Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quy Chế Công Chứng Viên Theo Pháp Luật Việt Nam 6831424.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.91 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU HỒNG SƠN

QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU HỒNG SƠN

QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số :
60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Huy Cƣơng


Hà Nội - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã hồn thành tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

CHU HỒNG SƠN

3


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG 7
CHỨNG VIÊN VÀ QUY CHẾ CƠNG CHỨNG VIÊN
1.1

Tổng quan về Cơng chứng viên và Quy chế công chứng viên

7

1.1.1

Khái niệm về "Công chứng viên" và "Quy chế cơng chứng viên"

7

1.1.2

Lý luận chung.

8

Q trình hình thành và phát triển cơng chứng viên và quy 18
1.2

chế cơng chứng viên
Sơ lược q trình hình thành và phát triển quy chế công chứng 18

1.2.1.


viên tại một số nước trên thế giới
Quá trình hình thành và phát triển công chứng viên trong các 38

1.2.2

chế độ cũ ở Việt Nam
Chƣơng 2: QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO PHÁP 42
LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Quy định của pháp luật về cơng chứng viên trƣớc khi có Luật 42

2.1

Cơng chứng
Quy định của pháp luật về công chứng viên trong giai đoạn 1945 42

2.1.1

- 1975
Quy định của pháp luật về công chứng viên sau năm 1976 (của 47

2.1.2

nước CHXHCN Việt Nam)
Nhận xét tổng quát về các đặc điểm nổi bật của quy chế cơng 58

2.1.3

chứng viên Việt Nam trước khi có Luật Công chứng đầu tiên
(2006)


4


2.2.

Quy chế cơng chứng viên sau khi có Luật Cơng chứng (2006)

60

Một số điểm nổi bật của quy chế công chứng viên từ khi có Luật 60
2.2.1

Cơng chứng 2006 đến trước khi có Luật Cơng chứng hiện hành
(2014)
Quy chế cơng chứng viên từ khi có Luật Cơng chứng 2014 (tức 70

2.2.2

quy chế cơng chứng viên hiện hành).
Chƣơng 3: HỒN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 90
VỀ QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN
Quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng 90

3.1.
3.2.

viên
Kiến nghị về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng viên.


92

Kiến nghị quy định về việc tham gia tổ chức xã hội nghề 93
3.3.
3.4.

nghiệp của công chứng viên.
Kiến nghị về công tác quản lý công chứng viên

93

KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

106

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định cơng chứng viên là một chế định quan trọng đã xuất hiện và phát
triển từ khá lâu đời trên thế giới, nhất là tại các quốc gia có nền văn minh và hệ
thống pháp luật phát triển, nó ln song hành với các chế định pháp luật khác
trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam tên gọi chính thức phổ
biến cho chức danh tư pháp này mới chỉ có từ hai thập kỷ gần đây (khoảng
những năm 1989, 1990) trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng thực ra,

công việc của một công chứng viên đã tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc tại nước
ta, nhưng với một tên gọi khác và một chức năng không hồn tồn giống như
chức năng của cơng chứng viên hiện tại. Theo pháp luật của đa số các quốc gia
có chế định này, nhất là các quốc gia theo hệ thống luật La tinh (hệ thống luật
thiên về sử dụng các văn bản pháp luật) thì chế định này thường được quy định
nhiều hơn và phát triển hơn so với các quốc gia theo hệ thống luật Commom
Law (luật Anh - Mỹ). Việt Nam ta cũng là quốc gia có hệ thống luật dựa trên thể
thức văn bản pháp luật là chủ yếu nên chế định công chứng và công chứng viên
vì thế trở nên rất quan trọng và cần thiết, ngày càng có xu thế phát triển mạnh.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực khoa học pháp lý của nước ta, chế định cơng chứng
viên lại rất ít có những cơng trình nghiên cứu, phân tích sâu và tồn diện về chế
định này. Do vậy trên hoạt động thực tế hành nghề công chứng tại nước ta, sự
thiếu hụt việc nghiên cứu này đã bị trả giá khá nhiều trong quá trình thực thi
pháp luật về cơng chứng, chứng thực của các công chứng viên và các tổ chức
hành nghề công chứng, gây ra những hậu quả nặng nề về uy tín, làm suy giảm
nghiêm trọng sự tin tưởng của cơng dân vào pháp luật cơng chứng nói riêng và
cả hệ thống pháp luật nói chung. Và đương nhiên, những sai lầm đó đã kéo theo
những thiệt hại về kinh tế là vơ cùng lớn (một ví dụ điển hình như vụ việc công
chứng viên vi phạm quy chế trong vụ án EPCO Minh Phụng trong những năm
2000, 2001 đã làm thiệt hại kinh tế với con số khổng lồ là hàng nghìn tỷ đồng

