Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Quy chế công chứng viên theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.72 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU HỒNG SƠN

QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU HỒNG SƠN

QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số :
60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Huy Cƣơng


Hà Nội - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

CHU HỒNG SƠN

3


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG 7
CHỨNG VIÊN VÀ QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN
1.1

Tổng quan về Công chứng viên và Quy chế công chứng viên

7

1.1.1

Khái niệm về "Công chứng viên" và "Quy chế công chứng viên"

7

1.1.2

Lý luận chung.

8

Quá trình hình thành và phát triển công chứng viên và quy 18
1.2

chế công chứng viên
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển quy chế công chứng 18

1.2.1.


viên tại một số nước trên thế giới
Quá trình hình thành và phát triển công chứng viên trong các 38

1.2.2

chế độ cũ ở Việt Nam
Chƣơng 2: QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN THEO PHÁP 42
LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Quy định của pháp luật về công chứng viên trƣớc khi có Luật 42

2.1

Công chứng
Quy định của pháp luật về công chứng viên trong giai đoạn 1945 42

2.1.1

- 1975
Quy định của pháp luật về công chứng viên sau năm 1976 (của 47

2.1.2

nước CHXHCN Việt Nam)
Nhận xét tổng quát về các đặc điểm nổi bật của quy chế công 58

2.1.3

chứng viên Việt Nam trước khi có Luật Công chứng đầu tiên
(2006)


4


2.2.

Quy chế công chứng viên sau khi có Luật Công chứng (2006)

60

Một số điểm nổi bật của quy chế công chứng viên từ khi có Luật 60
2.2.1

Công chứng 2006 đến trước khi có Luật Công chứng hiện hành
(2014)
Quy chế công chứng viên từ khi có Luật Công chứng 2014 (tức 70

2.2.2

quy chế công chứng viên hiện hành).
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 90
VỀ QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN
Quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng 90

3.1.
3.2.

viên
Kiến nghị về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng viên.


92

Kiến nghị quy định về việc tham gia tổ chức xã hội nghề 93
3.3.
3.4.

nghiệp của công chứng viên.
Kiến nghị về công tác quản lý công chứng viên

93

KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

106

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định công chứng viên là một chế định quan trọng đã xuất hiện và phát
triển từ khá lâu đời trên thế giới, nhất là tại các quốc gia có nền văn minh và hệ
thống pháp luật phát triển, nó luôn song hành với các chế định pháp luật khác
trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam tên gọi chính thức phổ
biến cho chức danh tư pháp này mới chỉ có từ hai thập kỷ gần đây (khoảng
những năm 1989, 1990) trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng thực ra,

công việc của một công chứng viên đã tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc tại nước
ta, nhưng với một tên gọi khác và một chức năng không hoàn toàn giống như
chức năng của công chứng viên hiện tại. Theo pháp luật của đa số các quốc gia
có chế định này, nhất là các quốc gia theo hệ thống luật La tinh (hệ thống luật
thiên về sử dụng các văn bản pháp luật) thì chế định này thường được quy định
nhiều hơn và phát triển hơn so với các quốc gia theo hệ thống luật Commom
Law (luật Anh - Mỹ). Việt Nam ta cũng là quốc gia có hệ thống luật dựa trên thể
thức văn bản pháp luật là chủ yếu nên chế định công chứng và công chứng viên
vì thế trở nên rất quan trọng và cần thiết, ngày càng có xu thế phát triển mạnh.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực khoa học pháp lý của nước ta, chế định công chứng
viên lại rất ít có những công trình nghiên cứu, phân tích sâu và toàn diện về chế
định này. Do vậy trên hoạt động thực tế hành nghề công chứng tại nước ta, sự
thiếu hụt việc nghiên cứu này đã bị trả giá khá nhiều trong quá trình thực thi
pháp luật về công chứng, chứng thực của các công chứng viên và các tổ chức
hành nghề công chứng, gây ra những hậu quả nặng nề về uy tín, làm suy giảm
nghiêm trọng sự tin tưởng của công dân vào pháp luật công chứng nói riêng và
cả hệ thống pháp luật nói chung. Và đương nhiên, những sai lầm đó đã kéo theo
những thiệt hại về kinh tế là vô cùng lớn (một ví dụ điển hình như vụ việc công
chứng viên vi phạm quy chế trong vụ án EPCO Minh Phụng trong những năm
2000, 2001 đã làm thiệt hại kinh tế với con số khổng lồ là hàng nghìn tỷ đồng

6


vào thời điểm đó.......). Như mỗi chúng ta đều đã biết, với mỗi quốc gia thì bộ
luật dân sự bao giờ cũng là một trong những bộ luật đòi hỏi sự đầu tư nhiều thời
gian và công sức nhất để xây dựng và hoàn thiện, do đó cũng có thể coi bộ luật
dân sự là bộ luật quan trọng nhất trong hệ thống luật pháp, nó có thể biểu hiện
được trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như trình độ pháp lý của những nhà
xây dựng luật pháp của quốc gia đó. Và trong việc thực thi pháp luật dân sự,

cùng với những chế định thẩm phán, luật sư, ... thì chế định công chứng viên thật
sự có tầm quan trọng không kém. Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam, sự quan
tâm đến chế định công chứng viên của những nhà xây dựng pháp luật và trong
những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của chúng ta hiện nay còn chưa được
thoả đáng.
Trong thời kỳ cả nước đang tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cải cách tư pháp, kinh tế đang phát triển rất mạnh và nhanh theo nền kinh
tế thị trường, đẩy mạnh xã hội hoá nhiều dịch vụ công (trong đó có lĩnh vực công
chứng) thì việc củng cố, hoàn thiện chế định công chứng nói chung và quy chế
công chứng viên nói riêng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật hiện hành cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, quy chế công chứng viên
của ta như đã nói ở trên thì lại khá mới mẻ, không nhiều các công trình, không
nhiều các đề tài khoa học đi sâu nghiên cứu về chế định này, trong khi hầu hết
người dân trong xã hội nói chung và thậm chí ngay cả những người quản lý,
những cơ quan, tổ chức nằm trong bộ máy nhà nước và bộ máy tư pháp của
chúng ta còn chưa hoàn toàn hiểu rõ, chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm, chức
năng, nhiệm vụ của chức danh tư pháp này.
Với những trình bày như trên, việc nghiên cứu đề tài khoa học về quy
chế công chứng viên, nhằm làm rõ bản chất pháp lý, tính khoa học, tính hệ
thống và tầm quan trọng của vấn đề, để từ đó ta sẽ thấy được việc xây dựng
và hoàn thiện quy chế công chứng viên ở Việt Nam ta hiện nay là một vấn đề
khoa học cần thiết và cấp bách, đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống pháp

