Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận hải an thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 93 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................... 9
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................... 9
1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.............. 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................. 29
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 33
Chương 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG .......................................................................................... 34
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hải An,
thành phố Hải Phịng có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................ 34
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận
Hải An, thành phố Hải Phòng ......................................................................... 37
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 63
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................................. 65
3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng ................ 65
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất........................................................................................ 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 88



DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An ................................. 42
Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại ......................................................... 52
Bảng 2.3 Tình hình giải quyết kiến nghị ......................................................... 52
Bảng 2.4 Tình hình giải quyết tố cáo .............................................................. 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với một nước có khoảng gần 70% dân số làm nơng nghiệp như Việt
Nam thì đất đai ln là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm đặc
biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ
gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành
giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính
sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của
nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;
dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân
hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất – kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.
Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,
giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều
trường hợp, người dân do khơng đồng tình với phương án bồi thường của Nhà
nước đã không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi cơng cơng
trình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực
đến môi trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi
thường, người bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông

người và khiếu kiện vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an tồn xã
hội v.v... Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa
đổi và bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiệu quả của
những giải pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được
ban hành dường như chưa phù hợp với thực tiễn. Các tranh chấp, khiếu kiện

1


liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia
tăng cả về số lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung.
So với các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hải Phịng thì quận Hải
An có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
của Thành phố. Đặc biệt, kể từ năm 2003 quận Hải An chính thức được thành
lập, sau gần 15 năm đến nay quận đã và đang trên đà phát triển để trở thành
khu trung tâm kinh tế lớn mạnh của thành phố Hải Phòng. Hiện nay trên địa
bàn Quận Hải An có 49 dự án lớn nhỏ đang được triển khai đồng loạt, với nhu
cầu sử dụng đất hiện tại là 120 ha. Đồng nghĩa với đó là số người dân, chủ
yếu là các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất cho các dự án lên đến
hơn 9000 hộ. Thực tế đó cho thấy, Quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng
đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện
việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật để thấy được nhu cầu của việc
thu hồi đất cũng như những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật
khi thu hồi, bồi thường mà những điều đó đã và đang trở thành rào cản, trở
ngại trong thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng.
Trong bối cảnh đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: "Thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An - Thành phố Hải Phòng"
để nghiên cứu trong chương trình tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến

pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng
của pháp luật đất đai. Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận văn đã có một
số cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn
và được thể hiện ở những góc độ nhất định. Tiêu biểu là các cơng trình khoa
học nghiên cứu đã được cơng bố như sau:

2


Nguyễn Vĩnh Diện, “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ
(2012); Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nơng nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”,
Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn Thị Tâm:“Pháp luật về thu hồi đất trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị
thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy,“Pháp luật về
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”; Luận văn
(2013) của Trần Phương Liên với nội dung “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp -Thực
trạng và hướng hồn thiện".
Bên cạnh đó, cịn có một số bài báo khoa học liên quan đến vấn đề trên
đây, được công bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành, như Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Tài chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế...như: Trần Quang Huy, “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp
chí Luật học, số 10/2010; Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để
bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Dỗn
Hồng Nhung (Chủ biên):“Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2013; Ngồi ra cịn

có các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chun đề “Bình luận và góp ý đối
với các quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi” của Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học
“Góp ý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý
giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp
luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu kể trên

3


đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố
Hải Phịng. Do đó, đề tài khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.
Với mong muốn được tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi
tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất với thực tiễn áp dụng qua các vụ
việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù
hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa
ra những nhận xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một
địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tơi đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm
việc thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay và trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và quy
định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng
thực hiện quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phịng; nghiên cứu đưa ra các giải
pháp hồn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hoà lợi ích của
chủ thể thu hồi đất và người bị thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề chủ yếu sau:

4


- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Qua đó, chỉ
ra các quy định phù hợp, chưa phù hợp; việc áp dụng pháp luật đúng hay
không đúng của các chủ thể thực hiện pháp luật trên địa bàn quận Hải An
cũng như những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật và nguyên nhân
của nó trong việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định của Pháp luật
Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng thực hiện các
quy định này trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; so sánh với bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo các văn
bản pháp luật ban hành trước năm 2013.
- Tập trung nghiên cứu vào việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến năm 2018
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm

5


nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong
mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các
hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét
trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Bên cạnh đó, tơi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, đề tài còn vận dụng các biện pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu
thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nguồn thông tin

này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý
kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, các cơ quan liên
ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố, Uỷ ban nhân dân quận
Hải An và thơng qua các cơng trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thơng
tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố
Hải Phòng từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử
dụng để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng.
Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình
bày trong luận văn.