6


vào thời điểm đó.......). Như mỗi chúng ta đều đã biết, với mỗi quốc gia thì bộ
luật dân sự bao giờ cũng là một trong những bộ luật đòi hỏi sự đầu tư nhiều thời
gian và công sức nhất để xây dựng và hồn thiện, do đó cũng có thể coi bộ luật
dân sự là bộ luật quan trọng nhất trong hệ thống luật pháp, nó có thể biểu hiện
được trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như trình độ pháp lý của những nhà
xây dựng luật pháp của quốc gia đó. Và trong việc thực thi pháp luật dân sự,

cùng với những chế định thẩm phán, luật sư, ... thì chế định cơng chứng viên thật
sự có tầm quan trọng không kém. Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam, sự quan
tâm đến chế định công chứng viên của những nhà xây dựng pháp luật và trong
những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của chúng ta hiện nay còn chưa được
thoả đáng.
Trong thời kỳ cả nước đang tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cải cách tư pháp, kinh tế đang phát triển rất mạnh và nhanh theo nền kinh
tế thị trường, đẩy mạnh xã hội hố nhiều dịch vụ cơng (trong đó có lĩnh vực cơng
chứng) thì việc củng cố, hồn thiện chế định cơng chứng nói chung và quy chế
cơng chứng viên nói riêng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật hiện hành cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, quy chế công chứng viên
của ta như đã nói ở trên thì lại khá mới mẻ, khơng nhiều các cơng trình, khơng
nhiều các đề tài khoa học đi sâu nghiên cứu về chế định này, trong khi hầu hết
người dân trong xã hội nói chung và thậm chí ngay cả những người quản lý,
những cơ quan, tổ chức nằm trong bộ máy nhà nước và bộ máy tư pháp của
chúng ta cịn chưa hồn tồn hiểu rõ, chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm, chức
năng, nhiệm vụ của chức danh tư pháp này.
Với những trình bày như trên, việc nghiên cứu đề tài khoa học về quy
chế công chứng viên, nhằm làm rõ bản chất pháp lý, tính khoa học, tính hệ
thống và tầm quan trọng của vấn đề, để từ đó ta sẽ thấy được việc xây dựng
và hồn thiện quy chế cơng chứng viên ở Việt Nam ta hiện nay là một vấn đề
khoa học cần thiết và cấp bách, đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống pháp

7


luật nói riêng và đời sống xã hội nói chung của Việt Nam ta hiện nay cũng
như trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nói đến đề tài cơng chứng viên (mà rộng ra chính là quy chế công chứng

viên) theo một cách nhỏ lẻ, tiểu tiết thì đã có khá nhiểu bài báo, tác phẩm pháp
luật, các bài phân tích, các cuộc toạ đàm, ... và thậm chí cịn có đã có khá nhiều
văn bản quy phạm pháp luật như sắc lệnh, nghị định, thông tư và gần đây nhất là
Luật công chứng năm 2006 và Luật công chứng năm 2014 đề cập đến vấn đề
này. Tuy nhiên, nhưng văn bản đó đều mang tính rời rạc, mơ tả hiện tượng, biểu
hiện bên ngồi hoặc chỉ mang tính quy định chung chung về vấn đề hoặc có phân
tích thì cũng chỉ dừng lại phân tích sâu theo một khía cạnh nhỏ nào đó của chức
danh công chứng viên theo quy định của pháp luật hiện hành vào chính thời
điểm đó chứ khơng mang tính khoa học pháp lý tồn diện, khơng thể hiện được
tính lý luận xuyên suốt của vấn đề.
Thực tế cho đến nay, dù ít dù nhiều cũng đã có những cơng trình khoa
học, những điều luật có liên quan đến vấn đề này, bởi xuất phát từ đời sống thực
tiễn cũng như xuất phát từ yêu cầu cấu thành các bộ phận trong hệ thống pháp
luật thì chế định cơng chứng viên ln tồn tại song hành với chế định cơng
chứng nói riêng và các chế định về các chức danh tư pháp khác trong hệ thống
pháp luật nói chung. Nhất là trong khoảng thời gian 15 năm trở lại đây, khi mà
các giao dịch dân sự trong xã hội tăng cao đột biến, kéo theo nó là nhu cầu cơng
chứng dần dần trở nên rất cấp thiết thì các đề tài khoa học về công chứng và
công chứng viên đã xuất hiện nhiều hơn, một số các cơng trình này cũng đã phân
tích sâu một khía cạnh nào đó về cơng chứng viên và quy chế công chứng viên
nhưng thường chỉ một vài khía cạnh đó thơi. Một số các văn bản pháp luật và các
cơng trình nghiên cứu, tác phẩm, bài viết pháp luật đã có đề cập đến một cách
khá cụ thể một số quy định liên quan đến quy chế công chứng viên, đặc biệt và
trước tiên nhất có thể dẫn chiếu ra là các điều luật từ Điều 13 đến Điều 22 trong
Luật Công chứng năm 2006, sau đó là tại Chương II - từ Điều 8 đến Điều 27 của

