Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận hải an thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.05 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ




…/







/



HỌC VIỆ
HÀNH
CHÍNH
QUỐC
GIA

LÊ VĂN

T
HỰC
HIỆ
N


PHÁ
P
LUẬ
T VỀ
BỒI
THƢ


ỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC,
HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN - THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ
LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ




…/








/



HỌC
VIỆN
HÀNH
CHÍNH
QUỐC
GIA

LÊ VĂN

TH
ỰC
HIỆN
PHÁP
LUẬT
VỀ
BỒI
THƢ
ỜNG,
HỖ
TRỢ
ĐỐI



VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ
NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI
ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI
AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH
CHÍNH Chuyên ngành: Luật
Hiến pháp và luật Hành chính Mã
số : 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ
PHƢỢNG

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin trong Luận văn là trung thực, có tiếp thu và sử dụng những ý
tưởng khoa học của các tác giả có bài nghiên cứu liên quan. Những phần trích
dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả

Lê Văn Cường



LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc
gia, Khoa sau đại học cùng các thầy, cô giáo giảng dạy chương trình cao học
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính đã giúp đỡ, tạo điều kiện
cho em trong suốt quá trình học tập, có những kiến thức lý luận và thực tiễn
vô cùng quý giá trong 2 năm học làm cơ sở cho em hoàn thành luận văn
“Thực hiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ đối với tổ chức hộ gia đình cá
nhân khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, Thành phố Hải
Phòng”.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng –
Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, quan tâm, tạo điều kiện cho em trong
suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn cảm ơn lãnh đạo Công an quận Hải An, UBND quận Hải
An đã tạo mọi điều kiện, quan tâm giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.

Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình nghiên cứu không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những
đánh giá, nhận xét và góp ý của các thầy, cô để luận văn của em hoàn chỉnh và
đầy đủ hơn.
Hà nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

Lê Văn Cƣờng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT...................................................................9
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất......................................................................................... 9
1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất......19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất.................................................................................29
Kết luận Chương 1.......................................................................................... 33
Chương 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG..........................................................................................34
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hải An,
thành phố Hải Phòng có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.........................................................34
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận
Hải An, thành phố Hải Phòng..........................................................................37
Kết luận chương 2........................................................................................... 63
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG...............................................65
3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng..................65
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất....................................................................................... 68
KẾT LUẬN..................................................................................................... 82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 85
PHỤ LỤC........................................................................................................88


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An..................................42
Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại......................................................... 52
Bảng 2.3 Tình hình giải quyết kiến nghị.........................................................52
Bảng 2.4 Tình hình giải quyết tố cáo.............................................................. 52


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Với một nước có khoảng gần 70% dân số làm nông nghiệp như Việt
Nam thì đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm đặc
biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ
gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành
giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính
sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của
nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;
dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân
hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất – kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.
Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,

giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều
trường hợp, người dân do không đồng tình với phương án bồi thường của Nhà
nước đã không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công
trình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực
đến môi trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi
thường, người bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông
người và khiếu kiện vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã
hội v.v... Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa
đổi và bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiệu quả của
những giải pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được
ban hành dường như chưa phù hợp với thực tiễn. Các tranh chấp, khiếu kiện

1


liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia
tăng cả về số lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung.
So với các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng thì quận Hải
An có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
của Thành phố. Đặc biệt, kể từ năm 2003 quận Hải An chính thức được thành
lập, sau gần 15 năm đến nay quận đã và đang trên đà phát triển để trở thành
khu trung tâm kinh tế lớn mạnh của thành phố Hải Phòng. Hiện nay trên địa
bàn Quận Hải An có 49 dự án lớn nhỏ đang được triển khai đồng loạt, với nhu
cầu sử dụng đất hiện tại là 120 ha. Đồng nghĩa với đó là số người dân, chủ
yếu là các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất cho các dự án lên đến
hơn 9000 hộ. Thực tế đó cho thấy, Quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng
đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện
việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật để thấy được nhu cầu của việc
thu hồi đất cũng như những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật

khi thu hồi, bồi thường mà những điều đó đã và đang trở thành rào cản, trở
ngại trong thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng.
Trong bối cảnh đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: "Thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An - Thành phố Hải Phòng"
để nghiên cứu trong chương trình tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến
pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng
của pháp luật đất đai. Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận văn đã có một
số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn
và được thể hiện ở những góc độ nhất định. Tiêu biểu là các công trình khoa
học nghiên cứu đã được công bố như sau:

2


Nguyễn Vĩnh Diện, “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ
(2012); Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”,
Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn Thị Tâm:“Pháp luật về thu hồi đất trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị
thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy,“Pháp luật về
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”; Luận văn
(2013) của Trần Phương Liên với nội dung “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp -Thực
trạng và hướng hoàn thiện".
Bên cạnh đó, còn có một số bài báo khoa học liên quan đến vấn đề trên
đây, được công bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành, như Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Tài chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế...như: Trần Quang Huy, “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp
chí Luật học, số 10/2010; Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để bảo
vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Doãn Hồng
Nhung (Chủ biên):“Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2013; Ngoài ra còn có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối với các quy
định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai sửa
đổi” của Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý
giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp
luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên

3


đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải
Phòng. Do đó, đề tài không trùng lặp với các công trình đã công bố.

Với mong muốn được tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi
tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất với thực tiễn áp dụng qua các vụ việc,
tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù hợp,
không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa ra

những nhận xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một
địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm
việc thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay và trong tương lai.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và quy
định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng
thực hiện quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nghiên cứu đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hoà lợi ích của
chủ thể thu hồi đất và người bị thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề chủ yếu sau:

4


Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường,

-

hỗ trợ và khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà


-

nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Qua đó, chỉ ra
các quy định phù hợp, chưa phù hợp; việc áp dụng pháp luật đúng hay không
đúng của các chủ thể thực hiện pháp luật trên địa bàn quận Hải An cũng như
những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật và nguyên nhân của nó
trong việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
-

Đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định của Pháp luật
Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng thực hiện các
quy định này trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
-

Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; so sánh với bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo các văn
bản pháp luật ban hành trước năm 2013.
Tập trung nghiên cứu vào việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

-


hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
-

Phạm vi thời gian: từ 2013 đến năm 2018

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1.

Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm

5


nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong
mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các
hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét
trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, đề tài còn vận dụng các biện pháp nghiên cứu

cụ thể sau đây:
-

Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu

thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nguồn thông tin
này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý
kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, các cơ quan liên
ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố, Uỷ ban nhân dân quận
Hải An và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thông
tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố
Hải Phòng từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.
-

Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử

dụng để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng.
Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình
bày trong luận văn.

6


-


Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý

các tài liệu, các số liệu mà tôi thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tôi có
được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
-

Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực

hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
quận Hải An, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án bồi thường, hỗ trợ
của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng
thành phố Hải Phòng và Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quận Hải An, một
số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất, người bị thu hồi đất, nhà đầu tư…
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so
sánh, logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
-

Hệ thống hoá và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực

tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, đặc biệt, phân tích, làm rõ cơ
chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân
tích làm rõ bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
-

Luận văn đã phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ


khi Nhà nước thu hồi đất, đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này
và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
-

Trên cơ sở đó, đề cập yêu cầu, định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể

hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
-

Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch

định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu

7


chuyên khảo cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý
đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.
7.

Cơ cấu luận văn

Luận văn được kết cấu gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thƣờng, hỗ
trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ
Để có cách hiểu toàn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ
“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu trên
nhiều phương diện khác nhau. Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường” được sử
dụng trong trường hợp một người nào đó có hành vi gây thiệt hại cho một
người khác phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành vi của
mình gây ra [11]. Hình thức bồi thường có thể là vô hình (xin lỗi) hoặc hữu
hình (bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật khác). Việc bồi thường có thể
do các quy định của pháp luật điều chỉnh hoặc do chính sự thỏa thuận giữa
các bên.
Riêng lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi nhà nước thu
hồi đất được ghi nhận từ rất sớm. Tại Nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959 của
Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại
Chương II đã đề cập việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.
Tiếp theo, Luật đất đai năm 1987 thuật ngữ “đền bù” được sử dụng thay cho
thuật ngữ “bồi thường”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm
2001, tại Điều 1, Khoản 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 27, Luật Đất đai năm 1993),
thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và thay thế thuật ngữ “đền bù”.

