ vai trò của ý thức đối với vật
chất
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan
điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi
hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.
Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính
năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để
từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người
thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái
phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện,
sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các

mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
2. Nội dung nguyên tắc khách quan
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản
phẩm, là phản ánh thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực
lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể như sau:
2.1. Trong hoạt động nhận thức
- Chống thái độ chủ quan duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách
quan, không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện,
lấy ý muốn, nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính
sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến
thất bại trong hoạt động thực tiễn.
- Cần khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao
năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động ngồi
chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người
để cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người
bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng,
phát huy dân chủ rộng rãi….
2.2. Trong hoạt động thực tiễn
- Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ
sở cho mọi hành động của mình; không được lấy ý kiến chủ quan làm điểm

xuất phát;
- Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện, người lãnh
đạo phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan. Có như vậy thì mới nêu ra
mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
- Phát huy vai trò năng động, sáng tạo của nhân tố chủ quan.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Phần II: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn
1. Vận dụng trong hoạt động nhận thức
1.1. Góp phần xây dựng năng lực tư duy biện chứng
Cùng với các nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên
tắc lịch sử; nguyên tắc khách quan tạo cơ sở cho việc xây dựng một
phương pháp tư duy biện chứng khoa học và hiệu quả.
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi việc nhận thức phải dựa vào những cơ
sở thực tế khách quan, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc
tính và mối liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận động và phát triển
của bản thân nó; không thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan
áp đặt cho thực tế, đồng thời không được cắt xén, không được gán ghép cho
sự vật, hiện tượng những gì mà chúng vốn không có. Trong Bút ký triết học,
V.I.Lênin chỉ ra rằng, "tính khách quan của sự xem xét không phải thí dụ,
không phải dài dòng, mà bản thân sự vật tự nó".
Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan sẽ góp phần
thiết thực trong việc xây dựng năng lực tư duy biện chứng cho người học.
Việc quán triệt nguyên tắc này giúp họ thấy được rằng, phải quan sát các sự

vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí nghiệm khoa học
để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn.
Những kết quả nghiên cứu phải được kiểm tra, đối chiếu, so sánh và đánh giá
có phù hợp với hiện thực khách quan hay không. Nắm vững nguyên tắc khách
quan giúp người học hiểu được sự cần thiết phải quan sát thực tế một cách tỉ
mỉ, chính xác; phải xuất phát từ bản thân đối tượng, phải xem xét đối tượng
đúng như nó vốn có trong thực tế.
Bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không tồn tại
cô lập, tách rời, mà tồn tại trong những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Hơn nữa,
những mối liên hệ ấy lại vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp, bao

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
gồm cả những mối liên hệ bản chất và không bản chất, tất nhiên và ngẫu
nhiên, chủ yếu và thứ yếu. Vì thế, khi nhận thức thế giới khách quan, tư duy
biện chứng đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc toàn diện. V.I.Lênin viết: "Muốn
thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó. Chúng ta không
thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét
tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng
nhắc". Muốn nhận thức được khách quan thì cần phải xem xét vấn đề đặt ra
một cách toàn diện. Qua đó mới đánh giá đối tượng một cách chính xác, đầy
đủ, toàn vẹn; xem xét đối tượng như một chỉnh thể, hệ thống; tránh được lối
tư duy phiến diện, chiết trung, ngụy biện. Thực tế cho thấy, các hiện tượng
trong tự nhiên thường xảy ra rất phức tạp, do nhiều nguyên nhân gây ra và
biến đổi qua nhiều giai đoạn, nhưng nhiều khi ta chỉ quan sát được kết quả

cuối cùng. Vì thế, nếu nghiên cứu đối tượng một cách phiến diện sẽ dẫn tới
những tri thức, kết luận sai lầm.
Tự nhiên, xã hội và tư duy luôn nằm trong quá trình vận động và phát
triển không ngừng theo những quy luật tất yếu, vốn có của chúng. Vì vậy, để
nhận thức được bản chất của sự vật, ngoài các nguyên tắc trên, tư duy còn
phải tuân thủ nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này quy định tính tất yếu phải
nghiên cứu sự vật trong sự vận động và phát triển theo những quy luật phổ
biến, khách quan vốn có, chỉ ra chiều hướng biến đổi của nó. Mặt khác,
nguyên tắc này còn giúp cho tư duy trở nên năng động, linh hoạt, mềm dẻo;
khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ và máy móc.
Lôgíc biện chứng chỉ cho chúng ta thấy được sự phát triển biện chứng
của nhận thức khoa học. Các khái niệm, định luật, lý thuyết tất yếu được bổ
sung, điều chỉnh, phát triển trong quá trình nhận thức, trong lịch sử phát triển
của khoa học. Những khái niệm, định luật, lý thuyết mới này không phủ nhận
hoàn toàn các khái niệm, định luật, lý thuyết cũ mà có sự kế thừa những giá
trị hợp lý, coi chúng như những trường hợp đặc biệt. Vì thế, không nên có