6


- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý
các tài liệu, các số liệu mà tơi thu thập trong q trình khảo sát thực tiễn thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tơi có
được các số liệu, thơng tin tin cậy trình bày trong luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực
hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
quận Hải An, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án bồi thường, hỗ trợ
của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng
thành phố Hải Phòng và Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quận Hải An, một
số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất, người bị thu hồi đất, nhà đầu tư…
Ngồi ra, tơi cịn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so
sánh, logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hệ thống hố và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực
tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, đặc biệt, phân tích, làm rõ cơ
chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân
tích làm rõ bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Luận văn đã phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất, đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này
và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở đó, đề cập yêu cầu, định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể
hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích khơng chỉ đối với các nhà hoạch
định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu

7


chuyên khảo cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý
đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.


8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thƣờng, hỗ
trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ
Để có cách hiểu tồn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ
“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu
trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường”
được sử dụng trong trường hợp một người nào đó có hành vi gây thiệt hại
cho một người khác phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành
vi của mình gây ra [11]. Hình thức bồi thường có thể là vơ hình (xin lỗi)
hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật khác). Việc bồi
thường có thể do các quy định của pháp luật điều chỉnh hoặc do chính sự
thỏa thuận giữa các bên.
Riêng lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi nhà nước
thu hồi đất được ghi nhận từ rất sớm. Tại Nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959
của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại
Chương II đã đề cập việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.
Tiếp theo, Luật đất đai năm 1987 thuật ngữ “đền bù” được sử dụng thay cho
thuật ngữ “bồi thường”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai
năm 2001, tại Điều 1, Khoản 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 27, Luật Đất đai năm
1993), thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và thay thế thuật ngữ “đền
bù”. Thuật ngữ “bồi thường” tiếp tục được sử dụng tại Luật đất đai năm 2003
và 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013.


9


Đề cập khái niệm này Khoản 12, Điều 3, Luật đất đai năm 2013 đưa
ra cách giải thích như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất”.
[17]
Như vậy, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất chỉ diễn ra khi Nhà nước
thu hồi một diện tích đất nào đó vì lợi ích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích cơng cộng và phát triển kinh tế. Thực chất, đây chính là việc giải
quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người bị thu hồi đất và nhà
đầu tư. Do đó, việc bồi thường khi khi nhà nước thu hồi đất phải thực hiện
theo quy định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện, trình tự, thủ tục và
nguyên tắc thực hiện.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi khi nhà nước thu
hồi đất không giống với việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật
dân sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó khơng những phải đảm bảo lợi ích
của người bị thu hồi đất, mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và của người nhận lại quyền sử dụng đất sau khi thu hồi.
“Hỗ trợ” là việc khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có chính sách giúp
đỡ, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt
qua khó khăn khi bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
bao gồm: hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và
tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nơng nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh
dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư
đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân người Việt Nam định
cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,
tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất; hỗ trợ

khác [17, tr.49 -50]

10


1.1.2 Mục đích và yêu cầu của bồi thường, hỗ trợ
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức
tạp, vừa mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, vừa mang tính thời sự
cấp bách. Cơng tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
những năm qua trên cả nước bước đầu đã tạo ra nhiều đổi mới cho khu vực
nông thôn, khu vực đô thị, ven đô thị như: Tạo bước chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, ngành nghề, thu hút đầu tư... góp phần đẩy nhanh
tiến trình hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội của địa phương, của vùng và cả
nước. Tuy nhiên, việc bồi thường thời gian qua đã gặp khơng ít khó khăn do
nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, vì vậy, việc bồi thường, hỗ trợ của nhà
nước những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đã gây ra
nhiều khiếu nại, khiếu kiện, bất ổn định về xã hội và tình hình trật tự trong cả
nước. Đặc biệt khi các cơ quan nhà nước thực hiện áp dụng giá bồi thường và
chính sách hỗ trợ chưa thống nhất trong cả nước nên đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng dân cư, nhất là trong việc
bồi thường về giá đất tại địa phương.
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được xem xét trên cơ sở
hàng loạt các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều kiện
kinh tế, xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác
thu hồi đất của các cấp, các ngành. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên
môn, các nhà lãnh đạo địa phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây
dựng kết cấu hạ tầng, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, giải quyết việc làm, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng trên địa bàn địa phương.
1.1.3. Các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