8


Luật Công chứng năm 2014 đã chỉ ra chi tiết các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm,

miễn nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của cơng chứng viên. Ngồi ra, cũng có
nhiều tác phẩm, bài viết đăng trên các diễn đàn, tạp chí pháp luật như trong bài
viết "Về vai trị của cơng chứng viên" của tác giả Dương Khánh (2000) (tạp chí
"Dân chủ và pháp luật"), hay tác phẩm "Thẩm quyền thực hiện công chứng"
cũng của tác giả Dương Khánh (2001) (Toà án nhân dân), hoặc tác phẩm "Hoàn
thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong hoạt động công chứng" của Tiến
sỹ Tuấn Đạo Thanh (Nhà xuất bản Tư pháp 2013), ... nhưng các tác phẩm này
đều phân tích rộng hơn về tồn bộ chế định cơng chứng, nếu có đề cập đến quy
định về cơng chứng viên thì cũng khơng phân tích nhiều hoặc chỉ dừng lại phân
tích, nghiên cứu về một khía cạnh riêng biệt nào đó về cơng chứng viên, hoặc về
một phần quy chế cơng chứng viên tại thời điểm tồn bộ các công chứng viên là
viên chức nhà nước nằm trong chế định công chứng nhà nước.
Sau khi tham khảo và nghiên cứu các tài liệu nói trên cũng như nhiều tác
phẩm và văn bản pháp luật khác, chúng ta vẫn thấy thiếu những sự phân tích
khoa học, nhất là sự "kết nối" một cách khoa học về lý luận giữa các cơng trình,
tác phẩm nói trên trên để tạo nên một lý luận chung có tính thuyết phục về chức
danh cơng chứng viên cũng như về quy chế công chứng viên. Do vậy, với mong
muốn thực hiện được công việc một cách tồn diện nhất, khoa học nhất và mang
tính khả thi cao nhât có thể, luận văn này sẽ cố gắng nghiên cứu một cách tổng
thể hệ thống lý luận cũng như tồn bộ tình hình thực tiễn có liên quan để làm rõ
hơn lý luận khoa học của vấn đề, qua đó có thể lý giải và bình luận về cơ sở pháp
lý về quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam cho đến thời điểm hiện
tại. Đồng thời, từ đó cũng xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất, một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quy chế công chứng viên hiện tại, cố
gắng phục những bất cập, những khiếm khuyết để quy chế cơng chứng viên được
ngày càng hồn chỉnh, mang tính khoa học được cao hơn, hồ kịp vào xu thế
chung hội nhập quốc tế với công chứng viên của các nước tiên tiến trên thế giới.

9



3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Khi nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, tác giả xác định mục đích
chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách chi tiết và có hệ thống các
quy định pháp luật Việt Nam từ trước đến nay về chức danh công chứng viên và
quy chế công chứng viên, đánh giá các điểm bất cập phát sinh trên thực tế có thể
gây ra những sai lầm, những khiểm khuyết, thiếu sót trong quy định về cơng
chứng viên cũng như quy chế cơng chứng viên, điều có thể gây ra những sai
phạm, những thiệt hại có thể vơ cùng lớn cho các công dân, tổ chức trong xã hội
cũng như cho tồn bộ nền kinh tế xã hội, qua đó đóng góp một số ý kiến nhằm
hồn thiện các quy định về quy chế công chứng viên, cố gắng khắc phục những
khiếm khuyết, bất cập nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy chế về công chứng viên theo hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung (có tham khảo quy chế công chứng viên
một số nước trên thế giới) nhưng trọng tâm vẫn là quy chế công chứng viên theo
pháp luật Việt Nam hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tất cả các quy định về quy
chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và theo các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, trong đó có phân tích về mặt luận, dẫn
chiếu các quy định trong các văn bản pháp luật và sự thi hành trên thực tiễn (có
cả một số ví dụ về quy định của pháp luật nước ngoài) để làm vững chắc thêm về
lý luận, phong phú thêm về thực tiễn cho đề tài nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời luận văn còn kế
thừa các cơng trình nghiên cứu của tập thể và các cá nhân liên quan đến đề tài.