7


luật nói riêng và đời sống xã hội nói chung của Việt Nam ta hiện nay cũng
như trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nói đến đề tài công chứng viên (mà rộng ra chính là quy chế công chứng

viên) theo một cách nhỏ lẻ, tiểu tiết thì đã có khá nhiểu bài báo, tác phẩm pháp
luật, các bài phân tích, các cuộc toạ đàm, ... và thậm chí còn có đã có khá nhiều
văn bản quy phạm pháp luật như sắc lệnh, nghị định, thông tư và gần đây nhất là
Luật công chứng năm 2006 và Luật công chứng năm 2014 đề cập đến vấn đề
này. Tuy nhiên, nhưng văn bản đó đều mang tính rời rạc, mô tả hiện tượng, biểu
hiện bên ngoài hoặc chỉ mang tính quy định chung chung về vấn đề hoặc có phân
tích thì cũng chỉ dừng lại phân tích sâu theo một khía cạnh nhỏ nào đó của chức
danh công chứng viên theo quy định của pháp luật hiện hành vào chính thời
điểm đó chứ không mang tính khoa học pháp lý toàn diện, không thể hiện được
tính lý luận xuyên suốt của vấn đề.
Thực tế cho đến nay, dù ít dù nhiều cũng đã có những công trình khoa
học, những điều luật có liên quan đến vấn đề này, bởi xuất phát từ đời sống thực
tiễn cũng như xuất phát từ yêu cầu cấu thành các bộ phận trong hệ thống pháp
luật thì chế định công chứng viên luôn tồn tại song hành với chế định công
chứng nói riêng và các chế định về các chức danh tư pháp khác trong hệ thống
pháp luật nói chung. Nhất là trong khoảng thời gian 15 năm trở lại đây, khi mà
các giao dịch dân sự trong xã hội tăng cao đột biến, kéo theo nó là nhu cầu công
chứng dần dần trở nên rất cấp thiết thì các đề tài khoa học về công chứng và
công chứng viên đã xuất hiện nhiều hơn, một số các công trình này cũng đã phân
tích sâu một khía cạnh nào đó về công chứng viên và quy chế công chứng viên
nhưng thường chỉ một vài khía cạnh đó thôi. Một số các văn bản pháp luật và các
công trình nghiên cứu, tác phẩm, bài viết pháp luật đã có đề cập đến một cách
khá cụ thể một số quy định liên quan đến quy chế công chứng viên, đặc biệt và
trước tiên nhất có thể dẫn chiếu ra là các điều luật từ Điều 13 đến Điều 22 trong
Luật Công chứng năm 2006, sau đó là tại Chương II - từ Điều 8 đến Điều 27 của

8


Luật Công chứng năm 2014 đã chỉ ra chi tiết các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm,

miễn nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của công chứng viên. Ngoài ra, cũng có
nhiều tác phẩm, bài viết đăng trên các diễn đàn, tạp chí pháp luật như trong bài
viết "Về vai trò của công chứng viên" của tác giả Dương Khánh (2000) (tạp chí
"Dân chủ và pháp luật"), hay tác phẩm "Thẩm quyền thực hiện công chứng"
cũng của tác giả Dương Khánh (2001) (Toà án nhân dân), hoặc tác phẩm "Hoàn
thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong hoạt động công chứng" của Tiến
sỹ Tuấn Đạo Thanh (Nhà xuất bản Tư pháp 2013), ... nhưng các tác phẩm này
đều phân tích rộng hơn về toàn bộ chế định công chứng, nếu có đề cập đến quy
định về công chứng viên thì cũng không phân tích nhiều hoặc chỉ dừng lại phân
tích, nghiên cứu về một khía cạnh riêng biệt nào đó về công chứng viên, hoặc về
một phần quy chế công chứng viên tại thời điểm toàn bộ các công chứng viên là
viên chức nhà nước nằm trong chế định công chứng nhà nước.
Sau khi tham khảo và nghiên cứu các tài liệu nói trên cũng như nhiều tác
phẩm và văn bản pháp luật khác, chúng ta vẫn thấy thiếu những sự phân tích
khoa học, nhất là sự "kết nối" một cách khoa học về lý luận giữa các công trình,
tác phẩm nói trên trên để tạo nên một lý luận chung có tính thuyết phục về chức
danh công chứng viên cũng như về quy chế công chứng viên. Do vậy, với mong
muốn thực hiện được công việc một cách toàn diện nhất, khoa học nhất và mang
tính khả thi cao nhât có thể, luận văn này sẽ cố gắng nghiên cứu một cách tổng
thể hệ thống lý luận cũng như toàn bộ tình hình thực tiễn có liên quan để làm rõ
hơn lý luận khoa học của vấn đề, qua đó có thể lý giải và bình luận về cơ sở pháp
lý về quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam cho đến thời điểm hiện
tại. Đồng thời, từ đó cũng xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất, một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quy chế công chứng viên hiện tại, cố
gắng phục những bất cập, những khiếm khuyết để quy chế công chứng viên được
ngày càng hoàn chỉnh, mang tính khoa học được cao hơn, hoà kịp vào xu thế
chung hội nhập quốc tế với công chứng viên của các nước tiên tiến trên thế giới.