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
thái độ xem những tri thức đã có của con người như những chân lý tuyệt đích,
cuối cùng.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có quá trình hình
thành và phát triển, đều có lịch sử của mình và bao giờ cũng tồn tại trong
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lôgíc biện chứng chỉ rằng,
"không có chân lý trừu tượng”, rằng “chân lý luôn luôn là cụ thể". Nguyên tắc
lịch sử - cụ thể chỉ cho người học thấy rằng, khi xem xét các sự vật, hiện

tượng, cần phải tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển của chúng, chỉ ra mối
liên hệ nội tại của chúng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nắm vững nguyên tắc lịch sử - cụ thể giúp cho người
học có thể xem xét, nghiên cứu đối tượng nhận thức gắn với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể nhất định, biết vận dụng những học thuyết, những nguyên
lý, công thức một cách sáng tạo, tránh rơi vào các căn bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, máy móc.
Tóm lại, muốn nhận thức thế giới một cách đầy đủ và khoa học, cần
vận dụng tốt cả bốn nguyên tắc, mà trong đó nguyên tắc khách quan là quan
trọng nhất.
1.2. Căn bệnh chủ quan duy ý chí
Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy
vật, như Mác và Ăngghen đã khẳng định "không chịu khuất phục trước một
cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối
lập với phép biện chứng duy tâm , mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc
phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các
quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua
hoạt động thực tiễn của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát
triển, do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy
của phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trò của nó đối với việc khắc
phục những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy

vừa mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ
nghĩa chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể
trong quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và
tính quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực khách quan".
Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, người ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách
quan, coi thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng
nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để
xem xét thì rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu không nói là tất cả
của những điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát
triển thấp kém về kinh tế.
- Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học
của chủ thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta
không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học
chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá,
khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí.
- Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc
thường xuyên chủ động nâng cao năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm
cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này,
Ăngghen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh
dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái được phát triển hoàn
thiện... Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ
yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói
riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai

Nhóm 5


Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm
mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ
tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách
lược cách mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính
sách và pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ
làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng
như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này,
V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai lầm nào
nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra
một sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị
thất bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây
nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể
được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu
của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận
thức được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được
nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận
thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai
lầm, theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo
thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm
chủ quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách
đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan... Trong tình hình

đó, thay cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ
đợi sự may rủi... và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn
dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô, lãng phí,
coi thường người lao động...
Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng
đã mắc phải căn bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan
trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng
về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ
tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một
đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường.
Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự
xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý
luận mà còn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt
nó, bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho
nền kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan
duy ý chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý
luận, trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc
đẩy mạnh đổi mới và phát triển kinh tế.
Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ còn gắn

kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển
đất nước.
1.3. Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những
sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất
của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những
vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh
nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức
khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó
là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của
địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước
khác, kinh nghiệm của các thế hệ trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh
nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản thân.
Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:
Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục
bộ, chứ không phải là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm
phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc
của quá khứ chưa hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển
theo "quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là

sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều
trường hợp, chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên, nhưng
trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không
thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách
độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều.
Thứ ba, "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất yếu.
Con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Vì vậy,
mặc dù đã được trang bị chủ nghĩa Mác -Lênin, đặc biệt là phép biện chứng
duy vật, nhưng ở một số nhà quản lý của chúng ta ít nhiều vẫn mắc bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này, trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào
tình trạng mò mẫm, sự vụ,tuỳ tiện, tự ti, không nhất quán trong việc thi hành
các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và trì trệ
bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn
khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
2. Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động thực tiễn
2.1. Trong cách mạng XHCN ở Việt Nam
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất,
trong đó cốt lõi là tôn trọng quy luật, bởi lẽ thế giới vật chất tồn tại, vận động,
biến đổi, phát triển tuân theo quy luật khách quan. Nguyên tắc tôn trọng
khách quan đòi hỏi con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện

cho hoạt động của mình. Một số yêu cầu khi vận dụng nguyên tắc tôn trọng
khách quan vào Cách mạng Việt Nam:
* Đường lối, chủ trương, chính sách phải luôn xuất phát từ thực tế,
phản ánh đúng nhu cầu và tính tất yếu của đời sống trong từng giai đoạn
cụ thể thì mới có khả năng biến thành hiện thực.
Thể hiện trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước đây,
chúng ta tôn trọng khách quan qua việc xác định điều kiện (tình thế cách
mạng) tất yếu diễn ra cuộc cách mạng XHCN mà từ đó có đường lối, chủ
trương, chính sách phù hợp. Với điều kiện khách quan là: Sự chín muồi của
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; của mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội dẫn tới những đảo lộn trong nền tảng kinh tế - xã hội, tạo nên
một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc khiến cho việc thay thế thể chế chính
trị đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn là một thực tế không thể đảo
ngược. Lênin đã nêu lên 3 đặc trưng chủ yếu của tình thế cách mạng khi đó:
Thứ nhất, Giai cấp thống trị lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị, bộ
máy nhà nước của chúng suy yếu nghiêm trọng.
Thứ hai, Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở
nên nặng nề hơn mức bình thường.
Thứ ba, Tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt
Như vậy, chỉ có cuộc cách mạng XHCN mới giải quyết được một cách
căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, thay thế nó bằng một xã hội mới cao
hơn - xã hội CSCN. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này diễn ra như thế nào còn

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
phụ thuộc vào điều kiện khách quan đó là: Giai cấp công nhân có sứ mệnh

lịch sử xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên CNCS, là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Thông qua chính Đảng của mình là Đảng cộng sản Việt Nam
được lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp rèn luyện và dẫn dắt, hơn 70 năm qua,
giai cấp công nhân Việt Nam đã đảm nhận và thực hiện xuất sắc vai trò tiên
phong và lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân là lực
lượng nòng cốt trong liên minh công - nông - trí thức, cùng với các tầng lớp
nhân dân lao động anh dũng đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, giành được
thắng lợi vĩ đại trong cách mạng dân chủ nhân dân và những thành tựu rất
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện nổi bật nhất là
trong công cuộc đổi mới đất nước.
Ngoài ra, Việt Nam đã phát huy sáng tạo để tự vũ trang cho mình một
hệ thống lý luận làm nền tảng cho sự thắng lợi vĩ đại của những cuộc đấu
tranh ác liệt: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945 - 1954 và kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt,
Trên cơ sở khách quan chúng ta xác định phương pháp biện chứng duy vật
đang là chiếc kim chỉ nam dẫn đường cho người cộng sản Việt Nam, cho
nhân dân Việt Nam nhận thức tất yếu một cách tỉnh táo, nhận thức các hiện
tượng của hiện thực trong phát triển và trong sự tự vận động của chúng để
bước đi trên những chặng đường cách mạng mới một cách vững vàng, tự tin
và thích nghi nhanh với những biến đổi của thế giới trong mấy thập kỷ gần
đây; khi mà hầu hết các nước vốn thuộc phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ - sụp đổ
tới cả những nơi vốn được xem là chiếc nôi của chủ nghĩa cộng sản như Liên
Xô. Một điều hết sức thú vị là từ cuối năm 2006 – thời điểm nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với duy nhất một chính Đảng lãnh đạo là Đảng
Cộng sản Việt Nam theo con đường lý luận - triết học Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh – đã gia nhập WTO và vừa là chủ tịch vừa là nước chủ
nhà tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006; cùng hàng loạt những thắng lợi
mang tính vĩ mô trong 3 - 4 năm tiếp theo cho đến tận cuối thập kỷ thứ nhất

Nhóm 5


Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
của thế kỷ 21 này đã chứng tỏ nhận thức đúng các quy luật khách quan và dựa
vào đó để có hoạt động phù hợp sẽ đem lại thành công.
* Ngược lại, nếu đường lối, chủ trưởng, chính sách thoát li đời sống,
áp đặt chủ quan thì sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, hành động bất
chấp quy luật khách quan, dẫn tới thất bại trong thực tiễn cách mạng
XHCN Việt Nam.
* Khi có đường lối, chủ trương, chính sách đúng, phải tổ chức được
lực lượng vật chất để thực hiện có hiệu quả.
Tư tưởng tự bản thân nó không thể trở thành hiện thực mà phải thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Khi lịch sử đặt ra cho con người
những nhiệm vụ phải giải quyết thì đồng thời cũng sản sinh ra những điều
kiện vật chất để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử đó. Cho nên, để hiện thực
hoá đường lối, chủ trương, chính sách, con người phải tìm tòi, huy động, tổ
chức được những yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất có đủ sức mạnh để
thực hiện.
Trong thời kỳ kháng chiến trước đây, nhờ huy động và tổ chức được
sức mạnh mỗi người, mỗi vùng và sức mạnh tổng hợp của cả nước kết hợp
với sức mạnh thời đại, chúng ta đã tạo nên sức mạnh vật chất khổng lồ của
chiến tranh nhân dân, đánh bại phát xít Nhật, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm
lược có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn chúng ta nhiều lần.
2.2.Trong quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam
* Vận dụng nguyên tắc khách quan vào quá trình CNH – HĐH ở
Việt Nam cũng xuất phát từ việc tôn trọng những điều kiện tất yếu tiến
hành CNH – HĐH.
Đối với Việt Nam - một nước hiện vẫn còn ở tình trạng của nước

nghèo, chưa phát triển thì CNH – HĐH được xác định là con đường phát triển
tất yếu, khách quan để đi lên mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh".