10


5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau: khảo sát thực
tiễn, thống kê xã hội học, phân tích, so sánh, tổng hợp, nhận xét, đưa ra kết luận.

11


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ QUY CHẾ CƠNG CHỨNG VIÊN
1.1. Tổng quan về Cơng chứng viên và Quy chế công chứng viên
1.1.1. Khái niệm về "Công chứng viên" và "Quy chế công chứng viên"
Công chứng viên là một chức danh tư pháp trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Cùng với các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, công tố viên
(hay kiểm sát viên), chấp hành viên, luật sư, ... thì công chứng viên là một chức
danh tư pháp chỉ đến những người có trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật và
trình độ nghiệp vụ nhất định để đáp ứng được những công việc thực thi pháp luật
trong một lĩnh vực pháp luật nhất định - lĩnh vực công chứng, được Nhà nước
đương thời cho phép hành nghề, thừa nhận hoặc quyết định bổ nhiệm bằng
quyền lực của mình. Theo pháp luật hiện tại của Việt Nam ta và của nhiều nước
trên thế giới thì Cơng chứng viên là những nhà chun mơn về pháp luật có đủ
tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được bổ nhiệm để hành nghề cơng
chứng. Cịn cơng chứng là hành động cơng chứng viên chứng nhận tính chất xác
thực, hợp pháp của văn bản (hợp đồng, giao dịch) do người yêu cầu công chứng
đề nghị hoặc do pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên,

trên thực tế, khái niệm "công chứng viên" khơng có định nghĩa chung trong tất
cả các quốc gia vì hệ thống pháp luật và phạm vi hoạt động của công chứng viên
tại mỗi quốc gia đều có sự khác nhau. Hơn nữa, khái niệm "cơng chứng viên"
của mỗi quốc gia cũng có thể thay đổi theo thời gian khi pháp luật tương ứng của
quốc gia đó thay đổi. Do vậy, mỗi khi được đề cập đến khái niệm "cơng chứng
viên" thì chúng ta buộc phải mơ tả theo quy định cụ thể của từng quốc gia hoặc
nhóm các quốc gia có hệ tư tưởng pháp luật tương ứng. Nhưng qua nghiên cứu,
tựu chung, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm khá tổng quát như sau: "Công
chứng viên là một chức danh tư pháp dành cho những người có kiến thức chun
mơn đủ rộng và đủ sâu về pháp luật để đảm đương được việc chứng nhận hoặc

12


tư vấn về tính chân thực, tính phù hợp với pháp luật và có thể thêm tính phù hợp
đạo đức xã hội của những giao dịch dân sự diễn ra trong lịng xã hội của một
quốc gia, hoặc có thể thêm chức năng xác nhận tính hợp pháp, chân thực của một
số loại văn bản được phép lưu hành trong lịng xã hội đó".
Cịn quy chế cơng chứng viên, theo khái niệm "quy chế" trong từ điển (ví
dụ, theo Từ điển Tiếng Việt do NXB Văn hố - Thơng tin xuất bản năm 2012:
"Quy chế là những điều định ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà
làm"), kết hợp với tính quy định của pháp luật của từng quốc gia thì có thể đưa
ra khái niệm như sau: "Quy chế công chứng viên là tất cả những quy định của
pháp luật và những quy ước khác của xã hội về công chứng viên và tất cả những
vấn đề liên quan đến công chứng viên của một quốc gia".
Như vậy có thể thấy, khi đề cập đến bất kỳ vấn đề gì liên quan đến cơng
chứng viên thì đương nhiên vơ hình chung cũng đã đề cập đến quy chế cơng
chứng viên của quốc gia đó.
Trên thực tế, cơng chứng viên là chức danh tư pháp hoạt động thiên về
lĩnh vực pháp luật dân sự, thương mại, được giành cho những người có đủ trình

độ về pháp luật, về sức khoẻ, về đạo đức và sự tự tin để tự mình có thể đứng ra
"chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp, tính khơng trái đạo đức xã hội" của
một hợp đồng, một giao dịch dân sự trong xã hội bằng các văn bản công chứng,
hoặc thuần tuý là chứng nhận tính chính xác, tính chân thực của một văn bản sao
so với văn bản chính, hoặc là tính chính xác, tính tự nguyện của một người cơng
dân muốn được chứng thực chữ ký của bản thân mình nhằm thể hiện ý chí của
mình trong một văn bản, giấy tờ nào đó để lưu hành trong xã hội (tham khảo
Luật Công chứng một số nước và Điều 2, khoản 1, Luật Công chứng năm 2014
của CHXHCN Việt Nam). Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, trên thế giới có
những quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật của
quốc gia mình trên những hệ quan điểm pháp lý khác nhau (điển hình nhất là
giữa nhóm các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật viết thành văn và nhóm
các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật dựa trên hệ thống án lệ) nên xảy ra