9



3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Khi nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, tác giả xác định mục đích
chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách chi tiết và có hệ thống các
quy định pháp luật Việt Nam từ trước đến nay về chức danh công chứng viên và
quy chế công chứng viên, đánh giá các điểm bất cập phát sinh trên thực tế có thể
gây ra những sai lầm, những khiểm khuyết, thiếu sót trong quy định về công
chứng viên cũng như quy chế công chứng viên, điều có thể gây ra những sai
phạm, những thiệt hại có thể vô cùng lớn cho các công dân, tổ chức trong xã hội
cũng như cho toàn bộ nền kinh tế xã hội, qua đó đóng góp một số ý kiến nhằm
hoàn thiện các quy định về quy chế công chứng viên, cố gắng khắc phục những
khiếm khuyết, bất cập nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy chế về công chứng viên theo hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung (có tham khảo quy chế công chứng viên
một số nước trên thế giới) nhưng trọng tâm vẫn là quy chế công chứng viên theo
pháp luật Việt Nam hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tất cả các quy định về quy
chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và theo các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, trong đó có phân tích về mặt luận, dẫn
chiếu các quy định trong các văn bản pháp luật và sự thi hành trên thực tiễn (có
cả một số ví dụ về quy định của pháp luật nước ngoài) để làm vững chắc thêm về
lý luận, phong phú thêm về thực tiễn cho đề tài nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời luận văn còn kế
thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và các cá nhân liên quan đến đề tài.


10


5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau: khảo sát thực
tiễn, thống kê xã hội học, phân tích, so sánh, tổng hợp, nhận xét, đưa ra kết luận.

11


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN
1.1. Tổng quan về Công chứng viên và Quy chế công chứng viên
1.1.1. Khái niệm về "Công chứng viên" và "Quy chế công chứng viên"
Công chứng viên là một chức danh tư pháp trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Cùng với các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, công tố viên
(hay kiểm sát viên), chấp hành viên, luật sư, ... thì công chứng viên là một chức
danh tư pháp chỉ đến những người có trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật và
trình độ nghiệp vụ nhất định để đáp ứng được những công việc thực thi pháp luật
trong một lĩnh vực pháp luật nhất định - lĩnh vực công chứng, được Nhà nước
đương thời cho phép hành nghề, thừa nhận hoặc quyết định bổ nhiệm bằng
quyền lực của mình. Theo pháp luật hiện tại của Việt Nam ta và của nhiều nước
trên thế giới thì Công chứng viên là những nhà chuyên môn về pháp luật có đủ
tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được bổ nhiệm để hành nghề công
chứng. Còn công chứng là hành động công chứng viên chứng nhận tính chất xác
thực, hợp pháp của văn bản (hợp đồng, giao dịch) do người yêu cầu công chứng
đề nghị hoặc do pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên,

trên thực tế, khái niệm "công chứng viên" không có định nghĩa chung trong tất
cả các quốc gia vì hệ thống pháp luật và phạm vi hoạt động của công chứng viên
tại mỗi quốc gia đều có sự khác nhau. Hơn nữa, khái niệm "công chứng viên"
của mỗi quốc gia cũng có thể thay đổi theo thời gian khi pháp luật tương ứng của
quốc gia đó thay đổi. Do vậy, mỗi khi được đề cập đến khái niệm "công chứng
viên" thì chúng ta buộc phải mô tả theo quy định cụ thể của từng quốc gia hoặc
nhóm các quốc gia có hệ tư tưởng pháp luật tương ứng. Nhưng qua nghiên cứu,
tựu chung, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm khá tổng quát như sau: "Công
chứng viên là một chức danh tư pháp dành cho những người có kiến thức chuyên
môn đủ rộng và đủ sâu về pháp luật để đảm đương được việc chứng nhận hoặc

12


tư vấn về tính chân thực, tính phù hợp với pháp luật và có thể thêm tính phù hợp
đạo đức xã hội của những giao dịch dân sự diễn ra trong lòng xã hội của một
quốc gia, hoặc có thể thêm chức năng xác nhận tính hợp pháp, chân thực của một
số loại văn bản được phép lưu hành trong lòng xã hội đó".
Còn quy chế công chứng viên, theo khái niệm "quy chế" trong từ điển (ví
dụ, theo Từ điển Tiếng Việt do NXB Văn hoá - Thông tin xuất bản năm 2012:
"Quy chế là những điều định ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà
làm"), kết hợp với tính quy định của pháp luật của từng quốc gia thì có thể đưa
ra khái niệm như sau: "Quy chế công chứng viên là tất cả những quy định của
pháp luật và những quy ước khác của xã hội về công chứng viên và tất cả những
vấn đề liên quan đến công chứng viên của một quốc gia".
Như vậy có thể thấy, khi đề cập đến bất kỳ vấn đề gì liên quan đến công
chứng viên thì đương nhiên vô hình chung cũng đã đề cập đến quy chế công
chứng viên của quốc gia đó.
Trên thực tế, công chứng viên là chức danh tư pháp hoạt động thiên về
lĩnh vực pháp luật dân sự, thương mại, được giành cho những người có đủ trình

độ về pháp luật, về sức khoẻ, về đạo đức và sự tự tin để tự mình có thể đứng ra
"chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp, tính không trái đạo đức xã hội" của
một hợp đồng, một giao dịch dân sự trong xã hội bằng các văn bản công chứng,
hoặc thuần tuý là chứng nhận tính chính xác, tính chân thực của một văn bản sao
so với văn bản chính, hoặc là tính chính xác, tính tự nguyện của một người công
dân muốn được chứng thực chữ ký của bản thân mình nhằm thể hiện ý chí của
mình trong một văn bản, giấy tờ nào đó để lưu hành trong xã hội (tham khảo
Luật Công chứng một số nước và Điều 2, khoản 1, Luật Công chứng năm 2014
của CHXHCN Việt Nam). Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, trên thế giới có
những quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật của
quốc gia mình trên những hệ quan điểm pháp lý khác nhau (điển hình nhất là
giữa nhóm các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật viết thành văn và nhóm
các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật dựa trên hệ thống án lệ) nên xảy ra