1.1.3.1. Điều kiện để được bồi thường
Theo quy định tại Điều 75 Luật đất đai, người bị Nhà nước thu hồi đất
có một trong những điều kiện sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất:

11


- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật
đất đai.
- Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật đất đai.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,
phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận
khơng có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai bao gồm: giấy tờ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong quá
trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng
ký ruộng đất, sổ Địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử
dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với
đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với
đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ thanh lý, hóa
giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ
do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất [17]
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những loại giấy
tờ quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy

tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,
nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển
nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân
cấp xã xác nhận khơng có tranh chấp.

12


- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú
tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải
đảo, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử
dụng đất ổn định, không có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ quy định như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày
15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó
khơng có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy
định của tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định
giải quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ kể trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời
điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy
hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các cơng trình, được cấp có thẩm
quyển phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm
trái phép và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất
đó khơng có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà
nước đã có quyết định quản lý trong q trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá

nhân đó vẫn sử dụng.
- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các cơng trình là đình, chùa, đền
miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu
hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
Ngồi ra, Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây cũng được
bồi thường:

13


- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng
đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả
việc chuyển nhượng khơng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
1.1.3.2. Điều kiện để được hỗ trợ
- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 1
Điều này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật đất đai.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khốn đất
sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không
bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) quy định tại các điểm d, đ và e
khoản 1 Điều này thì phải có hợp đồng giao khốn sử dụng đất.”
- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nơng nghiệp quy định tại các
điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định

này (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông,
lâm trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các
nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc
được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:
- Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nơng nghiệp thu hồi;

14


diện tích được hỗ trợ khơng vượt q hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa
phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai.
- Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều
kiện thực tế của địa phương.
- Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho th đất
khơng thơng qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất mà ứng trước kinh
phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được tham gia trong quá trình tổ
chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”
- Đối với dự án đầu tư đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng đến trước ngày 01-7- 2014 chưa thực hiện chi trả tiền bồi
thường thì việc xử lý bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật
về đất đai trước ngày 01 -7- 2014.
- Đối với dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước ngày 01-7- 2014 nhưng địa
phương chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chính
sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 có thay
đổi so với khung chính sách đã được phê duyệt thì bộ, ngành có dự án đầu tư
có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ, ngành có dự án

đầu tư phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án tổ chức thực hiện
sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”
1.1.4. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các chế định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất
đai năm 2003 trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định
mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức
tạp phát sinh trong việc bồi thường tại các địa phương, các Bộ, các ngành.
Để khắc phục những vấn đề này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc

15


bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nguyên tắc bồi thường về tài sản,
ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành hai điều luật
riêng biệt:
Thứ nhất, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:
- Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất sẽ được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng an ninh,
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng nhưng không phải tất
cả các chủ thể sử dụng đất bị thu hồi vào các mục đích này đều được bồi
thường. Để được bồi thường họ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định do
pháp luật quy định, chẳng hạn, họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có
đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận,..
Còn đối với trường hợp người sử dụng đất khơng đủ điều kiện
được bồi thường thì họ sẽ được xem xét hỗ trợ. Đây không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý mà còn là nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm chính trị của Nhà nước,
bởi lẽ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người người dân chính là bảo đảm
sự phát triển bền vững của đất nước và thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội.

- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh
quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi
đất thì người sử dụng đất được bồi thường bằng đất cùng loại, nếu khơng có
đất cùng loại thì bồi thường bằng giá trị tương đương. Giá đất là số tiền tính
trên một đơn vị diện tích đất do UBND cấp tỉnh nơi có đất quyết định tại thời
điểm thu hồi đất. Đây là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho
người bị thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính

16


xác, thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, thế nào được coi là hợp lý bởi người
dân luôn muốn đất của mình có giá cao cịn giá bồi thường do Nhà nước quy
định thường thấp hơn so với giá thị trường. Mâu thuẫn về giá đất ảnh hưởng
lớn đến công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, là nguyên nhân chủ
yếu làm nảy sinh khiếu nại, khiếu kiện khi thu hồi đất. Giá đất để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là căn cứ quan trọng để thực hiện việc bồi
thường cho người bị thu hồi; là nội dung chủ yếu giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất về lợi ích kinh tế.
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Đây không chỉ là nguyên tắc trong quá trình bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất mà cũng là mục đích hướng đến của q trình này. Việc bồi
thường đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và
đúng pháp luật sẽ giải quyết triệt để, hài hồ quan hệ lợi ích giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, đảm bảo cho pháp chế xã
hội chủ nghĩa được thực thi, niềm tin và sự đồng thuận của người dân bị
thu hồi đất với Nhà nước sẽ được củng cố, đảm bảo ổn định xã hội, phát

triển kinh tế.
Thứ hai, nguyên tắc bồi thường về tài sản, ngừng sản xuất, kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất:
Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
Theo đó, để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất thì
tài sản đó phải gắn liền với đất thuộc về chủ sở hữu hợp pháp là người bị
thu hồi đất và tài sản đó phải xác định bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất
của Nhà nước gây ra. Đây là nguyên tắc rất cần thiết, bởi lẽ khi Nhà nước
thu hồi đất, tài sản mà họ đầu tư trên đất sẽ không cịn tồn tại, khơng được

17


bảo tồn và bị thiệt hại, do đó trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi
thu hồi đất là tất yếu.
Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường.
Theo quy định tại Điều 74 Luật đất đai 2013, Nguyên tắc bồi thường về
đất khi Nhà nước thu hồi đất được xác định như sau:
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
- Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
[17, tr.45]

Việc thực hiện bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu
khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng đất ở, hoặc được bồi
thường bằng tiền cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của
pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số
tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách. Nghĩa vụ tài chính bao
gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do nhà nước cho
thuê, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các thửa đất
khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ việc xử phạt vi phạm
luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý
và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.

18


Trong trường hợp khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn
hoặc bằng tiền bồi thường về đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi
thường đất.
Diện tích đất được bồi thường là diện tích đất được xác định trên thực
địa, thực tế đo đạc diện tích thu hồi của từng người sử dụng đất.
1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1.1. Khái niệm
Về diện lý luận về Nhà nước và pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt
động có mục đích nhằm hiện thực các quy định pháp luật, làm cho pháp luật
đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi hợp pháp trên thực tế của các
chủ thể pháp luật. Vì thế, thực hiện pháp luật khơng thể phát huy hiệu lực
trong hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể pháp luật khi thiếu sự bảo

đảm của Nhà nước, các cơ chế cũng như cơ sở pháp lý của nó.
Thực tế cho thấy, những trường hợp khơng có sự can thiệp của Nhà
nước thì nhiều quy định của pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng. Thực hiện pháp luật còn được coi là việc Nhà nước thông qua
các cơ quan hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền đứng ra tổ chức cho các
chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định của pháp luật đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thực hiện pháp luật của các cơ
quan áp dụng pháp luật về thực tiễn và lý luận được trao cho Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp cùng các cơ quan chuyên môn của chúng trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với những chủ thể vi phạm pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng
chế Nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó.

19


Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước;
Ví dụ, quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ
thể giữa một người lao động với một bên là cơ quan, tổ chức Nhà nước chỉ
phát sinh khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng
người lao động đó vào làm việc.
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà giữa họ không thể tự điều hòa, giải quyết với
nhau được. Trong trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh, những quyền
và nghĩa vụ của các bên không được thực hiện và có sự tranh chấp.
Từ phân tích trên ta có thể định nghĩa: Thực hiện pháp luật là hoạt động
mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thơng qua những

cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước
trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp
cụ thế đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Điều 1 Luật đất đai 2013 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Do đó, với tư cách đại diện chủ sở hữu, Nhà
nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định cụ thể những
quyền cũng như nghĩa vụ pháp lý đối với người sử dụng đất [17, tr.4], người
sử dụng gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người nước
ngoài. Tuy nhiên, để sử dụng đất đai vào các mục tiêu phát triển nền kinh tế
thị trường, Nhà nước quy định việc thu hồi đất đai trên cơ sở quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt:
Luật đất đai dành một chương (chương 6) quy định về bồi thường và hỗ
trợ khi nhà nước thu hồi đất [17, tr.33-41]
Từ những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có
thể thấy rằng, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ là loại hoạt động