13


một thực tế là có sự quy định khác nhau về vị trí pháp lý, tính chất và mức độ
quyền hạn thực thi pháp luật của các chức danh tư pháp tại mỗi quốc gia này,
trong đó có chức danh cơng chứng viên. Ở Việt Nam ta thì sự khác biệt, sự thay đổi
cịn có thể nhiều hơn so với các quốc gia khác do đặc điểm lịch sử có nhiều biến
động dẫn đến đặc điểm có nhiều sự thay đổi về các bộ luật, các luật qua các thời kỳ,
kèm theo đó là khả năng và trình độ xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật của ta
cịn chưa theo kịp với các quốc gia có lịch sử xây dựng pháp luật lâu đời khác trên
thế giới. Cũng trong bối cảnh chung đó nên các quy định về quy chế chức danh
công chứng viên theo pháp luật của nước ta cho đến nay vẫn còn tồn tại khá nhiều
vấn đề khiếm khuyết, những "lỗ hổng" khá sâu và khá rộng cần phải sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện.
1.1.2. Lý luận chung về "Công chứng viên" và "Quy chế công chứng viên"
Kết hợp với khái niệm "công chứng viên" và "quy chế công chứng viên"

đã nêu ở phần trên, chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về nhu cầu thực tiễn xã hội,
quá trình phát triển khoa pháp lý trên thế giới từ xa xưa đến ngày nay liên quan
đến cơng chứng viên để qua đó rút ra những lý luận chung nhất về công chứng
viên và quy chế công chứng viên.
Công chứng viên (theo Từ điển Việt - Anh của nhiều nhà xuất bản có tên
Tiếng Anh là "Notary" hoặc "Notary public"). Theo nhiều tài liệu của nhiều tác
giả trên thế giới thì Cơng chứng là một nghề xuất hiện từ rất xưa. Cách đây hàng
ngàn năm ở Hy Lạp, Ai Cập, và đặc biệt là ở La Mã đã có những người làm
những cơng việc "dịch vụ văn tự" - đó có thể được coi là hình thức "công chứng"
đầu tiên trong lịch sử, và người thực hiện "dịch vụ văn tự" đó có thể được hiểu
có vai trị gần giống như là một "cơng chứng viên" trong pháp luật hiện nay. Tuy
nhiên, trên thực tế nghề công chứng chỉ bắt đầu phát triển tương đối mạnh vào
khoảng thế kỷ XIV, XV. Trong thời gian này đã xuất hiện những việc chứng cần
phải nhận bản sao giấy tờ, nhưng nhiều nhất, chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là
việc xuất hiện rất nhiều các nhu cầu về chứng nhận các hợp đồng, giao dịch do
các quan hệ trong xã hội đặt ra. Thuật ngữ "Notariat" (trong tiếng Pháp, tiếng

14


Đức,...) hay "Notary" (trong tiếng Anh), đều có gốc Latinh là "Notarius" có
nghĩa là "ghi chép". Và cho đến hiện tại, như chúng ta đều biết, nghề cơng chứng
và tồn bộ hành vi của công chứng viên cũng đều chỉ để sản sinh ra một "sản
phẩm" duy nhất được xã hội u cầu và cơng nhận - đó là văn bản công chứng một sản phẩm bằng văn viết. Thực chất hơn nữa, các văn bản cơng chứng có giá
trị pháp lý này do các công chứng viên trên khắp thế giới từ trước đến nay, bằng
kiến thức pháp luật của mình đã lập ra để phục vụ nhu cầu của các bên tham gia
giao dịch, suy cho cùng, cũng đều chỉ những sự "ghi chép" lại với một cách có
"trật tự" các hành vi, các nhu cầu thoả thuận dân sự mà các bên dân sự giao kết
với nhau đã "nhờ" công chứng viên thực hiện việc chứng nhận "giúp" về tính rõ
ràng về quyền và nghĩa vụ, tính tự nguyện, tính dứt khốt, tính trung thực và tính