13


một thực tế là có sự quy định khác nhau về vị trí pháp lý, tính chất và mức độ
quyền hạn thực thi pháp luật của các chức danh tư pháp tại mỗi quốc gia này,
trong đó có chức danh công chứng viên. Ở Việt Nam ta thì sự khác biệt, sự thay đổi
còn có thể nhiều hơn so với các quốc gia khác do đặc điểm lịch sử có nhiều biến
động dẫn đến đặc điểm có nhiều sự thay đổi về các bộ luật, các luật qua các thời kỳ,
kèm theo đó là khả năng và trình độ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của ta
còn chưa theo kịp với các quốc gia có lịch sử xây dựng pháp luật lâu đời khác trên
thế giới. Cũng trong bối cảnh chung đó nên các quy định về quy chế chức danh
công chứng viên theo pháp luật của nước ta cho đến nay vẫn còn tồn tại khá nhiều
vấn đề khiếm khuyết, những "lỗ hổng" khá sâu và khá rộng cần phải sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện.
1.1.2. Lý luận chung về "Công chứng viên" và "Quy chế công chứng viên"
Kết hợp với khái niệm "công chứng viên" và "quy chế công chứng viên"

đã nêu ở phần trên, chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về nhu cầu thực tiễn xã hội,
quá trình phát triển khoa pháp lý trên thế giới từ xa xưa đến ngày nay liên quan
đến công chứng viên để qua đó rút ra những lý luận chung nhất về công chứng
viên và quy chế công chứng viên.
Công chứng viên (theo Từ điển Việt - Anh của nhiều nhà xuất bản có tên
Tiếng Anh là "Notary" hoặc "Notary public"). Theo nhiều tài liệu của nhiều tác
giả trên thế giới thì Công chứng là một nghề xuất hiện từ rất xưa. Cách đây hàng
ngàn năm ở Hy Lạp, Ai Cập, và đặc biệt là ở La Mã đã có những người làm
những công việc "dịch vụ văn tự" - đó có thể được coi là hình thức "công chứng"
đầu tiên trong lịch sử, và người thực hiện "dịch vụ văn tự" đó có thể được hiểu
có vai trò gần giống như là một "công chứng viên" trong pháp luật hiện nay. Tuy
nhiên, trên thực tế nghề công chứng chỉ bắt đầu phát triển tương đối mạnh vào
khoảng thế kỷ XIV, XV. Trong thời gian này đã xuất hiện những việc chứng cần
phải nhận bản sao giấy tờ, nhưng nhiều nhất, chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là
việc xuất hiện rất nhiều các nhu cầu về chứng nhận các hợp đồng, giao dịch do
các quan hệ trong xã hội đặt ra. Thuật ngữ "Notariat" (trong tiếng Pháp, tiếng

14


Đức,...) hay "Notary" (trong tiếng Anh), đều có gốc Latinh là "Notarius" có
nghĩa là "ghi chép". Và cho đến hiện tại, như chúng ta đều biết, nghề công chứng
và toàn bộ hành vi của công chứng viên cũng đều chỉ để sản sinh ra một "sản
phẩm" duy nhất được xã hội yêu cầu và công nhận - đó là văn bản công chứng một sản phẩm bằng văn viết. Thực chất hơn nữa, các văn bản công chứng có giá
trị pháp lý này do các công chứng viên trên khắp thế giới từ trước đến nay, bằng
kiến thức pháp luật của mình đã lập ra để phục vụ nhu cầu của các bên tham gia
giao dịch, suy cho cùng, cũng đều chỉ những sự "ghi chép" lại với một cách có
"trật tự" các hành vi, các nhu cầu thoả thuận dân sự mà các bên dân sự giao kết
với nhau đã "nhờ" công chứng viên thực hiện việc chứng nhận "giúp" về tính rõ
ràng về quyền và nghĩa vụ, tính tự nguyện, tính dứt khoát, tính trung thực và tính

hợp pháp của những giao dịch dân sự đó, hay đơn giản chỉ là tính hợp pháp của
những văn bản do các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội ban hành nhưng được
các bên dân sự yêu cầu.
Như vậy, có thể thấy ngay một điều hiển nhiên là, công chứng viên phải là
những người nắm rất vững về hệ thống pháp luật nói chung, trong đó đặc biệt là
phải rất tinh thông về pháp luật thương mại và rộng hơn là pháp luật dân sự.
Đồng thời cũng phải là những người thật sự trung thực, vô tư, khách quan đối
với mọi đối tượng giao dịch, chủ thể giao dịch, mọi quan hệ giao dịch được yêu
cầu công chứng. Đây chính là đòi hỏi đầu tiên và cơ bản nhất của quy chế về
công chứng viên mà cả các công chứng viên từ trước đến nay trên toàn thế giới
phải tuân theo, dù ở trong bất cứ hệ thống pháp luật nào, thậm chí ở cả trong các
hệ thống pháp luật khác biệt nhau hoàn toàn về quan điểm pháp lý cũng như
cách thức tổ chức hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Từ sự đòi hỏi khách quan về các phẩm chất cần thiết của công chứng viên
như vậy, nên ở bất cứ quốc gia nào, nhất là các quốc gia có lịch sử phát triển
pháp luật lâu đời thì quy chế về công chứng viên luôn luôn được pháp luật đặc
biệt coi trọng. Trên thực tế, trong bất cứ một hệ thống pháp luật của quốc gia nào
có quy định về chế định về công chứng thì hành vi công chứng của công chứng

15


viên bao giờ cũng là hành vi "khởi đầu" cho một loạt các hành vi của những
người thừa hành pháp luật khác, mang đến tính hợp pháp cho các giao dịch dân
sự mà pháp luật nước đó quy định. Đồng thời, hành vi của công chứng viên cũng
nhằm tới một mục đích rất quan trọng khác, đó là bảo đảm cho việc tránh xa
những tranh chấp, những hậu quả pháp lý đáng tiếc, những thiệt hại vật chất mà
các giao dịch dân sự đó có thể mang lại, tức là hành vi của công chứng viên sẽ
nhằm mang lại tính an toàn về pháp lý, an toàn về mặt tài sản cho giao dịch dân
sự cũng như cho các bên tham gia giao dịch dân sự. Do đó, theo suy luận lô gich