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
- Điều kiện trong nước:
• Mục tiêu kinh tế - xã hội
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó (đặc biệt là mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô
cũ), nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và
dịch vụ quốc doanh được phát triển cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ
chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và
tập thể giữ vai trò quyết định, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở
cho phát triển. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta cùng sự giúp đỡ tận tình
của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát
huy được những tính ưu việt trong thời kỳ đầu xây dựng lại đất nước. Từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế
hoạch hóa, ta đã tập trung được một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở
vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền
vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền
biến tích cực về kinh tế, xã hội. Nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù
hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp trong bối cảnh đất nước khi đó là
vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc, vừa góp sức cùng Miền Nam chiến đấu.

Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện
trạng kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả
ba loại hình:
+ Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+ Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+ Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta
vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên
phạm vi cả nước. Đó là sự áp đặt rất bất lợi.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Thực trạng kinh tế - xã hội, nhất là lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở
trình độ thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ, chưa
vững chắc, đời sống nhân dân chưa cao, trong khi tiềm năng còn rất lớn chưa
khai thác tốt về lao động, tài nguyên và điều kiện quốc tế thuận lợi. Trước
tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo
lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những
chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả
năng của nền kinh tế, như: năm 1975 phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1
triệu tấn cá biển, 1 triệu hecta khai hoang, 1 triệu 200 hecta rừng mới trồng…
10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu
kinh tế chỉ đạt khoảng 50 - 60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm
chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%,
nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra được đầy
đủ những nguyên nhân đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và

cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về
kinh tế. Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã
phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra
các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế,
thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu… Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ
kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại
hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm
phát, thiếu việc làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng…
Đặc biệt Đại hội cũng xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân
về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi
mới trong lĩnh vực chính trị”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã
đánh giá cao trong quá trình khắc phục khủng hoảng kinh tế, khắc phục nhiều

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
tồn tại trong 3 năm qua: lạm phát được đẩy lùi, tổng sản phẩm GDP tăng bình
quân 8,2% so với mức đề ra năm 1991-1995 là 5,5 - 5,6%, sản xuất nông
nghiệp tương đối toàn diện sản lượng 26%, so với 5 năm trước đó tạo điều
kiện thuận lợi để chính sách phát triển nhiều ngành. Vấn đề lương thực giải
quyết tốt, quan hệ đối ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hoá, thị trường xuất
nhập khẩu mở rộng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, tăng kim ngạch
xuất nhập khẩu là 17 tỷ USD so kế hoạch là 12 - 15 tỷ USD. Khoa học công
nghệ có bước phát triển lớn phục vụ cho việc thực hiện đường lối chính sách

của Đảng, lĩnh vực văn hoá tinh thần được nâng cao, đời sống nhân dân được
cải thiện, quốc phòng an ninh được giữ vững. Vận dụng nguyên tắc khách
quan, Đảng ta vạch ra những yếu kém về kinh tế như “nền kinh tế vẫn còn
mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghệ nhỏ bé, kết cấu hạ tầng, kinh
tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả kém”. Sau Đại
hội Trung ương Đảng ra nghị quyết phát triển công nghiệp mới đến 2000 theo
hướng CNH – HĐH. Con đường CNH – HĐH ở nước ta vừa có những bước
đi tuần tự từ thấp đến cao vừa có những rút ngắn so các nước đi trước bằng
cách tranh thủ những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước đi trước.
Hiện nay, chiến lược của nước ta làGDP năm 2010 tăng gấp đôi năm 2000,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp
và tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động
nông nghiệp xuống dưới 50% lực lượng lao động.
• Yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hóa
Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, sự nghiệp CNH- HĐH
đất nước ở nước ta con do yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết
định. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thì sản phẩm được
sản xuất ra đòi hỏi phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường , có khả năng
giữ vững và mở rộng thị trường… Do vậy, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
phải được sản xuất dựa trên một nền tảng vững chắc của cơ sơ vât chất - kỹ

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
thuật hiên đại với cơ cấu ngành nghề linh hoạt, hợp lý ,chi phí trên một đơn vị
sản phẩm ở mức thấp nhất. Phân công lao dộng ở trình dộ cao, kỹ thuật hiện

đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng thu lợi nhuận
lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế và tham gia vào quan hệ kinh tế
quốc tế ở mức độ cao hơn.Từ đó, góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển hơn nữa.
• Mục tiêu củng cố an ninh quốc phòng:
Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH – HĐH ở nước
ta còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc
gia chi phối.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự
nghiệp bảo vệ, giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình
phức tạp của bầu không khí chính trị hiện nay, các lực lượng phản động trong
nước và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát
triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta nói chung.
Vì vậy chúng ta luôn phải tăng cường, củng cố, hiện đại hoá lực lượng quốc
phòng để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng bảo vệ vững chắc tổ
quốc XHCN, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Hiện đại hoá quốc phòng, tăng sức mạnh vật chất - kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang, dành thế chủ động trong mọi biến động chính trị.. chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở một nền công nghiệp hiện đại và một nền kinh tế phát triển
mạnh vững chắc.
- Điều kiện quốc tế:
Xu thế cạnh tranh toàn cầu cũng đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với
con đường CNH – HĐH ở nước ta. Với sự tiến bộ như vũ bão của các ngành
khoa học công nghệ, nếu nước ta không nhanh chóng bắt tay vào thực hiện
CNH – HĐH thì sẽ dẫn đến nguy cơ bị tụt hậu rất nhiều so với không chỉ các
nước phát triển mà ngay cả các nước trong khu vực.

Nhóm 5

Lớp : 18G



Tiểu luận Triết học
Như vậy, xác định đưa đất nước đi theo con đường CNH – HĐH
cũng là tuân theo quy luật khách quan. Đây không chỉ là công cuộc xây
dựng kinh tế mà còn là quá trình biến đổi sâu sắc ở tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội (chính trị, khoa học…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng
thái mới về chất.
* Đồng thời với tôn trọng khách quan là phát huy tính năng động
chủ quan với nội dung sau:
- Coi trọng, đề cao tri thức khoa học
Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia cũng như mỗi con người nếu thiếu tài
nguyên trí tuệ thì sẽ mất ưu thế phát triển. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng
của khoa học đối với sự phát triển đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã
chủ trương tiến hành CNH – HĐH cần “giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”, “Phát triển mạnh, kết hợp chặt giữa
hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy
vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH – HĐH và phát triển
kinh tế tri thức”. Về giáo dục và đào tạo, Đảng ta chỉ rõ “Nền giáo dục Việt
Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân văn, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” nhằm “đào
tạo những con người toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và
nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đối với khoa học, Đảng chủ trương “Nhà
nước tập trung đầu tư vào chương trình nghiên cứu quốc gia, phấn đấu đạt
trình độ khu vực và thế giới; xây dựng tiềm lực khoa học và công nghiệp cho
một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao. Chú trọng công tác đào tạo, bổ
sung cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học”.
- Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào

quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng
hành động.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
* Mặt khác phải chống quan điểm duy ý chí:
V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan
của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí
áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý
chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói
chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng.
Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này " là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự
phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Để khắc
phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay
đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan,
trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh
mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách,
biện pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không
đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Nói cách khác,
việc tìm hiểu bản thân phạm trù "quy luật", lịch sử nhận thức nó, cũng như
những vấn đề hiện đang được đặt ra xung quanh phạm trù ấy là bước đi không
thể thiếu được trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Và
điều đó càng được khẳng định thông qua sai lầm của Đảng ta trong giai đoạn
đầu xây dựng đất nước.

Trong nhận thức cũng như trong hành động thời kỳ này, chúng ta
chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời
gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào
tình hình nước ta. Năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản
vẫn chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính
sách, thể chế lỗi thời chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn
nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên
xuống dưới. Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế
mới, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả
về lý luận và thực tiễn.
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã phạm sai lầm
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
còn thấp kém nhưng nôn nóng đốt cháy giai đoạn vì vậy đã phải trả giá cho
những sai lầm ấy; cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, nóng vội muốn xoá bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh Đại hội VII đã chỉ rõ: "Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan". Căn
bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả
năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển
kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ
bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi
mới, chúng ta đã không có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế

thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm
nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng
duy vật. Hậu quả là chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các nguồn lực dẫn
tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước:
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường
bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm
trọng cho nền kinh tế.
- Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế chỉ là trên lý
thuyết, giấy tờ.
- Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu
trong nước.
- Ngân sách thâm hụt nặng nề, vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng
tăng và không có khả năng cho chi trả.

Nhóm 5

Lớp : 18G


×