hợp pháp của những giao dịch dân sự đó, hay đơn giản chỉ là tính hợp pháp của
những văn bản do các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội ban hành nhưng được
các bên dân sự yêu cầu.
Như vậy, có thể thấy ngay một điều hiển nhiên là, công chứng viên phải là
những người nắm rất vững về hệ thống pháp luật nói chung, trong đó đặc biệt là
phải rất tinh thông về pháp luật thương mại và rộng hơn là pháp luật dân sự.
Đồng thời cũng phải là những người thật sự trung thực, vô tư, khách quan đối
với mọi đối tượng giao dịch, chủ thể giao dịch, mọi quan hệ giao dịch được u
cầu cơng chứng. Đây chính là đòi hỏi đầu tiên và cơ bản nhất của quy chế về
công chứng viên mà cả các công chứng viên từ trước đến nay trên toàn thế giới
phải tuân theo, dù ở trong bất cứ hệ thống pháp luật nào, thậm chí ở cả trong các
hệ thống pháp luật khác biệt nhau hoàn toàn về quan điểm pháp lý cũng như
cách thức tổ chức hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Từ sự địi hỏi khách quan về các phẩm chất cần thiết của công chứng viên
như vậy, nên ở bất cứ quốc gia nào, nhất là các quốc gia có lịch sử phát triển
pháp luật lâu đời thì quy chế về công chứng viên luôn luôn được pháp luật đặc
biệt coi trọng. Trên thực tế, trong bất cứ một hệ thống pháp luật của quốc gia nào
có quy định về chế định về cơng chứng thì hành vi công chứng của công chứng

15


viên bao giờ cũng là hành vi "khởi đầu" cho một loạt các hành vi của những
người thừa hành pháp luật khác, mang đến tính hợp pháp cho các giao dịch dân
sự mà pháp luật nước đó quy định. Đồng thời, hành vi của công chứng viên cũng
nhằm tới một mục đích rất quan trọng khác, đó là bảo đảm cho việc tránh xa
những tranh chấp, những hậu quả pháp lý đáng tiếc, những thiệt hại vật chất mà
các giao dịch dân sự đó có thể mang lại, tức là hành vi của cơng chứng viên sẽ
nhằm mang lại tính an toàn về pháp lý, an toàn về mặt tài sản cho giao dịch dân
sự cũng như cho các bên tham gia giao dịch dân sự. Do đó, theo suy luận lơ gich

về mặt pháp luật, cơng chứng viên có một vị trí pháp lý giống như một "thẩm
phán phịng ngừa". Tức là những người phải "đi tiên phong" trong việc ngăn
ngừa trước những sự vi phạm pháp luật có thể xảy ra, ngăn ngừa những hậu quả
pháp lý và hậu quả tài sản đáng tiếc có thể xảy ra trong tương lai do các quan hệ
giao dịch dân sự mang lại. Hơn thế nữa, khó khăn hơn, là cơng chứng viên phải
quyết định xử lý việc công chứng công việc với một khoảng thời gian rất ngắn,
với một tâm thế hoàn toàn "bị động" do các bên yêu cầu cơng chứng đề ra khơng
hẹn trước, nên khơng có một sự chuẩn bị trước nào cả, trong khi đó những giao
dịch dân sự như tất cả chúng ta đều biết là nó ln phức tạp, mang đủ những tình
tiết tiềm ẩn những "góc khuất", những nguy cơ khó lường có thể gây ra những
hậu quả pháp lý, thiệt hại kinh tế vô cùng lớn cho cá nhân, tổ chức tham gia giao
dịch, thậm chí cho cả nền kinh tế quốc dân cũng như cho tồn xã hội.
Cũng chính vì vị trí pháp lý quan trọng, khá đặc biệt nói trên của công
chứng viên mà trên thế giới, tại nhiều quốc gia, họ đặc biệt coi trọng toàn bộ các
quy định liên quan đến chế định công chứng viên. Về mặt từ ngữ, toàn bộ các
quy định này, nếu theo từ điển Tiếng Việt thì có thể được gọi quy chế công
chứng viên. (Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do NXB Đà
Nẵng phát hành năm 2007, Trang 1260 do NXB Đà Nẵng phát hành năm 2007:
"Quy chế là những điều đã được quy định thành chế độ để mọi người theo đó mà
thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó", hay theo Từ điển Tiếng Việt

16


do NXB Văn hố - Thơng tin xuất bản năm 2012: "Quy chế là những điều định
ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà làm").
Trên thế giới, ngồi một số quốc gia trong quy chế của mình vẫn quy định
công chứng viên phải là viên chức nhà nước thì rất nhiều quốc gia chỉ coi cơng
chứng viên là những người hành nghề tự do nhưng họ lại đặt ra quy chế rất ngặt
nghèo về công chứng viên mà trước tiên phải kể đến là ngoài yêu cầu về chất