về mặt pháp luật, công chứng viên có một vị trí pháp lý giống như một "thẩm
phán phòng ngừa". Tức là những người phải "đi tiên phong" trong việc ngăn
ngừa trước những sự vi phạm pháp luật có thể xảy ra, ngăn ngừa những hậu quả
pháp lý và hậu quả tài sản đáng tiếc có thể xảy ra trong tương lai do các quan hệ
giao dịch dân sự mang lại. Hơn thế nữa, khó khăn hơn, là công chứng viên phải
quyết định xử lý việc công chứng công việc với một khoảng thời gian rất ngắn,
với một tâm thế hoàn toàn "bị động" do các bên yêu cầu công chứng đề ra không
hẹn trước, nên không có một sự chuẩn bị trước nào cả, trong khi đó những giao
dịch dân sự như tất cả chúng ta đều biết là nó luôn phức tạp, mang đủ những tình
tiết tiềm ẩn những "góc khuất", những nguy cơ khó lường có thể gây ra những
hậu quả pháp lý, thiệt hại kinh tế vô cùng lớn cho cá nhân, tổ chức tham gia giao
dịch, thậm chí cho cả nền kinh tế quốc dân cũng như cho toàn xã hội.
Cũng chính vì vị trí pháp lý quan trọng, khá đặc biệt nói trên của công
chứng viên mà trên thế giới, tại nhiều quốc gia, họ đặc biệt coi trọng toàn bộ các
quy định liên quan đến chế định công chứng viên. Về mặt từ ngữ, toàn bộ các
quy định này, nếu theo từ điển Tiếng Việt thì có thể được gọi quy chế công
chứng viên. (Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do NXB Đà
Nẵng phát hành năm 2007, Trang 1260 do NXB Đà Nẵng phát hành năm 2007:
"Quy chế là những điều đã được quy định thành chế độ để mọi người theo đó mà
thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó", hay theo Từ điển Tiếng Việt

16


do NXB Văn hoá - Thông tin xuất bản năm 2012: "Quy chế là những điều định
ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà làm").
Trên thế giới, ngoài một số quốc gia trong quy chế của mình vẫn quy định
công chứng viên phải là viên chức nhà nước thì rất nhiều quốc gia chỉ coi công
chứng viên là những người hành nghề tự do nhưng họ lại đặt ra quy chế rất ngặt
nghèo về công chứng viên mà trước tiên phải kể đến là ngoài yêu cầu về chất

lượng thì chính Luật của quốc gia đó chí ít thì chính phủ của quốc gia đó sẽ quy
định cụ thể nhằm khống chế về số lượng công chứng viên trên từng khu vực lãnh
thổ của quốc gia mình dựa theo các tiêu chí về diện tích lãnh thổ, số lượng dân
cư và các chỉ số xã hội khác trên một vùng lãnh thổ nhất định. Chỉ điều này thôi
chúng ta cũng đã thấy quy chế công chứng viên ở các quốc gia đó là rất chặt chẽ
dù cho họ có thể là các quốc gia luôn đi tiên phong trong các chế độ tự do kinh
doanh, tự do nhân quyền, tự do phát triển. Hướng tới điều này, các quốc gia đó
đã thể hiện là họ đã có rất nhiều kinh nghiệm và độ sâu sắc về kiến thức pháp
luật để bảo đảm cho quy chế công chứng viên của quốc gia mình luôn luôn có
được hiệu quả cao nhất, tính ổn định cao nhất và mang lại lợi ích nhiều nhất
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội nói chung. Bởi lẽ, với quy định như vậy,
ngoài việc yêu cầu cao về trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật của công chứng
viên, họ còn bảo đảm được tính ổn định xã hội, tính cạnh tranh lành mạnh của
một trong những nghề luật rất nhạy cảm và quan trọng là nghề công chứng, từ đó
tạo ra một uy tín rất lớn cho nghề công chứng và trên hết là đóng góp vô cùng to
lớn cho sự ổn định xã hội của một quốc gia hiện đại.
Tổng quan một số quy định cơ bản về công chứng viên trên thế giới:
Theo quá trình phát triển của pháp luật thế giới nói chung, mỗi quốc
gia, vùng lãnh thổ đều có cho mình những hệ thống pháp luật (luật lệ) riêng từ
những thời kỳ sơ khai (thời chiếm hữu nô lệ), đã biết bắt đầu xuất hiện những
người thực hiện việc công chứng nhưng với tên gọi khác chứ chưa có khái
niệm công chứng viên như bây giờ. Cho đến thời kỳ phong kiến ở một số
quốc gia giàu có, phát triển (ví dụ như ở Pháp) đã bắt đầu xuất hiện những

17


người hành nghề công chứng viên. Và từ thời kỳ đó đến nay, người hành nghề
tư pháp với chức danh công chứng viên đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia
trên khắp thế giới, hoặc do tự học hỏi, hoặc do được đào tạo bài bản, nhưng

những này (có thể dưới một tên gọi tương đương khác tuỳ theo từng vùng
miền, từng quốc gia và từng giai đoạn lịch sử) bao giờ cũng phải được nhà
nước đương thời (kể cả nhà nước phong kiến, hoặc nhà nước tư bản hay nhà
nước khác), hoặc một cơ quan, tổ chức, hay một cá nhân đại diện cho quyền
lực nhà nước này bổ nhiệm hoặc thừa nhận bằng một quyết định, một văn bản
mang tính quyền lực nhà nước, đánh dấu việc được nhà nước chính thức cho
phép hành nghề công chứng viên. Từ đó, các văn bản mà họ lập ra sẽ được
nhà nước đó, người dân và toàn xã hội đương thời của nước đó thừa nhận,
được thi hành như một văn bản pháp luật của nhà nước ban hành.
Nhưng cũng do từ lịch sử đến hiện đại, trên thế giới đã từng và hiện nay
vẫn tồn tại 3 hệ thống pháp luật (xuất phát từ 3 hệ quan điểm pháp luật khác
nhau) nên công chứng cũng tồn tại 3 hệ thống tương ứng với 3 hệ thống pháp
luật, đó là hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng AngloSacxon (Anh - Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Colectiviste).
Chúng ta sẽ điểm qua một số nét chính về quy chế công chứng viên trong các hệ
thống pháp này, ứng với việc viện dẫn quy chế công chứng viên của một số quốc
gia tương có hệ thống pháp luật tương ứng.
Tuy nhiên, dù nẳm ở trong hệ thống pháp luật nào, công chứng viên cũng
có những đặc trưng chính như sau:
Nét đặc trưng đầu tiên là, công chứng viên bao giờ cũng là cá nhân một
công dân (hoặc một viên chức công) được Nhà nước đương thời bổ nhiệm để
chuyên lập (hoặc chứng nhận) các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên giao
dịch dân sự phải bảo đảm tính xác thực của văn bản giao dịch đó, bảo đảm cho
văn bản đó luôn có hiệu lực pháp luật giống như các văn bản của các cơ quan

