Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận cao học bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trên địa bàn quận hải châu, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.66 KB, 20 trang )

1

MỞ ĐẦU
Quyền con người là giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện hữu trong
nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong quá
trình thực hiện tố tụng hình sự, quyền con người được thể hiện rõ nét, đặc biệt thể
hiện là quyền của bị can, bị cáo. Quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đã
được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân
tộc và luôn được xác định như một u cầu có tính ngun tắc của nền tư pháp
kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách
mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo quyền của bị can, bị cáo ở
nước ta đã và đang từng bước được củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt
động thực tiễn nên đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá về sự công bằng, dân chủ và bình đẳng trong xã hội. Đặc biệt, trong điều
kiện đẩy mạnh cải cách hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư
pháp nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc quy định và bảo
đảm quyền con người, trong đó có quyền của bị can, bị cáo.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Địi hỏi của cơng dân và xã hội đối
với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa
của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả
với các loại tội phạm và vi phạm”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định:
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ
pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân.


2



Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy mặc
dù pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng quyền của bị
can, bị cáo chưa được triệt để tôn trọng, tình trạng vi phạm các quyền của bị can, bị
cáo cịn xảy ra nhiều. Những vi phạm đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất
cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng,
các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người tiến hành tố
tụng đối với cơng dân... Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con
người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng
pháp luật có vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong cơng cuộc cải cách tư pháp nói
riêng ở nước ta.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà cũng như Viện kiểm sát các địa
phương khác trong cả nước thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, không ngừng
vươn lên trong hoạt động kiểm sát, thực hiện theo tinh thần cải cách tư pháp
chung, đồng thời cụ thể hoá trong hoạt động kiểm sát, nhằm bảo đảm Viện kiểm
sát giữ vững công lý, đảm bảo công bằng xã hội, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, bảo đảm trong giải quyết án hình sự phải
quyết định truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có như thế, quyền con
người mới được đảm bảo và thể hiện được sự bình đẳng trước pháp luật.
Xuất phát từ tình hình trên, tơi chọn: “Bảo đảm quyền con người của bị
can, bị cáo trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng” làm Tiểu luận kết
thúc môn học Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong Chương trình hồn chỉnh Cao cấp Lý luận chính trị của mình.


3

CHƯƠNG 1
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG,

NHÀ NƯỚC TA VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm về quyền con người
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên quyền con người
luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả về phương
diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng khu
vực và mang tính tồn cầu.
Quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư tưởng từ thời cổ đại đặt
ra và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của lịch
sử nhân loại. Quyền con người trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên
mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo
vệ nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là quyền con người, mà
để đạt đến cái gọi là “quyền” thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được
pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều
chỉnh của pháp luật, mới trở thành quyền con người.
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, chủ nghĩa Mác
đã xác định: con người là “con người xã hội”, bản chất của con người trong tính
hiện thực của nó là sự “tổng hồ các quan hệ xã hội”, cho nên quyền con người thể
hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản chất đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã chia
quyền con người theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người thành các
nhóm:
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: Quyền bầu cử, ứng
cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng nam nữ;
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền được thơng tin; quyền tự do tín
ngưỡng…


4

- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do đi lại

và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất
khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an tồn và
bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo ...
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: Quyền lao động; quyền tự
do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập; quyền nghiên
cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được bảo vệ hơn
nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền người già ...
1.2. Quyền con người theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hố
dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được thế giới
thừa nhận rộng rãi. Xuất phát từ những quan điểm đó:
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đặt ra nhiệm vụ: Đẩy
mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp
trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng vẫn khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong q trình xây dựng và hồn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đảng và Nhà nước
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời


5


gian tới, trong đó đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp. Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó xác định rõ mục
tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp” khẳng
định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các
cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”. Ngoài
ra quyền con người quy định trong Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước về
bồi thường thiệt hại cho cá nhân do người thi hành cơng vụ trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người được cụ thể hóa
trong Hiến pháp năm 2013:
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6,
gồm 11 chương, 120 Điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, giảm 01 chương và 27
điều so với Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên trong Hiến pháp năm 1992 có 34 Điều
nói về quyền con người, quyền cơng dân thì Hiến pháp năm 2013 có đến 36 Điều
nói về quyền con người, quyền cơng dân. Hiến pháp năm 2013 đã quy định bao
quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con
người. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng
dân tại chương V thì ở Hiến pháp năm 2013 chương về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương II, chỉ xếp sau chương về chế độ chính trị.
Đây khơng phải là sự ngẫu nhiên hoặc cơ học mà đây là một điểm mới, thể hiện
tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn
các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc


6

bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ
của Nhà nước ta.