Thuật ngữ “bồi thường” tiếp tục được sử dụng tại Luật đất đai năm 2003 và 2013
và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013.

9


Đề cập khái niệm này Khoản 12, Điều 3, Luật đất đai năm 2013 đưa ra
cách giải thích như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất”.
[17]
Như vậy, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất chỉ diễn ra khi Nhà nước
thu hồi một diện tích đất nào đó vì lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Thực chất, đây chính là việc giải
quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người bị thu hồi đất và nhà đầu
tư. Do đó, việc bồi thường khi khi nhà nước thu hồi đất phải thực hiện theo
quy định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện, trình tự, thủ tục và nguyên tắc
thực hiện.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi khi nhà nước thu
hồi đất không giống với việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật dân
sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó không những phải đảm bảo lợi ích của người
bị thu hồi đất, mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của
người nhận lại quyền sử dụng đất sau khi thu hồi.
“Hỗ trợ” là việc khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có chính sách giúp
đỡ, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt
qua khó khăn khi bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
bao gồm: hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và
tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình,
cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch
vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư đối
với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân người Việt Nam định cư

ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm
kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất; hỗ trợ khác
[17, tr.49 -50]

10


1.1.2 Mục đích và yêu cầu của bồi thường, hỗ trợ
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức
tạp, vừa mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, vừa mang tính thời sự
cấp bách. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
những năm qua trên cả nước bước đầu đã tạo ra nhiều đổi mới cho khu vực
nông thôn, khu vực đô thị, ven đô thị như: Tạo bước chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, ngành nghề, thu hút đầu tư... góp phần đẩy nhanh
tiến trình hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội của địa phương, của vùng và cả
nước. Tuy nhiên, việc bồi thường thời gian qua đã gặp không ít khó khăn do
nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, vì vậy, việc bồi thường, hỗ trợ của nhà
nước những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đã gây ra
nhiều khiếu nại, khiếu kiện, bất ổn định về xã hội và tình hình trật tự trong cả
nước. Đặc biệt khi các cơ quan nhà nước thực hiện áp dụng giá bồi thường và
chính sách hỗ trợ chưa thống nhất trong cả nước nên đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng dân cư, nhất là trong việc
bồi thường về giá đất tại địa phương.
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được xem xét trên cơ sở
hàng loạt các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều kiện
kinh tế, xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác
thu hồi đất của các cấp, các ngành. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên
môn, các nhà lãnh đạo địa phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây
dựng kết cấu hạ tầng, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, giải quyết việc làm, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội, an

ninh quốc phòng trên địa bàn địa phương.
1.1.3. Các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.3.1. Điều kiện để được bồi thường
Theo quy định tại Điều 75 Luật đất đai, người bị Nhà nước thu hồi đất
có một trong những điều kiện sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất:

11


- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật
đất đai.
-

Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy

định của pháp luật đất đai.
-

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,

phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận
không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai bao gồm: giấy tờ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong quá
trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng
ký ruộng đất, sổ Địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử

dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với
đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với
đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ thanh lý, hóa
giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ
do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất [17]
-

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những loại giấy

tờ quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy
tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,
nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển
nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân
cấp xã xác nhận không có tranh chấp.

12


-

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú

tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải
đảo, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử
dụng đất ổn định, không có tranh chấp.
-

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy


tờ quy định như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày
15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó
không có tranh chấp.
-

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy

định của tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định
giải quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
-

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy

tờ kể trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời
điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy
hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm
quyển phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm
trái phép và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất
đó không có tranh chấp.
-

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà

nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá
nhân đó vẫn sử dụng.
-

Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, chùa, đền


miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu
hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

Ngoài ra, Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây cũng được
bồi thường:

13


- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng
đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả
việc chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
-

Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.