18


công quyền khác của Nhà nước đó và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn
bản đó.
a/ Vị trí, vai trò và tính chất hành nghề của công chứng viên

- Theo hệ thống công chứng Latinh (ví dụ : Đức, Áo, Bỉ, Tây Ban Nha,
Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Séc), công chứng viên vừa
là công chức, vừa là người hành nghề tự do. Tính chất nghề nghiệp này không
chỉ đúng với công chứng viên dân luật ở các nước phương Tây mà còn được áp
dụng với công chứng viên của Trung Quốc, Mông Cổ và nhiều nước Châu Á
khác. Nói cách khác, tính chất chung của nghề công chứng viên là hoạt động
công vụ chứ không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần. Do vậy, công chứng
viên tại một số nước được sử dụng con dấu công vụ, con dấu có hình quốc huy
(ví dụ như: Ba Lan, .... Tại Ba Lan, công chứng viên được hưởng chế độ như các
viên chức công khác, được gọi là “công chức làm chứng”).
- Công chứng viên được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ Tư pháp và
được coi như công chức dù không hưởng lương từ ngân sách nhà nước Đây là một
điểm rất đặc biệt của quy chế về công chứng viên của rất nhiều nước. Nói cách
khác, công chứng viên là một công chức đặc biệt vì công chứng viên do nhà nước
bổ nhiệm, phải tuân theo quy định của Nhà nước, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ
của Nhà nước nhưng lại hành nghề với tư cách tự do (tự hành nghề, tự đầu tư cơ sở
vật chất, tự nuôi bộ máy giúp việc, thu nhập từ nguồn khách hàng…).
- Công chứng viên là một nhà chuyên môn hoạt động gần như trong mọi
lĩnh vực pháp luật, công chứng viên là một luật gia đầy đủ, không đơn thuần là
người soạn thảo văn bản mà còn là người làm nhiệm vụ công chứng, chứng thực,
người tư vấn pháp luật và người thu thuế cho nhà nước. Ngoài ra, công chứng
viên còn có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác do khách hàng hoặc các cơ quan
xét xử yêu cầu. Công chứng viên là người hợp thức hóa thỏa thuận của các bên
và có thẩm quyền đóng con dấu xác thực vào toàn bộ các văn bản mà mình tiếp
nhận. Công chứng viên cũng bảo đảm lưu giữ toàn bộ các dự thảo văn bản.
Ngoài chức năng xác thực tính hợp lệ và bảo đảm an toàn cho các văn bản nói

19



trên, các công chứng viên còn có thể can thiệp với phạm vi rộng hơn; họ là các
chuyên gia về pháp luật tổng quát với một tầm nhìn tổng thể về các vấn đề pháp
lý. Họ có thể can thiệp vào khuôn khổ pháp lý nói chung và khuôn khổ pháp lý
về thuế, điều đó khiến họ trở nên đặc biệt hiệu quả trong việc tư vấn cho khách
hàng của mình.
- Hầu hết tại các nước theo hệ thống luật La tinh, công chứng viên là
công chức do Nhà nước bổ nhiệm, chuyên tư vấn một cách độc lập, trung lập và
khách quan cho các giao dịch pháp lý quan trọng. Công chứng viên đóng vai trò
then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty
cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Các công chứng viên dân luật là
các cố vấn độc lập, trung lập và khách quan cho tất cả các bên tham gia giao
dịch. Họ kiểm tra ý định của các bên, dự thảo hợp đồng và các công cụ cần thiết
để thực hiện giao dịch dự kiến và bảo đảm các quy định trong hợp đồng tuân thủ
với luật. Các công chứng viên dân luật cũng xác minh năng lực đầy đủ của các
bên để ký kết thỏa thuận dự kiến và để hiểu đầy đủ những hệ lụy về pháp lý của
các cam kết mà họ đưa ra. Nếu không, luật pháp yêu cầu công chứng viên dân
luật phải từ chối sự tham gia của người đó.
- Ngoài ra, tại một số nước (ví dụ: Tây Ban Nha), công chứng viên là một
công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng về các hợp đồng và các hoạt
động ngoài tố tụng khác. Là một công chức, công chứng viên phải bảo đảm độ
chính xác của những gì công chứng viên nhìn thấy, nghe thấy, quan sát thấy hoặc
cảm nhận được; tính xác thực và hiệu lực bằng chứng đối với các lời khai thể
hiện ý chí của các bên trong các văn bản được soạn thảo theo luật. Sau đó, công
chứng viên có thẩm quyền hành động và chứng từ hóa toàn bộ các loại tình tiết,
hành vi, hợp đồng và nói chung là mọi hoạt động kinh doanh hợp pháp trong
phạm vi luật pháp ngoài tố tụng. Không có loại công chức nào khác có thể hành
động với phạm vi rộng như vậy trong lĩnh vực này.
- Cũng tại một số nước (Trung Quốc), công chứng viên vừa là công chức
vừa là những người hành nghề tự do. Với tư cách là công chức, họ được bổ