Tại Điều 14 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". So với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến
pháp năm 2013 quy định rõ quyền con người, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế trong
một số trường hợp nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con người, quyền
công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thay cụm từ "mọi công
dân" thành "mọi người", cụ thể tại Điều 16 quy định "Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội". Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính
mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp
luật" tại Điều 19 Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền
hiến mơ, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm
y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể
người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”. Đây là điểm mới so với
Hiến pháp năm 1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến
xác của mọi người để chữa bệnh cho người thân, cũng như đề cao vai trò của bộ
phận cơ thể người phục vụ cho việc nghiên cứu, chữa bệnh trong y học hiện nay.
Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể và bổ
sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các Điều 65, 66, 67 và bổ


7

sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53 Hiến

pháp năm 1992 quy định về cơng dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu
ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Cơng dân đủ mười tám tuổi trở lên có
quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”…
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo
hướng ghi nhận mọi người có quyền, cơng dân có quyền và quyền con người là
quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền cơng dân là quyền của người có
quốc tịch Việt Nam… Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình thì Hiến
pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp
luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các
quyền của mình.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động
lực quan trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Quyền con người còn được quy định trong các văn bản pháp luật khác: Bộ
luật hình sự, Luật bồi thường trách nhiệm nhà nước...


8

CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
Ở QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Vấn đề đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo ở quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng thời gian qua
2.1.1. Trong áp dụng biện pháp ngăn chặn

Theo số liệu thống kê năm 2012, 2013, 2014, 2015 và 2016 tại địa bàn thành
phố Đông Hà cho thấy tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng
phổ biến nhất; tiếp theo là cấm đi khỏi nơi cư trú; còn các biện pháp ngăn chặn
khác như bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm rất ít được áp dụng. Số bị can,
bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khơng có. Trong q trình giải quyết
vụ án có khoảng 22,5% người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thay đổi biện pháp
ngăn chặn. Trong đó, người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng được thay đổi
biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp ngăn chặn khác như: Bảo lĩnh;
ngược lại, đa số người phạm tội rất nghiêm trọng (ở cấp huyện khơng có án đặc
biệt nghiêm trọng) lại bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thay cho cấm đi
khỏi nơi cư trú. Cụ thể:
* Số liệu năm 2012:
- Tổng số người bị tạm giữ : 120 người, trong đó: bắt khẩn cấp 74 người,
quả tang 36 người, truy nã 01 người, đầu thú: 09 người. Xử lý: Khởi tố chuyển tạm
giam 95 người. Khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn khác: 25 người.
- Tổng số người bị tạm giam: 162 người, trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 95 người, bắt bị can để tạm giam 67 người.
* Số liệu năm 2013:


9

- Tổng số người bị tạm giữ: 100 người, trong đó bắt khẩn cấp 53 người, quả
tang 30 người, truy nã: 01 người, đầu thú 10 người. Xử lý: Khởi tố chuyển tạm
giam 89 người, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác 11 người.
- Tổng số người bị tạm giam: 123 người, trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 89 người, bắt bị can để tạm giam 34 người.
* Số liệu năm 2014:
- Tổng số người bị tạm giữ : 87 người, trong đó bắt khẩn cấp 22 người, quả
tang 44 người, truy nã: 02 người, đầu thú 19 người. Xử lý: Khởi tố chuyển tạm