1.1.3.2. Điều kiện để được hỗ trợ
- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 1
Điều này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật đất đai.
-

Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất

sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không

bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) quy định tại các điểm d, đ và e
khoản 1 Điều này thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.”
-

Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các

điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định này
(trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm
trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các
nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc
được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:
-

Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong

bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi;

14


diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa
phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai.
-

Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều

kiện thực tế của địa phương.

-

Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất

không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất mà ứng trước kinh phí
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được tham gia trong quá trình tổ
chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”
-

Đối với dự án đầu tư đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê

duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng đến trước ngày 01-7- 2014 chưa thực hiện chi trả tiền bồi
thường thì việc xử lý bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật
về đất đai trước ngày 01 -7- 2014.
-

Đối với dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung

chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước ngày 01-7- 2014 nhưng địa
phương chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chính
sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 có thay
đổi so với khung chính sách đã được phê duyệt thì bộ, ngành có dự án đầu tư
có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ, ngành có dự án
đầu tư phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án tổ chức thực hiện
sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”
1.1.4. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các chế định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất
đai năm 2003 trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang
tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát

sinh trong việc bồi thường tại các địa phương, các Bộ, các ngành. Để khắc
phục những vấn đề này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc

15


bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nguyên tắc bồi thường về tài sản,
ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành hai điều luật riêng
biệt:
Thứ nhất, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:
-

Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất sẽ được bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an
ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng không
phải tất cả các chủ thể sử dụng đất bị thu hồi vào các mục đích này đều được
bồi thường. Để được bồi thường họ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất
định do pháp luật quy định, chẳng hạn, họ phải có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất hoặc có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận,..
Còn đối với trường hợp người sử dụng đất không đủ điều kiện được bồi
thường thì họ sẽ được xem xét hỗ trợ. Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà
còn là nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm chính trị của Nhà nước, bởi lẽ, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người người dân chính là bảo đảm sự phát triển bền
vững của đất nước và thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội.
-

Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử


dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất thì
người sử dụng đất được bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất cùng
loại thì bồi thường bằng giá trị tương đương. Giá đất là số tiền tính trên một
đơn vị diện tích đất do UBND cấp tỉnh nơi có đất quyết định tại thời điểm thu
hồi đất. Đây là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho người bị
thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính

16


xác, thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, thế nào được coi là hợp lý bởi người
dân luôn muốn đất của mình có giá cao còn giá bồi thường do Nhà nước quy
định thường thấp hơn so với giá thị trường. Mâu thuẫn về giá đất ảnh hưởng
lớn đến công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, là nguyên nhân chủ yếu
làm nảy sinh khiếu nại, khiếu kiện khi thu hồi đất. Giá đất để tính bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất là căn cứ quan trọng để thực hiện việc bồi thường
cho người bị thu hồi; là nội dung chủ yếu giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất về lợi ích kinh tế.
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Đây không chỉ là nguyên tắc trong quá trình bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất mà cũng là mục đích hướng đến của quá trình này. Việc bồi
thường đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và
đúng pháp luật sẽ giải quyết triệt để, hài hoà quan hệ lợi ích giữa Nhà nước,
nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, đảm bảo cho pháp chế xã hội chủ
nghĩa được thực thi, niềm tin và sự đồng thuận của người dân bị thu hồi đất
với Nhà nước sẽ được củng cố, đảm bảo ổn định xã hội, phát triển kinh tế.

Thứ hai, nguyên tắc bồi thường về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh
khi Nhà nước thu hồi đất:
Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
Theo đó, để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất thì tài
sản đó phải gắn liền với đất thuộc về chủ sở hữu hợp pháp là người bị thu
hồi đất và tài sản đó phải xác định bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra. Đây là nguyên tắc rất cần thiết, bởi lẽ khi Nhà nước thu
hồi đất, tài sản mà họ đầu tư trên đất sẽ không còn tồn tại, không được

17


×