20


nhiệm bởi một cơ quan chính phủ, phải chịu các nghĩa vụ kỷ luật, trách nhiệm
dân sự hoặc hình sự. Với tư cách người hành nghề tự do, công chứng viên có thể
lựa chọn địa điểm thành lập văn phòng của mình, tuyển dụng nhân viên cũng
như mua sắm các trang thiết bị cần thiết. Họ được khách hàng trả tiền và trích lại
một phần để nộp cho nhà nước.
b/ Chức năng, nhiệm vụ của công chứng viên
Thông thường (nhất là những quốc gia theo hệ thống Luật Latinh), công
chứng viên là những cán bộ chuyên môn bảo đảm được hiệu quả và tính chắc
chắn về mặt pháp lý của những hợp đồng giao dịch và thay mặt Nhà nước thu
thuế chuyển nhượng, thu phí đăng ký và trả thuế này cho cơ quan thuế trong
khoảng thời gian rất ngắn. Nhờ đó, chính quyền thường xuyên nhận được những
khoản thanh toán này một cách rất hiệu quả và nếu những khoản này không được
thanh toán, công chứng viên phải chịu toàn bộ trách nhiệm đối với chính quyền
về việc thanh toán những khoản thuế này.
Ví dụ như đã dẫn chiếu ở trên, theo quy định của Tây Ban Nha, công
chứng viên là công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng theo quy định của
pháp luật về các hợp đồng và các hoạt động ngoại tụng khác. Điều này có nghĩa
là, công chứng viên là một người hành nghề luật độc lập, có nhiệm vụ đánh giá
một cách công tâm không thiên vị những người yêu cầu cung cấp dịch vụ và tư
vấn cho họ những công cụ pháp lý phù hợp nhất để đạt được kết quả hợp pháp
mà họ mong muốn. Sau đó, công chứng viên có thẩm quyền hành động và chứng
từ hóa toàn bộ các tình tiết, hành vi mà nói chung là mọi hoạt động kinh doanh
hợp pháp trong phạm vi luật pháp ngoài tố tụng.
Một ví dụ khác, trong xã hội Pháp, chức năng tư vấn của công chứng viên
đã có bước phát triển rất mạnh mẽ. Hoạt động tư vấn của công chứng viên đã
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân trong mọi lĩnh vực (hôn
nhân gia đình, thương mại, bất động sản hay trong quản lý tài sản…). Công

chứng viên có nghĩa vụ tư vấn cho mọi khách hàng, không phân biệt trình độ
hiểu biết; đưa ra những lời tư vấn phù hợp với quy định của pháp luật, nhưng

21


đồng thời cũng có lợi nhất cho khách hàng. Công chứng viên phải giải thích để
các bên hiểu rõ tính chất của thỏa thuận, những hệ quả của thỏa thuận mà họ ký
kết với nhau trước khi công chứng, đồng thời cũng phải giúp khách hàng thực
hiện thỏa thuận đó.
Ngoài nhiệm vụ soạn thảo, công chứng văn bản và tư vấn, công chứng
viên còn có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Tòa án hoặc
theo yêu cầu của khách hàng. Theo yêu cầu của Tòa án, công chứng viên có thể
lập dự thảo phân chia tài sản trong một vụ ly hôn, làm giám định viên trong vụ ly
hôn, hỗ trợ thẩm phán đánh giá giá trị bất động sản, làm người giám hộ, người
quản lý tài sản của người bị mất năng lực hành vi mà không có gia đình. Theo
yêu cầu của khách hàng, công chứng viên có thể tìm nguồn vốn vay cho khách
hàng, giúp khách hàng chuyển vốn vào tổ chức đầu tư, thương lượng bán bất
động sản hoặc sản nghiệp thương mại, lập bản kê khai tài sản thừa kế…
Ở Trung Quốc, công chứng viên có nhiệm vụ cung cấp tư vấn cho các
bên trước khi thông báo về phạm vi và hậu quả của chứng thư mà họ ký. Ngoài
ra, công chứng viên phải lưu trữ bằng chứng của thông báo này. Điều này cho
thấy chính quyền Trung Quốc đã quyết định áp dụng triệt để nhiệm vụ tư vấn
nhưng, bằng cách giữ bằng chứng về trách nhiệm tư vấn, họ cũng ngăn chặn bất
kỳ sự lạm dụng nào từ các khách hàng không trung thực.
Như vậy, có thể thấy, với nhiệm vụ cung cấp bằng chứng, tư vấn, hòa giải,
lập văn bản và thu thuế, công chứng viên có phạm vi hoạt động tương đối rộng so
với các công chức khác. Hoạt động pháp luật duy nhất mà công chứng viên không
được làm là bào chữa trong các vụ kiện. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp để bảo
đảm tính độc lập trong hoạt động của công chứng viên. Với việc trao cho công

chứng viên chức năng, nhiệm vụ đặc biệt như trên, Nhà nước đặt ra những yêu cầu,
tiêu chuẩn khắt khe đối với hoạt động của công chứng viên, đồng thời, tạo lập một
vị trí xứng đáng cho chức danh này trong xã hội, nơi mà người dân tin tưởng và coi
công chứng viên là những “thẩm phán hợp đồng”, “bác sĩ tài sản” của họ.

22


c/ Tiêu chuẩn công chứng viên
Tuy có những điểm khác nhau về thể chế, hầu hết các nước đều công nhận
công chứng là một nghề rất khó. Công chứng viên đều là những nhà luật học
giỏi, những chuyên gia pháp luật có kiến thức pháp lý sâu rộng và áp dụng pháp
luật nhuần nhuyễn, linh hoạt. Do vậy, việc gia nhập đội ngũ công chứng viên là
một quy trình có tính cạnh tranh rất cao, được lựa chọn theo các tiêu chuẩn hết
sức nghiêm ngặt (Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc…).
- Tiêu chuẩn chung: Pháp luật các nước có khá nhiều điểm tương đồng
trong quy định về tiêu chuẩn công chứng viên. Cụ thể, công chứng viên phải là
công dân của nước đó, không thuộc trường hợp mất năng lực hoặc không có khả
năng thực hiện vai trò của công chứng viên, là tiến sĩ hoặc người tốt nghiệp luật,
có nhân cách và năng lực phù hợp với chức danh, đã trải qua khóa đào tạo nghề
dài và chuyên sâu, hoàn thành thời gian tập sự hành nghề công chứng và vượt
qua kỳ thi tuyển công chứng viên.
- Tiêu chuẩn về trình độ: Để khẳng định vị trí của chức danh công chứng
viên, một số nước quy định tất cả các công chứng viên phải đủ điều kiện chuyên
môn làm thẩm phán và luật sư (Đức) hoặc đã làm công chứng viên dự bị với một
thời gian nhất định (ít nhất 2 năm theo Luật của Ba Lan) hoặc phải là người đã
được bổ nhiệm trong hơn 10 năm vào các công việc được quy định theo Luật
(Hàn Quốc)… Với một số đối tượng như giáo sư, tiến sỹ luật học, thẩm phán,
luật sư, tư vấn pháp luật có thâm niên ít nhất 3 năm… thì một số tiêu chuẩn có
thể được xem xét giảm bớt, ví dụ như tiêu chuẩn về thời gian làm công chứng