giam 75 người, áp dụng biện pháp khác cấm đi khỏi nơi cư trú 12 người.
- Tổng số người bị tạm giam: 99 người, trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 75 người, bắt bị can để tạm giam 24 người.
* Số liệu năm 2015:
- Tổng số người bị tạm giữ : 49 người, trong đó bắt khẩn cấp 23 người, quả
tang 23 người, đầu thú 03 người. Xử lý: Khởi tố chuyển tạm giam 45 người, áp
dụng biện pháp khác cấm đi khỏi nơi cư trú 04 người.
- Tổng số người bị tạm giam: 130 người, trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 45 người, bắt bị can để tạm giam 85 người.
* Số liệu năm 2016:
- Tổng số người bị tạm giữ : 49 người, trong đó bắt khẩn cấp 17 người, quả
tang 23 người, truy nã 01 người, đầu thú 08 người. Xử lý: Khởi tố chuyển tạm
giam 47 người, áp dụng biện pháp khác cấm đi khỏi nơi cư trú 02 người.
- Tổng số người bị tạm giam: 102 người, trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 47 người, bắt bị can để tạm giam 55 người.
Theo chúng tôi, sở dĩ tỷ lệ bị can, bị cáo (đặc biệt là các bị can, bị cáo phạm
tội rất nghiêm trọng) bị áp dụng biện pháp tạm giam cao và ít được thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác, là vì căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam liên quan đến
nhận định chủ quan của người áp dụng còn chưa thật rõ ràng; đối với loại tội rất


10

nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 88
Bộ luật Tố tụng hình sự trong mọi trường hợp người có thẩm quyền đều có thể áp
dụng tạm giam mà khơng cần thêm bất kỳ một căn cứ nào khác. Do căn cứ áp dụng
như vậy lại trong điều kiện điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn rộng, cho nên
khơng ít trường hợp việc áp dụng tạm giam đối với bị can, bị cáo rất tiện lợi cho
tiến hành tố tụng nhưng vẫn khơng trái pháp luật. Hơn nữa, tính chất cưỡng chế
của các biện pháp ngăn chặn không giam giữ khơng rõ ràng cộng với thói quen “đã

phạm tội là phải bị bắt giam” vẫn tồn tại ở nhiều người, trong dư luận xã hội và
thậm chí ở một số những người tiến hành tố tụng nên cũng dẫn đến tình trạng trên.
Cịn đối với các vụ án về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, tỷ lệ bị can, bị cáo bị
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thấp hơn; sau khi khởi tố, số bị can được
thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác nhiều hơn
là vì căn cứ áp dụng chặt chẽ hơn. Để quyết định tạm giam bị can, bị cáo thì người
có thẩm quyền phải có căn cứ cho rằng người đó có thể tiếp tục phạm tội, có thể
trốn hoặc cản trở việc xét xử; nếu các căn cứ đó khơng cịn thì Tịa án phải hủy bỏ
biện pháp tạm giam đã áp dụng trước đó. Ngồi ra, trong trường hợp nếu bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù khơng q hai năm thì không được áp dụng tạm giam đối với họ.
Qua nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tiến hành tố
tụng hình sự, từ góc độ bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo, thấy còn một
số hạn chế, bất cập như sau:
- Thứ nhất, theo chúng tơi có tình trạng q lạm dụng biện pháp tạm giam.
Tỷ lệ bị can, bị cáo bị tạm giam chiếm tỷ lệ khá cao. Nhiều trường hợp, căn cứ tạm
giam chưa được thể hiện cụ thể. Nhìn chung trong quá trình điều tra vụ án, khi đề
nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định tạm giam, đa số các trường hợp trong
công văn yêu cầu đều ghi căn cứ chung chung như “để đảm bảo cho công tác điều


11

tra, xử lý”, “thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can, không để bị can trốn”,
“không để bị can tiếp tục phạm tội”… mà ít đưa ra được những căn cứ cụ thể.
- Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng đang lúng túng trong việc áp dụng
thời hạn tạm giam trong trường hợp đồng phạm mà các bị can, bị cáo phạm tội
thuộc các loại khác nhau, cho nên thời hạn tố tụng cũng được quy định khác nhau.
Thực tiễn hiện nay đi theo hướng thời hạn tố tụng nói chung, tạm giam nói riêng
được thực hiện theo tội nặng nhất trong vụ án đó.

- Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn khơng giam giữ rất ít được áp dụng trên
thực tế. Số bị can bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư
trú chỉ vào khoảng dưới 17% .
2.1.2. Trong điều tra, truy tố, xét xử
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta, đặc biệt là Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định rất cụ thể, chặt chẽ trình tự, thủ tục tố tụng trong giải quyết vụ án
hình sự để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử khách quan, chính xác, bảo
đảm quyền con người nói chung, quyền con người của bị can, bị cáo nói riêng.
a. Đảm bảo quyền của bị can trong điều tra các vụ án hình sự
Nhằm tăng cường cơng tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra, ngay từ đầu Viện kiểm sát chủ động kiểm sát chặt chẽ từ khi mới
khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Kiểm sát viên được phân công đã nghiên cứu kỹ hồ
sơ đề nghị phê chuẩn khởi tố bị can, việc áp dụng thay đổi biện pháp ngăn chặn,
kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ, tham gia khám nghiệm hiện
trường, tử thi. Một số vụ án có tính chất phức tạp, bị can là người chưa thành niên
phạm tội, kiểm sát viên đã trực tiếp cùng điều tra viên tiến hành lấy lời khai.
Trong hoạt động điều tra, nhìn chung chất lượng các hoạt động điều tra như
khởi tố bị can, thực hiện các biện pháp điều tra, nhất là các biện pháp điều tra liên
quan đến cưỡng chế tố tụng luôn được đảm bảo. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can


12

có căn cứ; các thời hạn tố tụng nhìn chung được bảo đảm, ít bị vi phạm; kết thúc
điều tra đề nghị truy tố tất cả các trường hợp là có căn cứ, đúng pháp luật.
* Tổng số bị can bị khởi tố điều tra trong 5 năm từ năm 2012 đến hết năm
2016: Tổng số thụ lý kiểm sát điều tra: 430 bị can, Cơ quan điều tra đã giải quyết:
422 bị can. Trong đó: Kết thúc điều tra đề nghị truy tố: 417 bị can; đình chỉ: 05 bị
can, lý do người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố theo quy định tại Điều 105 Bộ luật
tố tụng hình sự.

b. Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo trong hoạt động truy tố
Viện kiểm sát đã thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Cụ thể:
Viện kiểm sát đã chủ động kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi nắm được tin báo
tội phạm, Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án đã thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra nghiên cứu kỹ hồ sơ trước
khi đề nghị phê chuẩn khởi tố bị can nhằm hạn chế tối đa việc bắt, khởi tố oan sai,
làm oan người vô tội. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra đã kiểm
tra, đánh giá tổng hợp tất cả các tài liệu trong hồ sơ. Chính vì vậy trong những năm
qua trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng không xảy ra trường hợp bắt
người oan, sai. Hoạt động truy tố của Viện kiểm sát được thực hiện theo đúng các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
góp phần bảo đảm có hiệu quả quyền con người của bị can.
Từ năm 2012 đến năm 2016 tổng số bị can bị Viện kiểm sát truy tố chuyển
Tòa án xét xử: 417 bị can.
c .Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nhìn chung Tịa án đã thực hiện tốt các thủ
tục, quyền hạn mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Việc bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo được thực hiện tốt. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thể hiện chủ trương cải cách tư pháp


13

như bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án; tăng cường tranh tụng tại phiên tòa;
người tham gia tố tụng nhất là bị cáo được đảm bảo thực hiện các quyền tố tụng
theo quy định; bản án, quyết định của Tòa án được xuất phát từ kết quả tranh tụng
tại phiên tòa… Trong những năm qua trên địa bàn thành phố Đông Hà chưa để xảy
ra trường hợp Viện kiểm sát truy tố, Tịa xét xử tun khơng phạm tội. Các quyền
của bị cáo được đảm bảo. Chính những điều này đã thể hiện cụ thể việc đảm bảo

quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự.
Cùng với những ưu điểm trên, từ góc độ tơn trọng và bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, theo tôi trong việc thực hiện các thủ tục
tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đơng Hà chúng tơi
nói riêng và cả nước nói chung cịn có những hạn chế và bất cập sau đây:
- Chất lượng thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát cịn những hạn chế
nhất định. Đặc biệt, chất lượng hoạt động buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa
còn nhiều hạn chế, nhất là trong xét hỏi, trong tranh luận để bảo vệ sự buộc tội;
nhiều khi những nhiệm vụ này lại do Hội đồng xét xử thực hiện. Bởi vì, khi Viện
kiểm sát hạn chế trong bảo vệ sự buộc tội mà Tòa án chỉ ra bản án trên cơ sở buộc
tội tại phiên tịa thì sẽ dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm; nhưng nếu Tòa án “lấn sân”
Viện kiểm sát thì sẽ dễ dẫn đến xâm phạm quyền con người của bị cáo.
- Cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là cơ quan điều tra ngại sự có mặt người
bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, cịn có những trường hợp gây
khó khăn cho người bào chữa trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình.
Các vi phạm phổ biến là gây khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận người bào
chữa, trong việc tiếp xúc với bị can, bị cáo, trong việc có mặt trong các cuộc hỏi
cung bị can, trong việc nghiên cứu và ghi chép hồ sơ, tài liệu của vụ án.
- Về điều luật áp dụng khơng chính xác:
+ Chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự,
nhưng lại áp dụng Điều 47 xử phạt bị cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung


14

hình phạt đã truy tố (Sai với hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao).
+ Có vụ án vừa áp dụng tình tiết định khung nhưng lại vừa áp dụng tình tiết
tăng nặng.
+ Các trường hợp bị cáo có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1, Điều 46 Bộ luật tố

tụng hình sự nhưng Tịa án khơng xem xét quyết định áp dụng cho bị cáo.
+ Việc xử phạt tù cho hưởng án treo nhưng không thực hiện đúng theo
hướng dẫn tại Nghị Quyết số 01/2013 ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tịa án nhân dân tối cao. Một số Tồ án cấp sơ thẩm vẫn còn tuỳ tiện khi áp dụng
pháp luật.
Tóm lại, bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng, luôn được
Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác
nhau như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự... Nhà nước đã
chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, coi đó như
những chế định quan trọng và là mục tiêu chủ yếu của chế độ ta. Bộ luật tố tụng
hình sự của nước ta đã ghi nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua
nhiều chế định khác nhau. Các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam là một trong các
quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân và của cả bị
can, bị cáo, của người bị bắt. Tất cả những quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố
tụng hình sự về bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
bản án có hiệu lực của tịa án đều nhằm góp phần phát huy dân chủ, tăng cường
hơn nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và giàu mạnh.
2.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trên địa bàn
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến
Qua phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự và nghiên cứu thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn quận Hải Châu,


15

thành phố Đà Nẵng, thấy rằng một trong những nguyên nhân chính của việc xâm
phạm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự xảy ra là do những
bất cập trong các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, việc hồn thiện các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có liên quan là một trong những giải pháp

quan trọng bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Cụ
thể:
2.2.1. Tiếp tục đổi mới các cơ quan tư pháp
Hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay bao gồm Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án và cơ quan thi hành án. Đây là các cơ quan nhà nước trực
tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng để bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các công dân, tổ chức. Cho nên, việc xây dựng và hoàn thiện về
cơ cấu, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp là một trong những
nội dung quan trọng nhất để đảm bảo thực hiện quyền tư pháp nói chung và bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Đồng thời cũng là cơ sở để đảm
bảo thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán và Hội thẩm, Luật sư
Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào sự
hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc
rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường
hợp cụ thể. Đặc biệt, trong Bộ luật tố tụng hình sự nhiều quy định được áp dụng
hay khơng lại tùy thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền. Vì vậy,
có thể nói tăng cường nhận thức, trình độ chun mơn nghiệp vụ, trình độ văn hóa
ứng xử cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên Cơ quan điều tra, Viện