lượng thì chính Luật của quốc gia đó chí ít thì chính phủ của quốc gia đó sẽ quy
định cụ thể nhằm khống chế về số lượng công chứng viên trên từng khu vực lãnh
thổ của quốc gia mình dựa theo các tiêu chí về diện tích lãnh thổ, số lượng dân
cư và các chỉ số xã hội khác trên một vùng lãnh thổ nhất định. Chỉ điều này thôi
chúng ta cũng đã thấy quy chế công chứng viên ở các quốc gia đó là rất chặt chẽ
dù cho họ có thể là các quốc gia ln đi tiên phong trong các chế độ tự do kinh
doanh, tự do nhân quyền, tự do phát triển. Hướng tới điều này, các quốc gia đó
đã thể hiện là họ đã có rất nhiều kinh nghiệm và độ sâu sắc về kiến thức pháp
luật để bảo đảm cho quy chế công chứng viên của quốc gia mình ln ln có
được hiệu quả cao nhất, tính ổn định cao nhất và mang lại lợi ích nhiều nhất
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội nói chung. Bởi lẽ, với quy định như vậy,
ngồi việc yêu cầu cao về trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật của cơng chứng
viên, họ cịn bảo đảm được tính ổn định xã hội, tính cạnh tranh lành mạnh của
một trong những nghề luật rất nhạy cảm và quan trọng là nghề cơng chứng, từ đó
tạo ra một uy tín rất lớn cho nghề cơng chứng và trên hết là đóng góp vơ cùng to
lớn cho sự ổn định xã hội của một quốc gia hiện đại.
Tổng quan một số quy định cơ bản về công chứng viên trên thế giới:
Theo quá trình phát triển của pháp luật thế giới nói chung, mỗi quốc
gia, vùng lãnh thổ đều có cho mình những hệ thống pháp luật (luật lệ) riêng từ
những thời kỳ sơ khai (thời chiếm hữu nô lệ), đã biết bắt đầu xuất hiện những
người thực hiện việc công chứng nhưng với tên gọi khác chứ chưa có khái
niệm cơng chứng viên như bây giờ. Cho đến thời kỳ phong kiến ở một số
quốc gia giàu có, phát triển (ví dụ như ở Pháp) đã bắt đầu xuất hiện những

17


người hành nghề công chứng viên. Và từ thời kỳ đó đến nay, người hành nghề
tư pháp với chức danh công chứng viên đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia
trên khắp thế giới, hoặc do tự học hỏi, hoặc do được đào tạo bài bản, nhưng

những này (có thể dưới một tên gọi tương đương khác tuỳ theo từng vùng
miền, từng quốc gia và từng giai đoạn lịch sử) bao giờ cũng phải được nhà
nước đương thời (kể cả nhà nước phong kiến, hoặc nhà nước tư bản hay nhà
nước khác), hoặc một cơ quan, tổ chức, hay một cá nhân đại diện cho quyền
lực nhà nước này bổ nhiệm hoặc thừa nhận bằng một quyết định, một văn bản
mang tính quyền lực nhà nước, đánh dấu việc được nhà nước chính thức cho
phép hành nghề cơng chứng viên. Từ đó, các văn bản mà họ lập ra sẽ được
nhà nước đó, người dân và tồn xã hội đương thời của nước đó thừa nhận,
được thi hành như một văn bản pháp luật của nhà nước ban hành.
Nhưng cũng do từ lịch sử đến hiện đại, trên thế giới đã từng và hiện nay
vẫn tồn tại 3 hệ thống pháp luật (xuất phát từ 3 hệ quan điểm pháp luật khác
nhau) nên công chứng cũng tồn tại 3 hệ thống tương ứng với 3 hệ thống pháp
luật, đó là hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng AngloSacxon (Anh - Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Colectiviste).
Chúng ta sẽ điểm qua một số nét chính về quy chế cơng chứng viên trong các hệ
thống pháp này, ứng với việc viện dẫn quy chế công chứng viên của một số quốc
gia tương có hệ thống pháp luật tương ứng.
Tuy nhiên, dù nẳm ở trong hệ thống pháp luật nào, công chứng viên cũng
có những đặc trưng chính như sau:
Nét đặc trưng đầu tiên là, công chứng viên bao giờ cũng là cá nhân một
công dân (hoặc một viên chức công) được Nhà nước đương thời bổ nhiệm để
chuyên lập (hoặc chứng nhận) các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên giao
dịch dân sự phải bảo đảm tính xác thực của văn bản giao dịch đó, bảo đảm cho
văn bản đó ln có hiệu lực pháp luật giống như các văn bản của các cơ quan

18


cơng quyền khác của Nhà nước đó và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn
bản đó.
a/ Vị trí, vai trị và tính chất hành nghề của cơng chứng viên