20


mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, đó là việc các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật đất đai, Luật
khiếu nại) về bồi thường, hỗ trợ về giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào mục
đích sử dụng khi thu hồi mà hậu quả pháp lý và giá trị hiệu lực của quyết định
đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật về đất đai.
1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất
Với khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất cho thấy, việc bồi thường, hỗ trợ không chỉ đặt ra và yêu cầu phải
thực hiện, phải tuân thủ đối với đối tượng có đất bị thu hồi, mà cịn đặt ra và
u cầu đối với các cán bộ có thẩm quyền trực tiếp thực hiện bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Vì thế, có thể hiểu bản chất của thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất qua những đặc điểm cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là hành vi hợp pháp của các chủ thể thực hiện pháp luật. Đây là đặc
điểm quan trọng nhất, theo đó, khơng phân biệt chủ thể thực hiện pháp luật
bồi thường, hỗ trợ là cơ quan nhà nước hay người dân, là tổ chức hay cá nhân,
là chủ thể trong nước hay nước ngoài... đều phải thực hiện hay tuân thủ pháp
luật bằng hành vi hợp pháp của mình. Mọi sự chống đối, khơng thực hiện
hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
đều là hành vi trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận, không được
Nhà nước bảo vệ và phải chịu các hình thức pháp lý cụ thể với mỗi hành vi không
hợp pháp của mình.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Chủ thể đó bao gồm: cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ về bồi thường,

21


hỗ trợ. Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì cơ quan tham gia
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi bao
gồm: Uỷ ban nhân dân cấp Huyện và cấp Tỉnh ; Ban bồi thường và giải phóng
mặt bằng do Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh hoặc cấp Huyện thành lập, Trung tâm
phát triển quỹ đất. Ngoài ra, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ còn có
sự tham gia của các cán bộ từ các cơ quan chức năng như: cán bộ xã, phường,
thị trấn, cán bộ địa chính, đại diện của Mặt trận tổ quốc và các thành viên
khác của mặt trận... Cùng với đó, chủ thể không thể thiếu thực hiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đó chính là người có đất thuộc
diện Nhà nước thu hồi. Đó là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước,

các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi có
quyền sử dụng đất hợp pháp bị Nhà nước thu hồi để sử dụng cho các mục
đích của Nhà nước. Ngồi ra, chủ thể thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng có thể là chủ thể có quyền và lợi ích hợp
pháp có liên quan đến đất bị thu hồi.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất được thực hiện bởi bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật. Theo đó, hình thức đầu tiên có thể kể
đến là tuân thủ pháp luật. Hình thức thứ hai là sử dụng pháp luật, ở hình thức
này, các chủ thể thực hiện pháp luật như đã nêu ở trên, đặc biệt là chủ thể có
đất bị thu hồi bằng những hành vi mang tính chủ động nhằm sử dụng những
khả năng pháp luật cho phép trong việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của mình. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy định điều kiện để tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi để sử dụng cho mục đích quốc
phịng, an ninh là họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Bằng quyền này, họ chủ động chứng
minh nguồn gốc đất trên cơ sở giấy tờ đó để được hưởng quyền được bồi
thường và hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Sự từ chối bồi thường, hỗ trợ

22


trong trường hợp này của Nhà nước thì bằng quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân được Hiến Pháp và Luật đất đai ghi nhận, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
chủ động thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện về hành vi vi phạm
để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tiếp đó, hình thức thứ ba
của thực hiện pháp luật là thi hành pháp luật, hình thức thứ tư là áp dụng
pháp luật. Nếu như sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật gắn với
quyền của chủ thể thì hình thức thi hành và chấp hành pháp luật gắn với nghĩa
vụ của chủ thể. Theo đó, các quy định của pháp luật liên quan đến quy trình,

thủ tục và nội dung về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ phải được các cơ quan
làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng tuyệt đối tuân thủ, chấp hành. Cùng với
đó, một khi các quyết định và quy trình đó được thực hiện đúng thì buộc các
chủ thể có đất bị thu hồi phải chấp hành. Mọi sự chống đối hay gây cản trở
đều là hành vi trái pháp luật. Và theo đó, hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật sẽ khơng cao. Việc chấp hành và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất còn bao hàm cả trách nhiệm của các cơ quan thực
hiện chức năng bồi thường, hỗ trợ cũng như các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
khơng làm những gì luật đã cấm. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy
định biện pháp cưỡng chế đối với người có đất bị thu hồi chỉ đặt ra và thực
hiện sau cùng sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp về hành chính, kinh tế,
giáo dục và thuyết phục, song các cơ quan công quyền lại làm dụng quyền
này, bằng quyền lực của mình áp dụng các biện pháp cưỡng chế ngay sau khi
ra quyết định thu hồi đất mà chưa áp dụng các biện pháp khác nêu trên.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
1.2.2.1. Thực hiện ban hành các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 như:

23


×