16

trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án,
Thẩm phán, Thư ký Tịa án, Hội thẩm nhân dân là giải pháp quan trọng đảm bảo
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đáp ứng yêu cầu tôn trọng và bảo đảm quyền

con người nói chung, quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Theo
chúng tơi, để thực hiện giải pháp này cần tiến hành các biện pháp sau đây:
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là
kỹ năng tố tụng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm.
Những người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quy định
của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người. Đặc biệt là quyền con
người được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam năm 2015 .
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp luật, nhất là chính
sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, quan điểm bảo đảm quyền
con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho cán bộ cơ quan tiến
hành tố tụng các cấp.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, Tòa án cấp
trên đối với hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động xét xử của Viện kiểm sát, Tòa án
cấp dưới nhằm phát hiện các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm đến
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có biện pháp khắc phục về
tố tụng như kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để hủy các bản án, quyết định tố
tụng có vi phạm. Trên cơ sở hoạt động thanh tra, kiểm tra của Viện kiểm sát, Tòa
án cấp trên đối với Viện kiểm sát, Tòa án cấp dưới, hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo… cần chú trọng hơn nữa tới việc kiểm tra văn hóa xét xử, kỹ năng tố tụng
để có thơng báo rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng, tăng
cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời
với việc nâng cao trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng, Nhà nước ta cũng
cần có các biện pháp tăng cường đội ngũ luật sư về tổ chức, số lượng cũng như


17

chất lượng, nâng cao vị thế luật sư trong tố tụng hình sự, bảo đảm vai trị quan
trọng của luật sư trong bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo.
2.2.3. Tăng cường hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự
Để đảm bảo quyền con người, cùng với việc hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
những quy định mới nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được chính xác, khách
quan và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, cần phải
có các văn bản áp dụng pháp luật để tăng cường việc hướng dẫn áp dụng thống
nhất các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới của các cơ quan có thẩm quyền.
Theo tơi, trước mắt các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung hướng dẫn một số
vấn đề sau đây:
- Hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: bảo lãnh,
Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nhằm giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng mạnh dạn tăng cường áp dụng các biện pháp
này.
- Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có hướng
dẫn thống nhất về trình tự phiên tịa hình sự. Theo quy định của điều 197 Bộ luật tố
tụng hình sự thì chủ tọa chịu trách nhiệm điều khiển phiên tòa. Thế nhưng trong
thực tiễn, nhiều trường hợp Kiểm sát viên không tuân theo sự điều khiển của chủ
tọa phiên tịa, thực hiện việc xét hỏi, phát biểu khơng xin phép chủ tọa; thậm chí có
khi điều khiển phiên tòa thay cho chủ tọa như nhắc nhở, chấn chỉnh người tham dự
phiên tịa, duy trì trật tự phiên tịa…
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần hướng dẫn cụ thể, thống nhất về một số
kỹ năng, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người của bị can, bị cáo.
2.2.4. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với người tiến hành tố tụng


18

Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trước công dân là giải pháp quan trọng
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của cơng dân. Nhà nước khơng chỉ có

trách nhiệm trong việc ban hành pháp luật và duy trì để pháp luật về quyền công
dân được thực hiện trên thực tế, mà còn xử lý các vi phạm pháp luật bằng các chế
độ trách nhiệm khác nhau. Vì vậy, việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng cũng là giải pháp cần thiết để bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự. Trước hết cần hồn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với
các hành vi xâm phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, trong
xét xử vụ án hình sự nói riêng. Từng bước hồn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự theo Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước. Hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm quyền
con người trong tố tụng hình sự.


19

KẾT LUẬN
Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và
“quyền xã hội”, tất yếu cần được pháp luật bảo vệ. Tôn trọng và bảo đảm quyền
con người là một trong những đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam luôn coi con người là vị trí trung tâm trong mọi chính sách kinh tế,
xã hội và tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Nhà nước bảo đảm thực hiện
quyền con người bằng các biện pháp lập pháp cũng như thi hành pháp luật, các
biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, cán bộ, công
chức trong việc bảo vệ các quyền con người, các biện pháp xử lý vi phạm quyền
con người, các biện pháp bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và các
biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà nước.
Từ những vấn đề lý luận về quyền con người và thực tiễn bảo đảm quyền
con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự ở quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng, hy vọng đây là một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm quyền con người của bị

can, bị cáo trong tố tụng hình sự ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng nói riêng và
cả nước nói chung.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII. NXB CTQG, HN.
3. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
5. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
6. Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020.
7. Kết luận số 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về đề án đổi mới tổ
chức và hoạt động của ngành Tòa án, Viện Kiểm sát và Cơ quan điều tra theo
lộ trình cải cách Tư pháp đến năm 2020.



×