viên dự bị hoặc được miễn khóa đào tạo nghề, miễn thời gian tập sự hành nghề
(Ba Lan, Trung Quốc).
- Tiêu chuẩn về tuổi: Về tuổi bổ nhiệm, theo thông lệ phương Tây, lợi thế về
độ tuổi được xem xét vì nghề này đòi hỏi phải có một nền tảng vững chắc và kinh
nghiệm đáng kể. Ví dụ như: công chứng viên tại Đức phải là người ít nhất 35 tuổi
và không quá 70 tuổi khi bổ nhiệm lần đầu. Tại Ba Lan thì ít nhất 26 tuổi mới được
bổ nhiệm. Tại Tây Ban Nha độ tuổi trung bình thấp nhất để được bổ nhiệm công

23


chứng viên từ 27 đến 28 tuổi. Còn tại Nhật Bản, nhiều công chứng viên được bổ
nhiệm khi họ khoảng 58 đến 62 tuổi và làm công chứng viên trong vòng 8 đến 10
năm. Tại Hàn Quốc, chỉ những người ở độ tuổi trung niên mới được bổ nhiệm làm
công chứng viên. Về tuổi hành nghề, đa số các nước đều quy định độ tuổi tối đa là
65 hoặc 70 (Trung Quốc, Tây Ban Nha, Đức, Nhật Bản).
Ngoài các tiêu chuẩn nêu trên, các nước như Pháp, Đức, Tây Ban Nha đều
quy định công chứng viên phải khẳng định được uy tín của mình. Khách hàng
khi đến yêu cầu công chứng phải có niềm tin vào người công chứng viên về việc
người này rất minh bạch, không thiên vị, hoàn toàn tin tưởng.
Tại Đức, một người muốn trở thành công chứng viên thì phải có thêm điều kiện
là thi đỗ kỳ thi tuyển quốc gia II và hoàn thành tập sự 3 năm tại một Văn phòng công
chứng; người muốn là công chứng viên - luật sư thì phải là luật sư ít nhất 5 năm, trong
đó có ít nhất 3 năm đã hành nghề tại địa bàn mà luật sư đó muốn trở thành công chứng
viên, đồng thời phải trải qua kỳ thi mà không cần tập sự (nhưng vẫn phải chứng minh
có ít nhất 160 giờ làm việc tại một Văn phòng công chứng).
Nhật Bản có thể được coi là một ngoại lệ với việc quy định điều kiện khá
dễ dàng để trở thành công chứng viên. Theo đó, mặc dù về nguyên tắc, bất cứ ai
vượt qua kỳ thi do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề ra và hoàn thành khóa đào tạo kéo
dài hơn 06 tháng đều có thể có đủ điều kiện làm công chứng viên. Tuy nhiên, kỳ

thi này vẫn chưa được tổ chức vì thẩm phán, công tố viên hoặc luật sư có thể
được bổ nhiệm làm công chứng viên mà không cần thi hoặc hoàn thành khóa đào
tạo này. Hơn nữa, những người đã tham gia các sự vụ pháp lý lâu năm và có nền
tảng học vấn tương tự như các chuyên gia pháp lý cũng có thể được bổ nhiệm
làm công chứng viên.
(Có tham khảo và trích dẫn lại từ: Nguyễn Thảo (Ban Nội chính Trung ương) Trang (Nguồ n: www.noichinh.vn): "Ban chỉ đạo Trung ương về Đẩy mạnh cải cách
chế độ công vụ, công chức", caicachcongvu.gov.vn.).

24


1.2. Quá trình hình thành và phát triển công chứng viên và quy chế
công chứng viên
1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển quy chế công chứng viên
tại một số nước trên thế giới
Như phần đầu đã nêu, thì công chứng là một nghề đã xuất hiện từ rất xã
xưa, cách đây hàng ngàn năm, và cũng bắt đầu ở Hy Lạp, Ai Cập, và đặc biệt là
ở La Mã - là những nơi đã được xác định là những "cái nôi" của nền văn minh
nói chung và nền pháp luật nhân loại nói riêng. Ở đó đã xuất hiện đầu tiên những
người làm các "dịch vụ văn tự" mà cho đến này chúng ta hiểu chính là một hình
thức gần giống như các văn bản mà luật sư, công chứng viên thường làm bây
giờ. Tuy nhiên, phải đến những năm của thế kỷ XIV, XV thì nghề công chứng
mới bắt đầu phát triển tương đối mạnh. Trong thời gian này, ngoài các nhu cầu
về việc sao giấy tờ trong dân chúng thì đã xuất hiện rất nhiều và rất cấp thiết các
nhu cầu về chứng nhận các hợp đồng, giao dịch do các quan hệ trong xã hội đặt
ra lúc bấy giờ do nền kinh tế, thương mại, giao dịch dân sự thời đó đã bắt đầu
phát triển mạnh.
* Các hệ thống công chứng trên thế giới:
Theo thời gian và trải qua tất cả các thời kỳ lịch sử xã hội, lịch sử pháp
luật của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có cho mình những hệ thống pháp luật

riêng từ những thời kỳ sơ khai như chiếm hữu nô lệ. Như chúng ta đã biết, pháp
luật đã xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, do vậy ngay từ khi có
những nhà nước sơ khai ra đời, tại một số nhà nước đã có những người thực hiện
việc công chứng, nhưng tất nhiên là với các tên gọi khác chứ chưa có khái niệm
là công chứng viên như bây giờ. Cho đến thời kỳ phong kiến ở một số quốc gia
giàu có, phát triển (ví dụ như ở Pháp) đã bắt đầu xuất hiện những người thực sự
hành nghề công chứng viên. Và từ thời kỳ đó đến nay, người hành nghề về pháp
luật với chức danh công chứng viên đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên
khắp thế giới. Họ do tự học hỏi, hoặc do được đào tạo bài bản, nhưng những
người bắt đầu được hành nghề công chứng với chức danh công chứng viên chính

25


×