- Theo hệ thống cơng chứng Latinh (ví dụ : Đức, Áo, Bỉ, Tây Ban Nha,
Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha và Cộng hịa Séc), cơng chứng viên vừa
là công chức, vừa là người hành nghề tự do. Tính chất nghề nghiệp này khơng
chỉ đúng với công chứng viên dân luật ở các nước phương Tây mà cịn được áp
dụng với cơng chứng viên của Trung Quốc, Mơng Cổ và nhiều nước Châu Á
khác. Nói cách khác, tính chất chung của nghề cơng chứng viên là hoạt động
công vụ chứ không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần. Do vậy, công chứng
viên tại một số nước được sử dụng con dấu công vụ, con dấu có hình quốc huy
(ví dụ như: Ba Lan, .... Tại Ba Lan, công chứng viên được hưởng chế độ như các
viên chức công khác, được gọi là “công chức làm chứng”).
- Công chứng viên được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ Tư pháp và
được coi như công chức dù không hưởng lương từ ngân sách nhà nước Đây là một
điểm rất đặc biệt của quy chế về cơng chứng viên của rất nhiều nước. Nói cách
khác, cơng chứng viên là một cơng chức đặc biệt vì cơng chứng viên do nhà nước
bổ nhiệm, phải tuân theo quy định của Nhà nước, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ
của Nhà nước nhưng lại hành nghề với tư cách tự do (tự hành nghề, tự đầu tư cơ sở
vật chất, tự nuôi bộ máy giúp việc, thu nhập từ nguồn khách hàng…).
- Công chứng viên là một nhà chuyên môn hoạt động gần như trong mọi
lĩnh vực pháp luật, công chứng viên là một luật gia đầy đủ, không đơn thuần là
người soạn thảo văn bản mà còn là người làm nhiệm vụ công chứng, chứng thực,
người tư vấn pháp luật và người thu thuế cho nhà nước. Ngoài ra, cơng chứng
viên cịn có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác do khách hàng hoặc các cơ quan
xét xử yêu cầu. Công chứng viên là người hợp thức hóa thỏa thuận của các bên
và có thẩm quyền đóng con dấu xác thực vào toàn bộ các văn bản mà mình tiếp
nhận. Cơng chứng viên cũng bảo đảm lưu giữ toàn bộ các dự thảo văn bản.
Ngoài chức năng xác thực tính hợp lệ và bảo đảm an tồn cho các văn bản nói

19



trên, các cơng chứng viên cịn có thể can thiệp với phạm vi rộng hơn; họ là các
chuyên gia về pháp luật tổng quát với một tầm nhìn tổng thể về các vấn đề pháp
lý. Họ có thể can thiệp vào khn khổ pháp lý nói chung và khn khổ pháp lý
về thuế, điều đó khiến họ trở nên đặc biệt hiệu quả trong việc tư vấn cho khách
hàng của mình.
- Hầu hết tại các nước theo hệ thống luật La tinh, công chứng viên là
công chức do Nhà nước bổ nhiệm, chuyên tư vấn một cách độc lập, trung lập và
khách quan cho các giao dịch pháp lý quan trọng. Cơng chứng viên đóng vai trị
then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty
cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Các cơng chứng viên dân luật là
các cố vấn độc lập, trung lập và khách quan cho tất cả các bên tham gia giao
dịch. Họ kiểm tra ý định của các bên, dự thảo hợp đồng và các công cụ cần thiết
để thực hiện giao dịch dự kiến và bảo đảm các quy định trong hợp đồng tuân thủ
với luật. Các công chứng viên dân luật cũng xác minh năng lực đầy đủ của các
bên để ký kết thỏa thuận dự kiến và để hiểu đầy đủ những hệ lụy về pháp lý của
các cam kết mà họ đưa ra. Nếu không, luật pháp yêu cầu công chứng viên dân
luật phải từ chối sự tham gia của người đó.
- Ngồi ra, tại một số nước (ví dụ: Tây Ban Nha), công chứng viên là một
công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng về các hợp đồng và các hoạt
động ngoài tố tụng khác. Là một cơng chức, cơng chứng viên phải bảo đảm độ
chính xác của những gì cơng chứng viên nhìn thấy, nghe thấy, quan sát thấy hoặc
cảm nhận được; tính xác thực và hiệu lực bằng chứng đối với các lời khai thể
hiện ý chí của các bên trong các văn bản được soạn thảo theo luật. Sau đó, cơng
chứng viên có thẩm quyền hành động và chứng từ hóa tồn bộ các loại tình tiết,
hành vi, hợp đồng và nói chung là mọi hoạt động kinh doanh hợp pháp trong
phạm vi luật pháp ngồi tố tụng. Khơng có loại cơng chức nào khác có thể hành
động với phạm vi rộng như vậy trong lĩnh vực này.
- Cũng tại một số nước (Trung Quốc), công chứng viên vừa là công chức
vừa là những người hành nghề tự do. Với tư cách là công chức, họ được bổ


20



×